Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Những quy định của Luật tố tụng về biện pháp ngăn chặn tạm giữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.14 KB, 15 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Như chúng ta đã biết, trong tất cả các vụ án hình sự đều cần phải sử dụng đến
các biện pháp ngăn chặn. Nó được coi như là một trong những công cụ hữu hiệu hỗ
trợ tích cực cho quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng. Những
biện pháp này được áp dụng nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội
của bị can, bị cáo và cả những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp
hoặc phạm tội quả tang), nhằm ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật
hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình
sự. Một trong những biện pháp ngăn chặn được áp dụng phổ biến đó là biện pháp
ngăn chặn tạm giữ. Vậy Luật Tố tụng hình sự có quy định như thế nào về biện pháp
ngăn chặn này và những hạn chế bất cập còn tồn tại cũng như những giải pháp hoàn
thiện vấn đề này ra sao, bài luận dưới đây sẽ giải quyết những vấn đề nêu trên.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. Những quy định của Luật tố tụng về biện pháp ngăn chặn tạm giữ.
Biện pháp ngăn chặn tạm giữ được quy định trong Điều 86 Bộ luật tố tụng hình
sự (viết tắt là BLTTHS) năm 2003 như sau: “Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong
tố tụng hình sự do cơ quan và những người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị
bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú
hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã.”
Như vậy, ta thấy Điều 86 BLTTHS năm 2003 quy định về đối tượng, căn cứ và
thẩm quyền áp dụng Biện pháp ngặn chặn tạm giữ. Theo quy định của điều luật này
thì tạm giữ là việc cơ quan và người có thẩm quyền ra quyết định tạm thời hạn chế
tự do trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc trường hợp khẩn cấp.
Mục đích của biện pháp ngăn chặn (BPNC) tạm giữ là nhằm ngăn chặn hành
vi phạm tội hoặc hành vi cản trở việc điều tra khám phá tội phạm của người bị nghi
là thực hiện hành vi phạm tội; tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền đủ thời gian
để xác định tính chất, mức độ của hành vi, nhân thân của người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội để từ đó có thể quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị
can hoặc không khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Tạm giữ đối với người bị bắt
theo quyết định truy nã để có thời gian cho cơ quan đã ra quyết định truy nã đến
nhận người bị bắt.


1


1. Đối tượng tạm giữ.
Đối tượng tạm giữ được quy định tại khoản 1 Điều 86 BLTTHS năm 2003:“Tạm
giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo
lệnh truy nã”. So với quy định tại điều Điều 68 BLTTHS năm 1988, thì đối tượng có
thể bị tạm giữ được quy định trong BLTTHS năm 2003 rộng hơn, thêm 3 đối tượng
là người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã.
Trong trường hợp người bị bắt khi phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội
nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và không có hành
động, biểu hiện sẽ cản trở việc điều tra thì không cần phải tạm giữ.
Người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp thường phải bị tạm giữ vì trong hầu hết
các trường hợp khi quyết định bắt khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã xác định cần phải
ngăn chặn việc người đó trốn hoặc cản trở điều tra.
Người phạm tội tự thú là người thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa bị phát
hiện nay ra trình báo với cơ quan có thẩm quyền về sự việc phạm tội của mình. Đối
tượng này có thể bị tạm giữ nếu sự việc phạm tội mà họ thực hiện nghiêm trọng,
phức tạp cần thiết trong quá trình điều tra còn đối với người phạm tội tự thú với sự
việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và
không có hành động, biểu hiện sẽ cản trở việc điều tra thì không cần phải tạm giữ.
Người phạm tội đầu thú là người đã thực hiện tội phạm và đã bị phát hiện;
người đã bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp hành hình phạt tù trốn khỏi nơi
giam, giữ; người có nghĩa vụ phải chấp hành án phạt tù nay đã trốn khỏi nơi cư trú
nay ra đầu thú. Với đối tượng này cần phải tạm giữ.
Đối với người bị bắt theo lệnh truy nã thì ngay sau khi lấy lời khai, Cơ quan
điều tra nhận người bị bắt phải thông báo cho cơ quan đã ra lệnh truy nã để cơ quan
này đến nhận người bị bắt. Việc tạm giữ đối với người này chỉ đặt ra khi xét thấy cơ
quan đã ra lệnh truy nã không thể đến ngay để nhận người bị bắt theo quy định tại

khoản 2 Điều 83 BLTTTS năm 2003.
2. Thẩm quyền ra quyết định tạm giữ.
Khoản 2 Điều 86 BLTTHS quy định “ Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn
cấp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát
2


biển có quyền ra quyết định tạm giữ”. Theo khoản 2 Điều 86 quy định về thẩm
quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp thì có bốn nhóm người có quyền
ra lệnh bắt khẩn cấp, gồm nhóm người sau đây:
- Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp ( cơ quan điều tra trong
công an nhân dân, cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, cơ quan điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân tối cao… )
- Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương ; người
chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới.
- Người chỉ huy tàu bay, sân bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay,
bến cảng.
- Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.
Như vậy, khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 đã bổ sung thêm thẩm quyền ra
quyết định tạm giữ cho chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển, đây là điểm mới so với
thẩm quyền ra quyết định tạm giữ trong BLTTHS năm 1988. Và theo quy định
BLTTHS 2003 thì cơ quan điều tra cấp huyện trở lên có quyền ra quyết định tạm
giữ. Thực hiện quyết định này, khi nhận người bị bắt trong từng trường hợp phạm
tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì UBND phường, xã, thị trấn phải tiến hành lập
biên bản phạm tội quả tang, biên bản bắt người đang bị truy nã và giải quyết ngay tới
cơ quan thẩm quyền. Vậy những người có quyền ra quyết định tạm giữ không hoàn
toàn là những người đại diện của các cơ quan tiến hành tố tụng mà bao gồm cả
những người của các cơ quan Nhà nước khác hoặc trong lực lượng vũ trang.
3. Thời hạn tạm giữ.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS năm 2003 thì thời hạn tạm giữ

không được quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Do vậy, khi
tính thời hạn tạm giữ cần chú ý đến một số trường hợp sau:
Một là, trường hợp công dân bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã
và giải đến Uỷ ban nhân dân. Uỷ ban nhân dân tiến hành việc giữ người bị bắt, lập
biên bản nhận người và giải người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
Hai là, trường hợp người phạm tội tự thú, đến đầu thú thại Uỷ ban nhân dân. Uỷ
ban nhân dân cũng tiến hành việc giữ người bị bắt, lập biên bản nhận người và giải
người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
3


Trong cả hai trường hợp, công việc này đều chiếm một thời gian nhất định
nhưng thời gian này không được tính vào thời hạn tạm giữ bởi vì việc tạm giữ ở đây
là tạm giữ người theo thủ tục hành chính.
Về việc gia hạn tạm giữ được quy định tại khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2003
như sau: “Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn
tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định
tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường
hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời
hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia
hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê
chuẩn.”. Như vậy, chỉ có thể gia hạn tạm giữ hai lần, thời hạn gia hạn là không quá
ba ngày. Tổng thời hạn có thể tạm giữ một người theo quy định của BLTTHS là
không quá 9 ngày, kể từ khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mọi trường hợp gia
hạn tạm giữ phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát không
phê chuẩn thì cơ quan đã ra lệnh tạm giữ phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ
sau khi hết hạn tạm giữ trước đó.
Thời hạn tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam và sau này, nếu như người
phạm tội bị Tòa án kết án tù có thời hạn thì pháp luật Việt Nam vẫn cho phép trừ
thời hạn tạm giữ, tạm giam vào thời hạn họ phải chấp hành hình phạt tù theo Điều 33

BLHS 1999 quy định “Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp
hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù”. Tuy nhiên
không phải trường hợp nào cũng được gia hạn tạm giữ mà chỉ trong trường hợp cần
thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ một lần và trường hợp đặc
biệt có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai.
Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì phải trả tự do ngay
cho người đã bị tạm giữ. Tức là việc tạm giữ không nhất thiết phải kéo dài cho đến
ngày hết hạn tạm giữ mà có thể trả tự do cho người bị tạm giữ trước ngày hết hạn
tạm giữ. Đây là một quy định mới so với quy định tại BLTTHS năm 1988 thể hiện
nhà nước đã chú ý đến quyền bất khả xâm phạm thân thể của công dân, hạn chế việc
bồi thường thiệt hại cho người bị bắt oan.

4


Thời hạn tạm giữ đối với người phạm tội được áp dụng thủ tục rút gọn được
quy định tại khoản 2 Điều 322 BLTTHS là không được quá ba ngày , kể từ ngày Cơ
quan điều tra nhận người bị bắt. Những vụ án được áp dụng theo thủ tục rút gọn là
những vụ án do Viện kiểm sát quyết định áp dụng thủ tục rút gọn theo đề nghị của
Cơ quan điều tra khi có đủ các điều kiện quy định trong luật tố tụng.
4. Thủ tục tạm giữ.
Thủ tục tạm giữ bao gồm: quyết định tạm giữ, các công việc mà người thi hành
quyết định tạm giữ phải thực hiện trước hoặc sau khi tạm giữ người.
Pháp luật quy định muốn tạm giữ người phải có quyết định của người có thẩm
quyền. Quyết định của người có thẩm quyền phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của người bị
tạm giữ, lí do tạm giữ, ngày hết hạn tạm giữ và phải được giao cho người bị tạm giữ
một bản. Quyết định này không đòi hỏi phải có sự phê chuẩn của VKS trước khi thi
hành. Tuy nhiên, để đảm bảo cho công tác kiểm sát việc giam giữ, tránh vi phạm
quyền tự do, bất khả xâm phạm về than thể của công dân, trong thời hạn 12 giờ, kể
từ khi ra quyết định tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát

cùng cấp. Nếu xem xét thấy việc tạm giữ là không cần thiết thì Viện kiểm sát phải ra
quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do ngay
cho người bị tạm giữ.Viện kiểm sát ra quyết định hủy bỏ lệnh tạm giữ trong những
trường hợp sau đây:
- Người bị tạm giữ không phải là người bị bắt quả tang trong trường hợp khẩn
cấp, trường hợp phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã và không phải là người
phạm tội tự thú, đầu thú.
- Người bị tạm giữ chỉ có những vi phạm nhỏ, tính chất nguy hiểm cho xã hội
không đáng kể, chưa đến mức phải truy cứu trách nhỉệm hình sự:
- Người bị tạm giữ trong trường hợp phạm tội quả tang nhưng sự việc phạm tội
nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng, người bị tạm giữ có nơi cư trú rõ ràng và không có
biểu hiện sẽ trốn hoặc cản trở công việc điều tra.
Người thi hành lệnh tạm giữ phải giải thích cho người bị tạm giữ các quyền và
nghĩa vụ của họ. Quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ được quy định trong Điều
48 BLTTHS năm 2003. Theo đó, người bị tạm giữ có các quyềnsau: Được biết lý
do mình bị tạm giữ; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; được trình bày lời khai và
5


tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; dưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; khiếu nại
về việc tạm giữ, quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng. Đồng thời họ có nghĩa vụ thực hiện các quy định về tạm giữ theo quy
định của pháp luật.
5. Một số vấn đề liên quan đến BPNC tạm giữ.
5.1. Tạm giữ đối với một số đối tượng đặc biệt.
Tạm giữ đối với một số đối tượng đặc biệt khác ngoài việc tuân theo các quy
định trong BLTTHS còn phải căn cứ vào các quy định khác của pháp luật.
a, Tạm giữ đối với người thuộc các cơ quan dân cử đó là Đại biểu Quốc hội,
Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
Ngoài việc tuân theo các quy định tại các Điều 86, 87 BLTTHS như đã phân tích ở

trên thì còn phải tuân thủ những quy định tương ứng trong Hiến pháp năm 1992, sửa
đổi, bổ sung năm 2001, Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 và Luật tổ chức Hội đồng
nhân dân năm 2003
- Với Đại biểu Quốc hội, việc áp dụng BPNC tạm giữ đối với đối tượng này
tuy không có trong BLTTHS nhưng được quy định tại Điều 58 Luật tổ chức Quốc
hội năm 2001 như sau: “ Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc
hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì không được
bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội và không được khám xét nơi ở và nơi làm việc
của đại biểu Quốc hội. Việc đề nghị bắt giam, truy tố, khám xét nơi ở và nơi làm
việc của đại biểu Quốc hội thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao.
Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ
phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội xét và quyết
định.
Trong trường hợp đại biểu Quốc hội bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của đại biểu Quốc hội đó.
Đại biểu Quốc hội bị Tòa án kết án thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc
hội, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

6


Đại biểu Quốc hội không thể bị cơ quan, đơn vị nơi đại biểu làm việc cách
chức, buộc thôi việc, nếu không được Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng ý.”
- Với Đại biểu Hội đồng nhân dân, việc bắt giữ đối với đối tượng này được quy
định trong Điều 44 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003:
“Trong thời gian Hội đồng nhân dân họp, nếu không được sự đồng ý của Chủ tọa kỳ
họp thì không được bắt giữ đại biểu Hội đồng nhân dân. Nếu vì phạm tội quả tang
hoặc trong trường hợp khẩn cấp mà đại biểu Hội đồng nhân dân bị tạm giữ thì cơ

quan ra lệnh tạm giữ phải báo cáo ngay với Chủ tọa kỳ họp.
Giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra
lệnh tạm giữ đại biểu Hội đồng nhân dân thì phải thông báo cho Chủ tịch Hội đồng
nhân dân cùng cấp.”
Sở dĩ Luật có quy định như vậy đối với các Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp là bởi đây là các đại biểu dân cử, thành viên quan trọng của
các cơ quan quyền lực nhà nước. Việc quy định thủ tục tạm giữ đối với các đối
tượng này có sự khác biệt với các đối tượng thông thường không phải từ vấn đề bảo
vệ quyền lợi ích cá nhân hoặc một đặc ân dành cho các đối tượng này mà là xuất
phát từ chính sách hình sự của Nhà nước, để đảm bảo cho sự ổn định trong hoạt
động thực hiện các chức năng của cơ quan quyền lực Nhà nước đặc biệt giao cho họ.
b, Tạm giữ đối với người chưa thành niên:
Điều 303 BLTTHS năm 2003 có quy định như sau:
“Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có
đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ
trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng.
Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ
căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ
trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo
cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm
giam.”
7


Trong quá trình điều, truy tố, xét xử, để xác định chính xác tuổi của người chưa
thành niên, các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải căn cứ vào giấy khai sinh và
những tài liệu cần thiết khác. Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo lúc phạm tội chưa đủ 18 tuổi thì không áp dụng thủ tục này.
5.2. Chế độ tạm giữ.
Tạm giữ không phải là một biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Việc áp dụng
biện pháp tạm giữ không nhằm mục đích trừng trị người phạm tội mà để ngăn chặn
tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án của
người phạm tội. Vì vậy Điều 89 BLTTHS quy định về vấn đề này như sau:
"Chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình
phạt tù.
Nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các
chế độ khác được thực hiện theo quy định của Chính phủ.”
Nghị định 98/CP ban hành ngày 7/11/1998 về quản chế, tạm giam, tạm giữ và
Nghị định 98/2002/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của quy chế tạm giữ, tạm
giam ban hành kèm theo Nghị định 98 nêu trên đã góp phần tích cực trong công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm. Việc thực hiện chế độ tạm giữ theo quy định của
pháp luật đã góp phần đảm bảo quyền và lợi ích của người bị tạm giữ trong thời gian
bị tạm giữ.
5.3 Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với nhân thân và tài sản của
người bị tạm giữ.
Vấn đề này được thể hiện cụ thể trong Điều 90 của BLTTHS năm 2003 như sau:
“Điều 90. Việc chăm nom người thân thích và bảo quản tài sản của người bị
tạm giữ, tạm giam
Khi người bị tạm giữ, tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có
người thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc, thì cơ quan
ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích
chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam không có người thân thích
thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao những người đó cho chính
quyền sở tại chăm nom.

8



Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà
không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết tạm giữ, lệnh tạm giam
phải áp dụng những biện pháp trông nom, bảo quản thích đáng.
Cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam thông báo cho người bị tạm giữ,
tạm giam biết những biện pháp đã được áp dụng.”
Ta thấy quy định trên thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta, nó đảm
bảo cho người bị tạm giữ yên tâm về vấn đề nhân thân và tài sản liên quan đến họ.
5.4 Vấn đề bồi thường thiệt hại cho người bị tạm giữ, tạm giam oan sai:
Với những trường hợp tạm giữ, tạm giam không đúng pháp luật gây thiệt hại
nhiều bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Được quy định trong Điều 72 Hiến
Pháp năm 1992: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản
án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi
thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong
việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm
minh.”
Hiện nay vấn đề này được điều chỉnh bởi Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước năm 2009, có hiệu lực ngày 1/1/2010. Quy định này không chỉ bảo vệ quyền
lợi ích chính đáng của công dân khi bị những người có thẩm quyền gây thiệt hại qua
việc điều tra, truy tố xét xử, thi hành án oan sai mà còn hạn chế những vi phạm trong
khi thi hành nhiệm vụ của những người, cơ quan tiến hành tố tụng nói chung.
II. Những bất cập còn tồn tại trong việc quy định về biện pháp tạm giữ
trong BLTTHS 2003.
Tuy BLTTHS 2003 đã có sửa đổi bổ sung rất nhiều so với BLTTHS 1988, và
đã có sự chặt chẽ hơn. Tuy nhiên thực tiễn áp dụng các quy định về biện pháp tạm
giữ vẫn còn nhỉều bất cập, đã gây không ít khó khăn cho những hoạt động áp dụng
các quy định trên.
a, Về khái niệm tạm giữ.
BLTTHS chưa có quy định cụ thể nào về khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm

giữ cho nên việc hiểu một cách chính xác về khái niệm tạm giữa còn có những ý
kiến khác nhau . Điều này ảnh hưởng đến việc áp dụng các quy định khác của biện
9


pháp ngăn chặn tạm giữ trong tố tụng hình sự. Thực tế này đòi hỏi cần có một khái
niệm cụ thể, đầy đủ và thống nhất về biện pháp ngăn chặn tạm giữ quy định trong
BLTTHS. Có như vậy, việc áp dụng luật mới được đúng đắn, triệt để và hanh chế
một cách tối đa việc hiểu sai bản chất của biện pháp ngăn chặn này.
Theo quy định tại điều 86 BLTTHS năm 2003 thì đây chưa hẳn là khái niệm
của biện pháp ngăn chặn tạm giữ bởi điều luật này mới chỉ nêu nên được đối tượng
bị áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Như vậy là chưa cụ thể và rõ ràng . Vì vậy, cần
phải có một quy định cụ thể về khái niệm BPNC tạm giữ trong BLTTHS.
b, Về căn cứ áp dụng BPNC tạm giữ.
BLTTHS hiện hành chưa có điều luật nào quy định cụ thể về căn cứ này,
khoản 1 Điều 86 chỉ quy định về các đối tượng bị áp dụng BPNC tạm giữ chứ không
quy định về căn cứ áp dụng biện pháp này. Như vậy ta có thể hiểu điều luật quy định
về việc tạm giữ là tùy nghi, do những người có thẩm quyền xem xét và quyết định
chứ không quy định tròn trường hợp nào thì bắt buộc phải tạm giữ. Trong khi đó,
Điều 86 lại quy định nếu Viện kiểm sát nhận thấy không có căn cứ hoặc không cần
thiết thì ra quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ. Vì không có quy định cụ thể nên
trên thực tế khi kiểm sát việc tạm giữ, Viện kiểm sát cũng chỉ chủ yếu xem xét yếu
tố “tính cần thiết” của việc tạm giữ, chứ không có cơ sở để xem xét “căn cứ” tạm
giữ. Ngoài ra, việc không quy định rõ còn dẫn đến cách hiểu không đúng về việc áp
dụng BPNC tạm giữ, họ cho rằng căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ là căn cứ áo
dụng các biện pháp bắt người nên cứ người nào bị bắt mà đang chờ để xác minh
thêm chứng cứ, tài liệu là bị áp dụng biện pháp tạm giữ.
Việc hiểu như trên không đúng với bản chất và mục đích của việc áp dụng
BPNC nói chung và biện pháp tạm giữ nói riêng, không thể lấy mục đích của việc
tiến hành hoạt động tố tụng để làm căn cứ áp dụng BPNC mà phải lấy căn cứ từ thực

tế có tính dự báo về hậu quả xấu xảy ra trong tương lai để áp dụng BPNC nhằm đảm
bảo mục đích của hoạt động tố tụng. Chính vì không có quy định rõ ràng về căn cứ
áp dụng cộng với cách hiểu sai lêch như trên dẫn đến việc tạm giữ những đối tượng
không cần thiết, số người bị tạm giữ sau đó phải trả tự do hàng năm khá nhiều. Do
vậy cần có quy định cụ thể về vấn đề này.
c,Về đối tượng tạm giữ.
10


Theo khoản 1 Điều 86 BLTTHS năm 2003 thì đối tượng có thể bị áp dụng biện
pháp tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang,
người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã.
Như chúng ta đã biết hai khái niệm “tự thú” và “đầu thú” là không giống
nhau. Tự thú là việc một người sau khi đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng hành vi
đó vẫn chưa bị phát hiện hoặc người phạm tội đó vẫn chưa bị phát hiện, nhưng sau
một thời gian do bị lương tâm cắn rứt, do hối hận về hành vi của mình, người đó đã
tự mình ra trước cơ quan có thẩm quyền trình diện và khai báo về hành vi phạm tội
của mình hoặc hành vi phạm tội của mình và đồng bọn.
Còn đầu thú là một người đã thực hiện hành vi phạm tội, hành vi đó đã bị phát
hiện, vụ án đó đã được khởi tố, có thể đã hoặc đang được thi hành điều tra, truy tố và
xét xử. Người đó đã bị khởi tố bị, bị can đó có thể chưa hoặc đã bị tạm giữ, tạm
giam hoặc đã bị xử phạt nhưng trốn tránh nay đang bị truy nã, sau một thời gian trốn
tránh người đó đã ra trước cơ quan bảo vệ pháp luật để trình diện khai nhận về các
hành vi của mình.
Việc người tự thú, đầu thú được coi là đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giữ, theo dõi thì cần phải quy định rõ trường hợp nào cần thiết phải
tạm giữ, trường hợp nào không cần thiết bởi vì những người người này phạm tội ở
mức độ khác nhau, có hoàn cảnh xuất thân cũng khác nhau…nên đây cũng là vướng
mắc, làm khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp luật trong việc áp dụng biện pháp
ngăn chặn tạm giữ đối với những đối tượng này.

d, Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ:
Theo khoản 2, Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “những người có quyền ra lệnh
bắt khẩn cấp quy định tại khoản 2, Điều 81 của bộ luật này. Chỉ huy trưởng vùng
cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ”. Việc điều luật quy định bổ sung thêm thẩm
quyền ra lệnh tạm giữ cho Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển . Điều này là hoàn
toàn hợp lý. Xuất phát từ đặc thù công việc và địa bàn hoạt động vì thế lực lượng
cảnh sát biển trong một số trường hợp được giao thẩm quyền điều tra thì Thủ trưởng
vùng cảnh sát biển có quyền ra lệnh tạm giữ. Tuy nhiên, hiện tại pháp luật chưa có
quy định cụ thể về việc Chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển có thẩm quyền quyết định

11


tạm giữ trong những trường hợp nào? Với những đối tượng nào? Chính vì vậy, về lý
luận cũng như trong thực tế áp dụng còn vướng mắc, cần sự quy định rõ ràng.
e, Về thời hạn tạm giữ.
Theo khoản 1 Điều 87 BLTTHS 2003 quy định “ thời hạn tạm giữ không được
quá ba ngày, kể từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt”. Để đạt được mục tiêu
của tạm giữ, thời điểm tính thời hạn tạm giữ không phải là thời điểm bắt người. Mặt
khác, để hạn chế việc giữ người trái pháp luật thì thời điểm tính thời hạn tạm giữ
cũng không được tính từ khi ra lệnh tạm giữ mà được tính từ khi cơ quan điều tra
nhận người bị bắt. Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng thì việc quy định như trên vẫn
còn nhiều vướng mắc
Thứ nhất: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ
được tính từ khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà theo quy định tại khoản 1
Điều 86 BLTTHS thì tạm giữ có thể áp dụng đối với người phạm tội tự thú, đầu thú.
Và như chúng ta đã biết người phạm tội tự thú đầu thú không phải là người bị bắt mà
họ tự nguyện trình diện, khai báo hành vi phạm tội. Họ không phải là người bị bắt.
Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là : thời hạn tạm giữ đối với họ được tính từ thời điểm nào?
Điều này chưa được pháp luật quy định.

Thứ hai: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ
không được quá ba ngày. Vậy câu hỏi đặt ra là từ “ngày” trong cụm từ “ba ngày”
được hiểu như thế nào? Có bao gồm cả ngày và đêm là 24 giờ hay chỉ là 12 giờ?
Điều luật này chưa có quy định rõ , cần có sự quy định rõ ràng hơn.
Thứ ba: Theo quy định tại khoản 1 Điều 87 BLTTHS thì thời hạn tạm giữ
không được quá ba ngày kể từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Điều này có
nghĩa là thời điểm tạm giữ được tính từ ngày cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Mà
theo quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 81 BLTTHS thì; Người chỉ huy tàu bay, tàu
biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến cảng mới có quyền ra lệnh bắt trong
trường hợp khần cấp, và có quyền ra quyết định tạm giữ theo khoản 2 Điều 86
BLTTHS. Tuy nhiên câu hỏi đặt ra là : Trong trường hợp tàu bay thì có thể kịp thời
hạn để giao hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ quan điều tra, nhưng trong một số
trường hợp tàu biển thì khó có thể về kịp thời hạn để giao người bị tạm giữ cho cơ

12


quan điều tra. Vậy trong trường hợp này thời hạn tạm giữ sẽ được tính như thế nào?
Điều này chưa được luật quy định.
f. Về gia hạn tạm giữ.
Theo khoản 2 Điều 87 BLTTHS quy định: “ Trường hợp cần thiết, người ra
quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ nhưng không được quá 3 ngày; trong
trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ hai lần
nhưng không được quá 3 ngày…”. Quy định này sẽ giúp cho người hoạt động điều
tra có hiệu quả hơn. Tuy nhiên luật cần nêu rõ: Trong trường hợp cần thiết đề ra
quyết định tạm giữ là những trường hợp nào? Mức độ cụ thể ra sao? Do luật chưa có
quy định rõ điều này nên trong thực tiễn áp dụng có thể dẫn tới sự áp dụng không
thống nhất quy đinh này trong việc gia hạn tạm giữ.
III. Hoàn thiện các quy định về tạm giữ trong tố tụng hình sự.
Nhằm làm cho các biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giữ nói

riêng phát huy tính tích cực, vai trò, ý nghĩa của nó trong việc ngăn chặn các hành vi
phạm tội, giúp cho công tác điều tra được nhanh chóng, kịp thời, làm cho quá trình
giải quyết các vụ án hình sự công bằng, đúng người, đúng tội. Đồng thời để khắc
phục những hạn chế nêu trên, có thể đưa ra một số biện pháp khắc phục những thiếu
sót và hoàn thiện các quy định về tạm giữ, như sau:
Thứ nhất, về khái niệm.
Như đã nói ở trên BLTTHS chưa có điều luật nào quy định cụ thể về khái niệm
BPNC tạm giữ. Do vậy nên quy định thêm khái niệm BPNC tạm giữ tại khoản 1
điều 86 một cách khái quát như sau:
“Tạm giữ là BPNC trong tố tụng hình sự, do cơ quan và người có thẩm quyền
theo luật định áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp,
trường hợp phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã, người phạm tội tự thú,
đầu thú nhằm ngăn chặn tội phạm, tạo điều kiện cho việc xử lí tội phạm được chính
xác và kịp thời.”
Thứ hai, về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ.
Theo phân tích ở trên một trong những bất cập trong BLTTHS đó là việc
chưa quy định căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ, dẫn đến nhiều sai phạm trong việc

13


áp dụng biện pháp này do vậy để hoàn thiện hơn BLTTHS cần bổ sung quy định về
vấn đề này,nên quy định theo hướng sau:
Tạm giữ có thể bị áp dụng biện pháp tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp
khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người
bị bắt theo lệnh truy nã khi có các căn cứ chứng tỏ: người đó có thể tiếp tục phạm
tội; người đó có thể trốn, tiêu hủy chứng cứ hoặc các hành vi khác gây khó khăn cho
việc xác định sự thật vụ án; người đó không có nơi cư trú rõ ràng hoặc chưa xác định
được nơi cư trú cũng như nhân thân, lai lịch của họ.
Thứ ba, về đối tượng tạm giữ.

Cần phải quy định rõ việc áp dụng BPNC tạm giữ đối với người phạm tội tự
thú và người phạm tội đầu thú. Theo đó cần quy định trường hợp cần thiết phải tạm
giữ đối với người phạm tội ra đầu thú, tự thú đó là các trường hợp người tự thú, đầu
thú phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng nhưng có nhân thân xấu,
không có nơi cư trú rõ ràng…thì bắt buộc phải áp dụng BPNC tạm giữ còn các
trường hợp khác thì không cần thiết bởi những người này có hoàn cảnh nhân thân
khác nhau, phạm tội ở các mức độ nặng, nhẹ khác nhau cho nên cần phải có quy
định cụ thể rõ ràng về từng trường hợp.
Thứ tư, về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ.
Như đã đã nói ở trên việc bổ sung thẩm quyền cho chỉ huy trưởng vùng cảnh
sát biển là cần thiết nhưng chưa đủ, vì đối tượng bị tạm giữ như đã phân tích ở trên
không chỉ là người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang mà còn là người bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp và những người khác theo quy định tại Điều 48
BLTTHS. Do vậy, cần bổ sung thẩm quyền quyết định bắt người trong trường hợp
khẩn cấp cho chỉ huy trưởng vùng cảnh sát biển.
Thứ năm, về thời gian tạm giữ
- Một là, tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung, quy định một cách cụ thể và phù
hợp hơn nữa các vấn đề như thời hạn tạm giữ, đối tượng áp dụng biện pháp này, từ
đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết vụ án hình sự. Nên sửa đổi cụm từ “3
ngày” trong khoản 1 Điều 87 BLTTHS thành “72 giờ” để hợp lí hơn hoặc cần giải
thích rõ ràng khái niệm “ngày” để có sự áp dụng thống nhất.

14


- Hai là, cần quy định cụ thể hướng giải quyết cụ thể hoặc bổ sung thêm quy
định về cách tính thời hạn tạm giữ đối với trường hợp người có thẩm quyền ra lệnh
tạm giữ là: Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời sân bay, bến
cảng mà khi tàu bay, tàu biển không thể về giao nộp người bị bắt cho cơ quan điều
tra đúng thời hạn như pháp luật đã quy định.

Thứ sáu, về gia hạn tạm giữ.
BLTTHS cần bổ sung thêm những căn cứ để gia hạn tạm giữ, tức là bổ sung
thêm những căn cứ để được coi là trường hợp cần thiết và trường hợp đặc biệt để có
thể gia hạn tạm giữ. Theo chúng tôi căn cứ để gia hạn tạm giữ có thể là: sự cần thiết
phải có thêm thời gian để xác minh căn cước, lai lịch của người bị tạm giữ; hành vi
phạm tội nghiêm trọng, phức tạp; khi xét cần ngăn chặn ngay người có hành vi chạy
trốn. Nếu không gia hạn tạm giữ, người đó sẽ trốn hoặc có hành động cản trở điều
tra làm rõ sự việc.
C. KẾT LUẬN.
Như vậy, qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện
pháp ngăn chặn tạm giữ, ta có những hiểu biết sâu hơn về vấn đề này, cụ thể ta có
kiến thức về mục đích, đối tượng, người có thẩm quyền tạm giữ, thời hạn cũng như
là trình tự thủ tục tạm giữ và các vấn đề khác liên quan như áp dụng biện pháp này
với một số đối tượng đặc biệt và chế độ tạm giữ. Đồng thời qua đây ta thấy việc quy
định và áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ nói riêng các biện pháp ngăn chặn nói
chung trong tố tụng hình sự có ý nghĩa lớn trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội
phạm. Chính vì có vai trò quan trọng như vậy, nên các nhà làm Luật cần nghiên cứu
kĩ lưỡng nhằm đưa ra những giải pháp hiệu quả nhất khắc phục những hạn chế thiếu
sót nhằm phát huy hơn nữa vai trò, hiệu quả của biện pháp ngăn chặn này.

15



×