Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.13 KB, 16 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, vốn là điều kiện không thể thiếu để thành lập
một doanh nghiệp và tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn còn phản ánh nguồn
lực tài chính của doanh nghiệp để đầu tư vào một số loại hình sản xuất, kinh doanh. Mọi
doanh nghiệp đều có nhu cầu về vốn để vận hành và phát triển. Tuy nhiên, nguồn vốn tự có
không đủ để đảm bảo nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tìm kiếm
nguồn cung ứng vốn để đảm bảo ổn định và đủ mạnh. Nhiệm vụ của doanh nghiệp là phải
huy động vốn và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc
quản lý tài chính và chấp hành pháp luật của Nhà nước. Công ty cổ phần là loại hình đặc
trưng của công ty đối vốn nên các quy định về vốn có ý nghĩa rất quan trọng. Để hiểu hơn
về vấn đề này, em xin chọn đề tài: “Tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của công ty cổ
phần”.

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về công ty cổ phần (CTCP) và một số vấn đề về huy động vốn của
CTCP
1. Khái niệm về CTCP
Trong khoa học pháp lý, hệ thống pháp luật của các quốc gia khác nhau lại có định
nghĩa khác nhau về công ty cổ phần. Pháp luật hiện hành Việt Nam chưa đưa ra định nghĩa
cụ thể về CTCP mà chỉ đưa ra những dấu hiệu để nhận biết CTCP. Theo đó, khoản 1 Điều
77 Luật Doanh nghiệp năm 2005 có quy định rõ:
“Công ty cố phần là doanh nghiệp, trong đó:
a) Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
b) Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không
hạn chế số lượng tối đa;
c) Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của
doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
1


d) Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ


trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này”.

2. Khái niệm, đặc điểm và cấu trúc vốn của CTCP
Vốn của doanh nghiệp nói chung là giá trị được tính bằng tiền của những tài sản thuộc
quyền sở hữu hoặc sở hữu hợp pháp của doanh nghiệp, được doanh nghiệp sử dụng trong
kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vốn được quan niệm là toàn bộ những
giá trị ứng ra ban đầu và quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp. Như vậy, vốn là
yếu tố số một của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải
quản lý và sử dụng có hiệu quả để bảo toàn và phát triển vốn, đảm bảo cho doanh nghiệp
ngày càng lớn mạnh. Vì vậy, các doanh nghiệp cần nhận thức đầy đủ hơn về vốn và đặc
trưng của vốn. Điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp vì chỉ khi nào các doanh
nghiệp hiểu rõ được tầm quan trọng và giá trị của vốn thì doanh nghiệp mới có thể sử dụng
nó một cách hiệu quả được.
Các đặc trưng cơ bản về vốn:
- Vốn phải đại diện cho một lượng tài sản nhất định; có nghĩa là vốn được biểu hiện
của giá trị tài sản hữu hình và tài sản vô hình của doanh nghiệp;
- Vốn phải vận động sinh lời, đạt được mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp;
- Vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát huy tác
dụng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh;
- Vốn có giá trị về mặt thời gian, điều này rất có ý nghĩa khi bỏ vốn đầu tư và tính
hiệu quả của đồng vốn;
- Vốn phải gắn liền với chủ sở hữu nhất định, không thể có đồng vốn vô chủ không có
ai quản lý;
- Vốn được quan niệm như một loại hàng hóa và là một hàng hóa đặc biệt có thể mua
bán quyền sử dụng vốn trên thị trường, tạo nên sự giao lưu sôi động trên thị trường vốn, thị
trường tài chính;
2


- Vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền của các tài sản hữu hình mà còn biểu hiện bằng

tiền của những tài sản vô hình (tài sản vô hình của doanh nghiệp có thể là vị trí kinh doanh,
lợi thế trong sản xuất, bằng phát minh sáng chế...)
Căn cứ vào nguồn gốc hình thành vốn, vốn của CTCP được chia thành: vốn chủ sở hữu
(vốn tự có) và vốn tín dụng (vốn vay).
Vốn chủ sở hữu là nguồn gốc vốn thuộc sở hữu của công ty, được hình thành từ nguồn
gốc đóng góp của cổ đông và vốn do công ty cổ phần tự bổ sung từ lợi nhuận của công ty.
Vốn tín dụng là nguồn vốn hình thành từ việc đi vay dưới các hình thức khác nhau như
vay ngân hang, vay của các tổ chức, cá nhân khác, hoặc vay bằng cách phát hành trái
phiếu.

3. Huy động vốn trong CTCP
Các chủ thể kinh doanh thường muốn có nguồn vốn lớn để mở rộng quy mô sản xuất
kinh doanh. Công ty cổ phần có hai cách để huy động vốn: tăng vốn chủ sở hữu và tăng
vốn vay. Công ty cổ phần khẳng định sự lý tưởng trong mô hinh kinh doanh của mình bằng
quyền phát hành chứng khoán được quy định trong khoản 3 điều 77 Luật doanh nghiệp
2005: “Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn”.
Trong các loại chứng khoán ấy, cổ phiếu là công cụ riêng của công ty cổ phần, nó đem lại
ưu thế rất lớn cho công ty cổ phần nhờ khả năng thu hút vốn dễ dàng: có thể huy động
được một nguồn vốn lớn do mở rộng đối tượng huy động; có thể giảm chi phí huy động
vốn do tiếp cận trực tiếp với người đầu tư…
Phần vốn của cổ đông có thể tự do chuyển nhượng thông qua việc chuyển quyền sở
hữu cổ phần (trừ trường hợp do pháp luật quy định) mà biểu hiện hình thức là chuyển
nhượng cổ phiếu. Tính chuyển nhượng cổ phiếu mạng lại cho nền kinh tế sự vận động
nhanh chóng của vốn đầu tư mà không phá vỡ tính ổn định của tài sản công ty. Việc
chuyển vốn dưới hình thức này rất dễ dàng và thuận lợi thông qua thị trường chứng khoán.
Mặt khác, cổ phần có mệnh giá nhỏ kết hợp với tính thanh khoản và chuyền nhượng đã
khuyến khích mọi tầng lớp dân chúng đầu tư.
3



Những đặc điểm cơ bản đó đã góp phần đưa công ty cổ phần trở thành một hình thức tổ
chức kinh doanh có khả năng huy động một số lượng vốn lớn ngầm chảy trong các tấng
lớp dân cư, khả năng tích tụ và tập trung vốn với quy mô khổng lồ có thể cọi là lớn nhất
trong các loại hình doanh nghiệp hiện nay.

II. Một số hình thức huy động vốn của CTCP
1. Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu (Vốn chủ sở hữu hay vốn tự có)
a. Khái niệm cổ phần, cổ phiếu
* Cổ phần
Cổ phần là phần chia nhỏ nhất vốn điều lệ của công ty, được thể hiện dưới hình thức cổ
phiếu. Cổ phần là khái niệm chỉ các chứng nhận hợp lệ về quyền sở hữu một phần đơn vị
nhỏ nhất của một cá nhân hay tổ chức trong CTCP. Quyền sở hữu này dù chỉ là một phần
cũng cho phép người sở hữu cổ phần những đặc quyền nhất định, thường là: hưởng một
phần tương ứng lợi nhuận của hoạt động kinh doanh, thông qua phần chia lãi sau thuế,
quyền được tham gia quyết định kinh doanh quan trọng trong các phiên họp thường niên
hay bất thường, và sức mạnh quyền này tỉ lệ với số cổ phần nắm giữ, quyền được tiếp tục
tham gia đóng góp vốn khi doanh nghiệp phát hành bổ sung các cổ phần mới, hoặc phát
triển các dự án mới cần gọi vốn và một số quyền khác tùy theo qui định pháp luật.
CTCP phải có cổ phần phổ thông, cổ phần ưu đãi là loại cổ phần không bắt buộc phải
có trong CTCP, bao gồm: cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi
hoàn lại và các loại cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định.
LDN không đưa ra khái niệm cụ thể thế nào là “cổ phần phổ thông” nhưng căn cứ vào
quyền và nghĩa vụ của người nắm giữ nó thì cồ phần phổ thông được hiểu là loại cổ phần
có thu nhập không ổn định, cổ đông nắm giữ cổ phần phổ thông được trả cổ tức hàng năm
tùy thuộc vào hoạt động kinh doanh của công ty và có những quyền cơ bản nhất như biểu
quyết, tham gia bầu cử và ứng cử vào bộ máy quản trị và kiểm soát công ty, chịu trách
nhiệm về sự thua lỗ hoặc phá sản tương ứng với phần vốn góp của mình.
4



LDN cũng không đưa ra khái niệm chung cho ‘cổ phần ưu đãi” mà mỗi cổ phần ưu đãi
đều có khái niệm riêng và đem lại cho người nắm giữ những quyền đặc biệt. Thực chất, cổ
phần ưu đãi có nguồn gốc từ cổ phần phổ thông, chẳng qua từ cái gốc chính đó, người ta
giảm đi các yếu tố quyền căn bản để tạo ra những cổ phần ưu đãi khác nhau. Trong đó:
+ Cổ phần ưu đãi biểu quyết theo khoản 1 Điều 81 LDN, là “cổ phần có số phiếu biểu
quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi
biểu quyết do Điều lệ công ty quy định”. Như vậy, so với các cổ phần phổ thông, cổ phần
ưu đãi biểu quyết sẽ có tiếng nói nhiều hơn trong các cuộc họp đại hội đồng cổ đông. LDN
không hạn chế tối đa số phiếu biểu quyết của cố phần ưu đãi biểu quyết và cũng không hạn
chế tỉ lệ cổ phần ưu đãi biểu quyết nói riêng mà chỉ hạn chế về chủ thể có quyền nắm giữ
loại cổ phần này nhằm hạn chế cổ đông đưa ra các quyết định bất lợi cho CTCP. Theo đó,
“chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần
ưu đãi biểu quyết”.
+ Cổ phần ưu đãi cổ tức, theo khoản 1 Điều 82 LDN, là “cổ phần được trả cổ tức với
mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hằng năm”. Đây
là loại cổ phần phù hợp với các cổ đông thiểu số và những cổ đông không có nhu cầu quản
trị công ty. Đối với các cổ đông thiểu số thường chọn loại cổ phần này để có được lợi ích
cao hơn trong việc nhận cổ tức vì họ biết rằng với ngần ấy cổ phần ít ỏi quyền biểu quyết,
quyền quản trị công ty (nếu có) cũng trở nên vô nghĩa. Còn đối với các cổ đông không có
nhu cầu quản trị, dù họ sở hữu một lượng lớn cổ phần đã phát hành, lựa chọn loại cổ phần
này chủ yếu để nhận cổ tức. Các chủ thể này sẵn sàng hy sinh quyền bầu cử, ứng cử để lựa
chọn cổ phần ưu đãi cổ tức vì mức cổ tức hấp dẫn của nó.
+ Cổ phần ưu đãi hoàn lại, theo khoản 1 Điều 83 LDN, là “cổ phần được công ty hoàn
lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được
ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại”. Cổ phần ưu đãi loại này cũng là một trong
những công cụ huy động vốn hữu hiệu của CTCP, đặc biệt là khi công ty cần gấp một
khoản vốn lớn để giải quyết những công việc cụ thể. Có thể nói, đây cũng là một khoản
vay của CTCP trong quá trình hoạt động của mình, chỉ khác là công ty không phải trả lãi
cho người nắm giữ nó và quyền ưu tiên nhận tài sản còn lại của CTCP phải xếp sau người
nắm giữ trái phiếu sau khi công ty giải thể hoặc phá sản (nếu có).


5


Ngoài ba loại CPUĐ mà LDN dự liệu như đã phân tích thì CTCP còn có thể có một số
loại CPUĐ khác tùy thuộc vào Điều lệ quy định. Thậm chí, CTCP có thể chỉ phát hành các
loại CPUĐ khác do Điều lệ công ty quy định mà không nhất thiết phải bao gồm ba loại cổ
phần nêu trên.
* Cổ phiếu
Như đã đề cập trên thì cổ phần là phần chia nhỏ nhất và bằng nhau của vốn điều lệ, là
từ tượng trưng cho quyền sở hữu của cổ đông và được cụ thể hóa bằng một cổ phiếu, chỉ
có CTCP mới phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là một chứng thư chứng minh
quyền sở hữu của một cổ đông đối với một CTCP và cổ đông là người có cổ phần thể hiện
bằng cổ phiếu.
LDN định nghĩa cổ phiếu là “chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán
ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Cổ phiếu có thể
ghi tên hoặc không ghi tên”. Như vậy, cổ phiếu trên thực tế là giấy chứng nhận quyền sở
hữu cổ phần của cổ đông, trong trường hợp cổ phiếu tồn tại dưới dạng bút toán ghi sổ thì
bút toán ghi sổ đó là cơ sở để xác định phần quyền sở hữu của cổ đông.
Thông thường các CTCP đều phân cổ phiếu thành “cổ phiếu thường” và “cổ phiếu ưu
đãi”. Cách phân chia này tồn tại từ trước đến nay và hầu như thống nhất như nhau ở các
nước phát triển.
Cổ phiếu thường ghi nhận cổ đông nắm giữ có quyền hạn và trách nhiệm cơ bản như:
được chia cổ tức theo kết quả kinh doanh, được quyền bầu cử, ứng cử vào bộ máy quản trị
và kiểm soát công ty, chịu trách nhiệm về sự thua lỗ hoặc phá sản tương ứng với phần vốn
góp của mình.
Cổ phiếu ưu đãi bao gồm CPUĐ biểu quyết, CPUĐ cổ tức, CPUĐ hoàn lại ghi nhận
CĐUĐ sẽ được ưu đãi hơn CĐPT trong một số quyền như nhận cổ tức với mức ưu đãi, tỷ
lệ biểu quyết cao hơn, được hoàn lại cổ phần nhưng đồng thời cũng bị hạn chế một số
quyền như: không được tự do chuyển nhượng cổ phần, không có quyền bầu cử, ứng cử…

b. Huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu
Phát hành cổ phiếu là việc chào bán cổ phần cùa công ty cổ phần cho người đầu tư
nhằm đáp ứng yêu cầu về vốn của công ty. Kết quả của việc chào bán cổ phần sẽ đảm bảo
6


huy động vốn điều lệ trong quá trình thành lập công ty hoặc sẽ làm tăng vốn điều lệ của
công ty trong trường hợp công ty đang hoạt động.
Hiện nay, huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu gồm hai loại là chào bán cổ phiếu ra
công chúng và chào bán cổ phiếu riêng lẻ.
* Chào bán cổ phiếu ra công chúng
Chào bán cổ phiếu ra công chúng là phương thức phát hành cổ phiếu mà cổ phiếu được
chào bán rộng rãi theo một trong các phương thức sau: thông qua phương tiện thông tin đại
chúng, kể cả internet; chào bán chứng khoán cho một trăm nhà đầu tư trở lên, không kể
nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp; chào bán số lượng nhà đầu tư không xác định
(khoản 12 Điều 6 LK 2006)
Theo quy định tại Điều 11 LCK 2006 và Điều 3 Nghị định 14/2007/NĐ – CP của
Chính phủ ban hành ngày 19/1/2007 thì chào bán cổ phiếu ra công chúng bao gồm 2 loại:
chào bán lần đầu và chào bán thêm.
- Chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng gồm: chào bán cổ phiếu để huy động vốn
điều lệ; thành lập mới CTCP và chào bán để chuyển đổi cơ cấu sở hữu thành lập công ty
đại chúng mà không làm thay đổi vốn điều lệ của công ty.
- Chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng gồm: công ty đại chúng chào bán thêm cổ
phiếu ra công chúng hoặc chào bán quyền mua cổ phần cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn
điều lệ; công ty đại chúng chào bán cổ phiếu ra công chúng để thay đổi cơ cấu sở hữu
nhưng không làm tăng vốn điều lệ; công ty đầu tư chứng khoán chào bán thêm cổ phiếu ra
công chúng.
Việc chào bán cổ phiếu ra công chúng giúp CTCP có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng về
vốn trong quá trình hoạt động của mình, đồng thời có thể làm tăng uy tín của công ty, giúp
công ty có nhiều thuận lợi hơn trên thị trường vì được nhiều người biết đến. Tuy nhiên,

hình thức này cũng có một số nhược điểm như: chi phí cho đợt chào bán rất cao, không
phải công ty nào cũng đủ khả năng thực hiện, chế độ công bố thông tin rất nghiêm ngặt
khiến công ty mất thời gian và chi phí cũng như có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của công ty vì phải công bố cả những thông tin quan trọng.
Điều kiện để chào bán cổ phiếu ra công chúng: hiện nay, để chào bán cổ phiếu ra công
chúng, chủ thể chào bán phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện quy định tại điều 12 LCK,
cụ thể là:
7


- Thứ nhất, CTCP muốn chào bán cổ phiếu ra công chúng phải có vốn điều lệ là 10 tỷ
đồng Việt Nam tính theo giá trị ghi trên sổ sách kế toán.
- Thứ hai, CTCP chào bán cổ phiếu ra công chúng phải là công ty kinh doanh có hiệu
quả.
- Thứ ba, CTCP muốn chào bán cổ phiếu ra công chúng phải có sự chấp thuận của
Đại hội đồng cổ đông về phương án phát hành và phương án sử dụng vốn huy động được.
Trình tự, thủ tục chào bán cổ phiếu ra công chúng: hiện nay, theo quy định tại Điều 13,
14 LCK 2006 thì CTCP muốn chào bán cổ phiếu ra công chúng thì phải gửi hồ sơ đăng ký
chào bán tới Ủy ban chứng khoán Nhà nước để được cấp Giấy chứng nhận chào bán cổ
phiếu ra công chúng. Nội dung hồ sơ được quy định tại Thông tư 17/2007/TT – BTC về
hướng dẫn hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng và Thông tư 112/2008/TT
– BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư 17/2007. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
chào bán cổ phiếu, trong thời hạn bày ngày, tổ chức phát hành phải công bố bản thông báo
phát hành trên tờ báo điện tử hoặc báo viết trong ba số liên tiếp và trong thời hạn 90 ngày
(tối đa 120 ngày) phải hoàn thành việc phân phối cổ phiếu tới các nhà đầu tư. Tiếp đó,
trong thời hạn 30 ngày kể từ khi kết thúc đợt chào bán, tổ chức phát hành phải chuyển giao
cổ phiếu cho các nhà đầu tư.
* Chào bán cổ phiếu riêng lẻ
Là hình thức phát hành trong đó cổ phiếu có thể được bán cho phạm vi một số người
nhất định với số lượng hạn chế, thông thường bán cho những người trong công ty. Chào

bán cổ phiếu riêng lẻ là hoạt động của chủ thể phát hành chào bán chứng khoán cho các
khách hàng đặc biệt thường là các tổ chức như các công ty bảo hiểm nhân thọ, các công ty
đầu tư chứng khoán...Hình thức chào bán này chỉ được tiến hành trong phạm vi hẹp, thủ
tục chào bán cũng đơn giản.
Điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ được quy định tại Điều 8 Nghị định 01/2010/NĐ
– CP. Bên cạnh các điều kiện trên, LDN 2005 còn yêu cầu CTCP phát hành cổ phiếu riêng
lẻ phải dành quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới phát hành cho các cổ đông hiện hữu trong
công ty theo tỷ lệ hiện có của họ tại công ty. Trong trường hợp, cổ đông hiện hữu của
CTCP không mua hoặc mua không hết cổ phần chào bán riêng lẻ thì pháp luật cho phép họ

8


được chuyển nhượng quyền ưu tiên mua cho người khác (điểm c khoản 2 Điều 87 LDN
2005)
Trình tự, thủ tục chào bán cổ phiếu riêng lẻ: CTCP tiến hành chào bán cổ phiếu riêng lẻ
phải gửi hồ sơ đăng ký chào bán để Ủy ban chứng khoán Nhà nước. Hồ sơ đăng ký bao
gồm các tài liệu được quy định tại Điều 9 Nghị định số 01/2010/NĐ – CP. Tổ chức chào
bán phải thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin về đợt chào bán cho nhà đầu tư. Trong vòng
10 ngày kể từ khi kết thúc đợt chào bán tổ chức chào bán phải có nghĩa vụ gửi Báo cáo kết
quả đợt chào bán và danh sách cổ đông cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đồng thời
công bố kết quả chào bán trên website của tổ chức chào bán (nếu có).
2. Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng
a) Phát hành trái phiếu
Trái phiếu là chứng khoán có thể chuyển nhượng được trong đó ghi nhận một khoản
vay dài hạn của CTCP. Người sở hữu trái phiếu có mệnh giá giống nhau thì có trái quyền
giống nhau.
Bằng việc phát hành trái phiếu CTCP có thể có được những số tiền lớn mà không gặp
các khó khăn vì người sở hữu trái phiếu chỉ là một chủ nợ, cổ đông của CTCP sẽ không
tăng thêm và không đảo lộn thành viên trong các phiên họp ĐHĐCĐ. Lãi suất trả cho các

khoản vay có thể thấp hơn lãi suất ngân hàng và công ty cũng dễ dàng duy trì sự tồn tại của
mình trước nhiều chủ nợ thay vì một chủ nợ duy nhất là Ngân hàng. Mặt khác, khoản tiền
lãi này được trừ vào lợi tức chịu thuế, một đặc điểm thuận lợi cho CTCP.
Về bản chất, phát hành trái phiếu chính là việc CTCP tham gia quan hệ vay vốn với các
nhà đầu tư mua trái phiếu. Với tính chất là hợp đồng vay, người cho vay sẽ được hưởng
khoản lãi cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty nhưng lại không có
quyền tham gia vào hoạt động quản lý điều hành công ty như chủ sở hữu. Tuy nhiên, người
mua trái phiếu có thể chuyển nhượng lại cho người khác bất cứ khi nào họ muốn mà pháp
luật không có quy định ràng buộc.
CTCP được phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo
quy định của pháp luật và Điều lệ của công ty. Người mua trái phiếu được được CTCP
phát hành thanh toán đầy đủ gốc và lãi khi trái phiếu đến hạn. Đồng thời họ có thể dùng
trái phiếu để chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế, cầm cố, triết khấu, thế chấp trong các quan
9


hệ dân sự theo quy định của pháp luật. Hiện nay, có hai hình thức phát hành trái phiếu là
phát hành trái phiếu ra công chúng và phát hành trái phiếu riêng lẻ.
* Phát hành trái phiếu ra công chúng
Phát hành trái phiếu ra công chúng cũng giống như phát hành cổ phiếu ra công chúng,
là hình thức chào bán rộng rãi trái phiếu cho các nhà đầu tư thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng. Tuy nhiên, pháp luật không có sự phân biệt giữa chào bán trái phiếu ra
công chúng lần đầu và chào bán trái phiếu thêm.
- Điều kiện phát hành trái phiếu ra công chúng
Theo quy định tại khoản 2 Điều 12 LCK 2006 thì CTCP phải đáp ứng những điều kiện
sau mới được phát hành trái phiếu ra công chúng: 1. Công ty có mức vốn điều lệ đã góp tại
thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế
toán; 2. Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng
thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản nợ phải trả
quá hạn trên một năm; 3. Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu

được từ đợt chào bán được HĐQT công ty thông qua; 4. Có cam kết thực hiện nghĩa vụ
của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác.
Như vậy, có thể thấy nếu như việc phát hành cổ phiếu ra công chúng phải được sự nhất
trí thông qua ĐHĐCĐ thì việc phát hành trái phiếu ra công chúng lại chỉ cần sự thông qua
của HĐQT. Sự khác nhau này xuất phát từ bản chất của hai hình thức phát hành này. Việc
phát hành cổ phiếu ra công chúng làm tăng vốn điều lệ của công ty nhưng có thể ảnh
hưởng tới địa vị của cổ đông trong công ty nên cần được ĐHĐCĐ thông qua. Ngược lại,
việc chào bán trái phiếu với bản chất là quan hệ vay vốn chỉ ảnh hưởng tới cơ cấu vốn của
công ty chứ không ảnh hưởng tới vị thế, quyền lợi của cổ đông nên chỉ cần HĐQT quyết
định là phù hợp.
Trong một số trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 88 LDN 2005 CTCP không được
phát hành trái phiếu, đó là: 1) trường hợp công ty không thanh toán đủ cả gốc và lãi của
trái phiếu đã phát hành, không thanh toán hoặc thanh toán không đủ các khoản nợ đến hạn
trong ba năm liên tiếp trước đó; 2) tỷ suất lợi nhuận sau thuế bình quân của ba năm liên
tiếp trước đó không cao hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu định phát hành.
- Trình tự thủ tục phát hành trái phiếu ra công chúng
10


Cũng giống như phát hành cổ phiếu ra công chúng, LCK 2006 quy định thủ tục tiến
hành chào bán trái phiếu gồm 3 bước: đăng ký phát hành trái phiếu, công bố thông tin
trước khi chào bán và phân phối trái phiếu. Trong đó, nội dung của các bước này cũng
tương tự như phát hành cổ phiếu ra công chúng, chỉ khác ở yêu cầu đối với hồ sơ đăng ký
chào bán trái phiếu, đó là: thứ nhất, thay vì cần có quyết định của ĐHĐCĐ thông qua
phương án phát hành thì CTCP phát hành cần có quyết định của HĐQT. Thứ hai, phải có
thêm bản cam kết thực hiện nghĩa vụ của CTCP phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện
phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện
khác.
* Phát hành trái phiếu riêng lẻ

Phát hành trái phiếu riêng lẻ là một trong những hình thức huy động vốn của CTCP.
Theo đó, CTCP sẽ chào bán trái phiếu cho số lượng nhà đầu tư xác định không thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng. Trên thực tế các CTCP thường sử dụng hình thức này
bởi sự đơn giản trong thủ tục phát hành mà vẫn đáp ứng được mục tiêu huy động vốn đề
ra.
- Điều kiện phát hành trái phiếu riêng lẻ
Thứ nhất, doanh nghiệp đó phải thuộc đối tượng được chào bán trái phiếu riêng lẻ, tức
là phải được tổ chức dưới hình thức CTCP hoặc công ty Nhà nước đang chuyển đổi sang
mô hình CTCP.
Thứ hai, doanh nghiệp đó phải đáp ứng được điều kiện về thời gian kinh doanh tối
thiểu. Kể từ khi chính thức bước vào hoạt động cho đến khi thực hiện việc chào bán trái
phiếu riêng lẻ CTCP phải có thời gian hoạt động ít nhất là một năm để chứng minh năng
lực kinh doanh của mình.
Thứ ba, CTCP đó phải có báo cáo tài chính năm của liền kề năm phát hành trái phiếu
và năm đó phải kinh doanh có lãi.
Thứ tư, CTCP phải có phương án phát hành trái phiếu riêng lẻ được HĐQT công ty
thông qua. Nội dung của phương án phát hành phải bao gồm những thông tin chính như:
tổng số lượng trái phiếu phát hành, kì hạn trả nợ và mức lãi suất...Nếu phát hành trái phiếu
chuyển đổi còn phải bổ sung thêm một số nội dung khác như: tỷ lệ chuyển đổi từ trái phiếu
sang cổ phiếu, thời hạn chuyển đổi...
11


- Trình tự, thủ tục phát hành trái phiếu riêng lẻ
Phát hành trái phiếu riêng lẻ chỉ bao gồm 2 bước là công bố thông tin trước khi chào
bán và phân phối trái phiếu. Theo đó, CTCP phát hành trái phiếu riêng lẻ sẽ phải công bố
những thông tin như: báo cáo tài chính của năm liền kề phát hành, phương án phát hành
trái phiếu riêng lẻ được HĐQT thông qua, công khai kết quả xếp loại của tổ chức định mức
tín nhiệm với công ty và loại trái phiếu công ty chào bán, công bố quyền lợi của người mua
trái phiếu và quyền lợi của người sở hữu trái phiếu. Trường hợp chào bán trái phiếu chuyển

đổi, tổ chức phát hành còn phải công khai một số nội dung khác theo quy định của pháp
luật.
Việc phát hành trái phiếu riêng lẻ chủ yếu diễn ra dưới hình thức đấu thầu trái phiếu.
Thông thường việc đấu thầu trái phiếu có thể được tiến hành trực tiếp tại công ty hoặc
thông qua tổ chức trung gian hoặc qua trung tâm giao dịch chứng khoán.
b) Tín dụng ngân hàng
Huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng là một hình thức huy động vốn
phổ biến được các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng áp dụng trên thực
tế. Thông qua hình thức này, công ty cổ phần có thể có được các khoản vay ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn đáp ứng được yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Việc huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn đối
với các công ty có uy tín, có quan hệ lâu dài với ngân hàng. Bên cạnh đó cơ chế cho vay
hiện nay đang tạo cho việc huy động vốn qua ngân hàng có ưu điểm, ưu việt hơn mà huy
động vốn bằng trái phiếu không có như khi vay ngân hàng nếu đến hạn trả công ty chưa có
khả năng trả nợ thì có thể xin gia hạn nợ; trong khi nếu công ty phát hành trái phiếu thì
phải có nghĩa vụ hoàn trả các khoản lãi và gốc khi trái phiếu đến hạn thanh toán.
Để huy động vốn thông qua hình thức tín dụng ngân hàng, công ty phải đáp ứng các
điều kiện nhất định như có tình hình tài chính lành mạnh, có phương án sử dụng vốn khả
thi và có tài sản đảm bảo cho khoản vay bằng biện pháp cầm cố, thế chấp hoặc được bên
thứ ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với ngân hàng trừ
trường hợp công ty được ngân hàng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Công ty vay
vốn ngân hàng phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đich đã thỏa thuận, hoàn trả nợ
12


gốc và lãi suất vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Có hai hình
thức cho vay vốn là vay có bảo đảm và vay không bảo đảm.
c) Tín dụng thuê mua
Trên thực tế, nhiều doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần nói riêng khó tiếp cận
vốn vay ngân hàng. Sự ra đời của các công ty cho thuê tài chính là một giải pháp để tài trợ

vốn trung hạn và dài hạn cho các doanh nghiệp. Cho thuê tài chính vừa là một hình thức
cấp tín dụng trung và dài hạn, vừa là một dạng cho thuê tài sản mà theo đó, tổ chức tín
dụng cho khách hàng quyền sử dụng tài sản trong một khoảng thời gian nhất định, với điều
kiện khác hàng phải trả tiền thuê. Tuy nhiên, không phải một giao dịch cho thuê tài sản nào
của tổ chức tín dụng cũng được gọi là thuê tài chính. Xét về mặt bản chất, giao dịch cho
thuê tài chính có những đặc điểm nổi bật sau đây:
Cho thuê tài chính là phương thức cấp tín dụng mà đối tượng là một tài sản cụ thể.
Khác với các hình thức cấp tín dụng khác mà theo đó, tổ chức tín dụng chuyển giao một
khoản tiền, trong hình thức cấp tín dụng cho thuê tài chính, tổ chức tín dụng tiến hành cấp
tín dụng bằng cách chuyển giao cho khách hàng (bên thuê) một tài sản cụ thể (máy móc,
dây chuyền sản xuất, phương tiện vận tải hoặc động sản khác) để bên thuê sử dụng trong
một thời gian nhất định. Bên thuê có nghĩa vụ trả toàn bộ tiền thuê theo thỏa thuận. Tính
chất thanh toán trọn vẹn của giao dịch cho thuê tài chính cho thấy bản chất tín dụng của
hoạt động này. Tổ chức tín dụng được bảo đảm về khả năng hoàn trả của khách hàng đối
với khoản tín dụng đã chuyển giao thông qua quyền nhận tiền thuê.
Cho thuê tài chính là hình thức cho thuê mà hầu hết các quyền năng của chủ sở hữu
(bên cho thuê) được chuyển giao cho bên thuê. Khác với các hình thức thuê tài sản thông
thường theo quy định của pháp luật dân sự, trong hoạt động cho thuê tài chính, bên cho
thuê thường ghi giữ quyền sở hữu “danh nghĩa” đối với tài sản cho thuê (quyền này cho
phép tổ chức tín dụng có thể thu hồi tài sản cho thuê nếu bên thuê vi phạm hợp đồng), còn
những quyền năng cụ thể đối với tài sản cho thuê được chuyển giao hầu như hoàn toàn cho
bên thuê. Điều này được lý giải bởi bản chất tín dụng của hoạt động cho thuê tài chính: tổ
chức tín dụng chỉ quan tâm đến khả năng thu hồi cả gốc và lãi của khoản tín dụng, còn việc
sử dụng khoản tín dụng được cấp là quyền của bên nhận tín dụng. Đặc điểm này đã được
Ủy ban về chuẩn mực kế toán quốc tế ghi nhận : “Cho thuê tài chính là loại cho thuê có
13


khả năng dịch chuyển về cơ bản tất cả những rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu
tài sản”.

III. Một số nhận xét về các quy định của pháp luật về huy động vốn
1. Về vốn chủ sở hữu
Mặc dù các quy định của pháp luật về huy động vốn chủ sở hữu đã có nhiều điểm tiến
bộ, tạo được những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nhưng bên cạnh đó vẫn còn
những hạn chế không tránh khỏi. Chúng ta nên đa dạng hóa các loại cổ phiếu ưu đãi để tạo
sự hấp dẫn với người đầu tư như ở một số nước có nền kinh tế chuyển đổi tương tự Việt
Nam, đặc biệt là các nước trong khu vực ASEAN đã áp dụng như cổ phần ưu đãi dồn lãi,
cổ phần ưu đãi dự phần được chia cổ tức, cổ phần ưu đãi mua lại, cổ phần ưu đãi có thể
chuyền đổi, cổ phần phức hợp, cổ phần ưu đãi hàng đầu, cổ phần ưu đãi để trống…
2. Về vốn tín dụng
a. Trái phiếu.
Cũng giống như cố phiếu, các loại trái phiếu vẫn chưa thực sự thu hút các nhà đầu tư.
Để tạo thêm hàng cho thị trường trái phiếu, một thị trường mà các doanh nghiệp Việt Nam
còn bỏ ngỏ, pháp luật nên có những quy định về quyền phát hành các loại trái phiếu khác
như trái phiếu không trả lãi, trái phiếu trả lãi theo thu nhập, trái phiếu lãi suất thả nổi, trái
phiếu có quyền bán trước khi đáo hạn…
Trong quy định về phát hành trái phiếu của Luật doanh nghiệp 2005 thì “Việc phát
hành trái phiếu cho các chủ nợ là tổ chức tài chính được lựa chọn không bị hạn chết bởi
các quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này” (Điểm b Khoản 2 điều 88) nhưng hiện nay
chưa có khái niệm chính thức về tổ chức tài chính.
b. Tín dụng ngân hàng.
Đây là một hình thức huy động vốn khá phổ biến và được không chỉ công ty cổ phần
mà cả các doanh nghiệp khác áp dụng. Tuy nhiên, hình thức này cũng tồn tại những hạn
chế không tránh khỏi như hệ thống văn bản pháp luật còn chồng chéo phức tạp, thủ tục cho
vay phức tạp…Hơn nữa khi doanh nghiệp vay vốn thì khoản vay thường lớn nên lãi suất
cao đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải chịu áp lực trả lãi và thời hạn trả. Mặt khác,
nguồn vốn của ngân hàng thương mại là nguồn tài trợ ngắn hạn nên doanh nghiệp chỉ được
14



vay 12 tháng. Điều này gây khó khăn rất lớn cho các doanh nghiệp khi đi vay vốn ngân
hàng.
c. Tín dụng thuê mua.
Mặc dù cho thuê tài chính là loại hình cấp tín dụng trung và dài hạn khá phổ biến
trên thế giới và có nhiều lợi thế cạnh tranh, tuy nhiên, thực tiễn cho thấy các doanh nghiệp
Việt Nam không mấy quan tâm đến loại hình dịch vụ này, nguyên nhân có thể là vì doanh
nghiệp hiểu biết về kênh cấp vốn qua dịch vụ cho thuê tài chính còn hạn chế; hoạt động
quảng bá, giới thiệu dịch vụ này đến doanh nghiệp còn yếu, giá cho thuê còn cao…hơn nữa
hành lang pháp lý cho hoạt động này chưa hoàn thiện.

KẾT LUẬN
Vốn là một trong những nhân tố cần thiết đối với sự tăng trưởng và phát triển của
doanh nghiệp. Trong quá trình phát triển và mở rộng quy mô kinh doanh thì việc quản lý,
huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng, nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh
của mỗi doanh nghiệp. Nhận thức và vận dụng linh hoạt việc huy động vốn sẽ phát huy hết
khả năng vốn có của mô hình kinh doanh này. Mặc dù Luật Doanh nghiệp 2005 quy định
về cơ chế góp vốn và huy động vốn đã tỏ ra mềm dẻo, thông thoáng, tạo hành lang pháp lý
an toàn cho sự ra đời và hoạt động của công ty cổ phần. Tuy nhiên, thực tế ban hành pháp
luật đã cả là một quá trình rất phức tạp nhưng triển khai thi hành còn khó khăn hơn nhiều.
Để những quy định về huy động vốn của công ty cổ phần đi vào thực tế cuộc sống và phát
huy có hiệu quả đòi hỏi sự hỗ trợ về rất nhiều mặt cũng như hướng dẫn cụ thể từ phía Nhà
nước.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại tập 1, Nxb. CAND, Hà
Nội, 2006
2. Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật kinh tế (tập 1: Luật doanh

nghiệp , Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2006
3. Luật Doanh nghiệp năm 2005
4. Luật Chứng khoán 2006
5. Website: www.sinhvienluat.vn
www.wattpad.com

16



×