Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung - dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.27 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
TRANG
A. MỞ BÀI……………………………………………………………….……...…2
B. NỘI DUNG………………………………………………………………...……2
I. Một số vấn đề về nguyên tắc tập trung dân chủ……………………………...….2
1. Một số quan điểm hiện nay về nguyên tắc tập trung dân chủ…………….….…..2
2. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà
nước………………………………………………………………………………....3
3. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ……………………………….......…4
3.1 Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực
nhà nước cùng cấp………………………………………………………….………4
3.2. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương
3.3. Sự phân cấp quản lý………………………………………………………...….5
3.4. Sự hướng về cơ sở………………………………………………………......….6
3.5. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương…………………………………………………………………………..…..6
II. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung - dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước
ở Việt Nam hiện nay……………………...………………………………………..8
III. Một số phương hướng nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân
chủ trong quản lý hành chính nhà nước………………………………………...…10
C. KẾT BÀI……………………………………………...………………………..11
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………12

1


A. MỞ BÀI
Tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt
động của các cơ quan nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nguyên
tắc này đã được ghi nhận tại Điều 4 Hiến pháp 1959, Điều 6 Hiến pháp 1980 và Điều
6 Hiến pháp 1992 “…Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước


đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Không những ở nước ta,
các nước xã hội chủ nghĩa cũng ghi nhận nguyên tắc này trong Hiến pháp và cũng xác
định là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Như vậy, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ phải là một hoạt động thường
xuyên trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và của các
cơ quan nhà nước nói riêng. Vấn đề đặt ra tưởng rằng như đơn giản nhưng hiện nay
còn nhiều ý kiến chưa thống nhất là: hiểu nội dung của nguyên tắc này như thế nào
cho đúng, sau đây em xin phân tích nguyên tắc tập trung - dân chủ và chỉ ra ý nghĩa
của nguyên tắc này trong quản lí hành chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay để chúng
ta hiểu đúng và rõ hơn về nguyên tắc này.
B. NỘI DUNG
I. Một số vấn đề về nguyên tắc tập trung dân chủ
1. Một số quan điểm hiện nay về nguyên tắc tập trung dân chủ.
Về cơ sở pháp lí thì đây là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động nhà
nước ta nên việc quản lí hành chính nhà nước phải tuân theo nguyên tắc này . Điều 6
Hiến pháp dã quy định: Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà
nước đều tổ chức và hoạt động dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên vẫn
có một số ý kiến trái chiều về nguyên tắc này:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng nội dung của nguyên tắc này là sự kết hợp hai mặt
tập trung và dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước. “Tập trung
dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất, không bao giờ được phép cường điệu hoặc
coi nhẹ bất cứ mặt nào. Nếu quá tập trung sẽ dẫn đến tình trạng tập trung quan liêu,
độc đoán, chuyên quyền, phi dân chủ, còn nếu quá dân chủ sẽ dẫn đến tình trạng dân
chủ quá trớn, lạm dụng dân chủ và vô chính phủ. Nói như vậy cũng không có nghĩa là
chúng ta dàn đều cả hai nội dung tập trung và dân chủ.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ là “sự” tập trung
“một cách” dân chủ. Nguyên tắc này thể hiện sự tập trung trên cơ sở dân chủ chân
chính, kết hợp sáng tạo với sự thực hiện, chấp hành nghiêm chỉnh và tinh thần trách
2



nhiệm, ý thức kỷ luật cao. V.I. Lênin đã nhấn mạnh rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ
ở nghĩa chung nhất là: tập trung được hiểu ở nghĩa dân chủ thực sự.
Ngoài ra, còn có loại ý kiến thứ ba cho rằng tập trung dân chủ là việc thủ trưởng
có toàn quyền quyết định các vấn đề của cơ quan trên cơ sở đóng góp ý kiến của nhân
viên. Hay nói một cách khác, việc đóng góp ý kiến của cán bộ, công nhân viên, các
thành viên trong cơ quan, đơn vị chỉ có ý nghĩa tham khảo và việc quyết định thuộc
thẩm quyền của thủ trưởng.
=> Về nhận xét của bản thân em thì em hoàn đồng ý với ý kiến thư nhất. Vì ta
có thể thấy rằng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước là sự kết hợp giữa hai yếu tố (hai mặt) tập trung và dân chủ. Sự kết hợp
giữa các mặt này là không giống nhau, điều đó phụ thuộc vào tính chất của các cơ
quan, phụ thuộc vào trình độ quản lý, vào điều kiện cụ thể về tổ chức và hoạt động của
các cơ quan nhà nước.
2. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính
nhà nước
Nội dung của nguyên tắc này là sự kết hợp hai mặt tập trung và dân chủ trong tổ
chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
Trong quản lý hành chính nhà nước, tập trung là việc đảm bảo thâu tóm quyền
lực nhà nước vào chủ thể quản lý để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện chính sách,
pháp luật một cách thống nhất. Trong khi đó, dân chủ hướng tới việc mở rộng quyền
cho đối tượng quả lý nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lý, phát huy
khả năng tiềm tàng của đối tượng quản lý trong quá trình thực hiện chính sách, pháp
luật. Cả hai yếu tố tập trung và dân chủ cần phải có sự phối hợp một cách đồng bộ,
chặt chẽ với nhau, chúng có mối quan hệ qua lại phụ thuộc và thúc đẩy nhau cùng phát
triển trong quản lý hành chính nhà nước. Ngược lại nếu chỉ lãnh đạo tập trung mà
không mở rộng dân chủ trong quản lý thì dẫn đến tập trung quan liêu, hách dịch cửa
quyền, sẽ tạo điều kiện cho các hành vi vi phạm quyền công dân nảy sinh. Nếu không
có sự lãnh đạo tập trung thống nhất thì sẽ dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, vô chính phủ,
cục bộ địa phương. Trong điều kiện hiện nay sự lãnh đạo tập trung trên cơ sở dân chủ

là yêu cầu khách quan của việc “thực hiện nhất quán chính sách phát triển của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” ( Điều 15 Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi bổ sung năm 2001).
Tuy nhiên, đây không phải là sự tập trung toàn diện và tuyệt đối, mà chỉ đối với
những vấn đề cơ bản, chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó bảo đảm cho cơ
3


quan cấp dưới, cơ quan địa phương có cơ sở và khả năng thực hiện quyết định của
trung ương; đồng thời, căn cứ trên điều kiện thực tế của mình, có thể chủ động sáng
tạo trong việc giải quyết các vấn đề của địa phương và cơ sở.
3. Biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước biểu hiện
những nội dung sau:
3.1 Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực
nhà nước cùng cấp
Hiến pháp nước ta đã ghi nhận nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
Theo Điều 6 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung nănm 2001) “Nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại
diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm
trước nhân dân”.
Để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước của nhân dân trên các lĩnh
vực đời sống của xã hội, hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới địa
phương được thành lập. Trong tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước
luôn có sự phụ thuộc vào cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Trước hết, cơ quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong
việc thành lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính nhà nước ở cùng cấp. Ở
trung ương, Quốc hội thành lập ra Chính phủ và trao cho nó quyền hành pháp. Quốc
hội thành lập, sáp nhập, giải thể các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt theo sự đề nghị của Thủ tướng (sau khi đã được tập thể Chính phủ
quyết định). Ở địa phương, các UBND do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và thực

hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở địa phương. Các cơ quan khác trong hệ
thống cơ quan hành chính nhà nước (như Bộ, cơ quan ngang Bộ…) đều do các cơ
quan quyền lực nhà nước ở cùng cấp trực tiếp hay gián tiếp quyết định việc thành lập,
thay đổi hay bãi bỏ.
Trong hoạt động các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ đạo, giám
sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động
của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Chẳng hạn, Chính phủ chịu sự
giám sát tối cao của Quốc hội, phải báo cáo công tác trước Quốc hội và phải trả lời
chất vấn của đại biểu Quốc hội.

4


Tất cả sự phụ thuộc nêu trên đều nhằm đảm bảo cho sự tập trung quyền lực vào
hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước – cơ quan do dân bầu ra và chịu trách nhiệm
trước nhân dân.
Dân chủ được thể hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực Nhà nước trao
quyền chủ động, sáng tạo cho cơ quan hành chính Nhà nước trong quá trình cơ quan
này chỉ đạo thực hiện pháp luật và các văn bản khác của cơ quan quyền lực. Các cơ
quan quyền lực nhà nước có những quyền hạn nhất định trong việc thành lập, thay đổi,
bãi bỏ các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp.
3.2. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung
ương
Sự phục tùng này nhằm đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền
lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương. Thiếu sự phục
tùng đó sẽ dẫn đến việc buông lõng sự lãnh đạo, quản lí tập trung của trung ương và
cấp trên, làm nãy sinh tình trạng tùy tiện, vô chính phủ cục bộ địa phương. Sự phục
tùng này biểu hiện cả hai phương diện tổ chức và hoạt đông. Tuy nhiên sự phục tùng ở
đây là sự phục tùng mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật. Sự phục
tùng này đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát

hoạt động của cấp dưới và địa phương. Đông thời cấp trên, trung ương cũng phải tôn
trọng í kiến của cấp dưới địa phương về công tác tổ chức hoạt động vá các vấn đề khác
quản lí hành chính nhà nước.
Ví dụ: Người đứng đầu cơ quan hành chính cấp trên có quyền điều động, miễn
nhiệm, cách chức đối với Chủ tịch, Phó Chủ tịch cơ quan hành chính cấp dưới trực
tiếp; phê chuẩn việc miễn nhiệm, bãi nhiệm các thành viên khác của cơ quan hành
chính cấp dưới trực tiếp. Đối với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Các cơ quan thuộc Chính
phủ làm việc theo chế độ thủ trưởng, bảo đảm tính dân chủ. Bộ trưởng có quyền quyết
định các công việc thuộc phạm vi quản lý của Bộ và chịu trách nhiệm về các quyết
định đó. Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân chịu sự chỉ đạo, quản lý về
tổ chức, biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân cùng cấp, đồng thời chịu sự chỉ
đạo, kiểm tra về nghiệp vụ của cơ quan chuyên môn cấp trên và hoạt động theo chế độ
thủ trưởng.
Tập trung dân chủ không phải là cơ quan cấp trên làm thay hoặc “lấn sân” cơ
quan cấp dưới, đồng thời cũng không phải là việc cơ quan cấp dưới ỷ lại, đùn đẩy cho
cấp trên. Cấp trung ương phải tôn trọng ý kiến của cấp dưới, của địa phương…góp
phần phát huy sự chủ động sáng tạo trong việc hoàn thiện nhiệm vụ được giao.
5


3.3. Sự phân cấp quản lý
Phân cấp quản lý là sự phân định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cấp trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước. Khi tiến hành phân cấp quản lý, đã có
sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp dưới nhằm đạt được một cách có
hiệu quả nhất mục tiêu chung của hoạt động quản lý hành chính nhà nước Mỗi cấp
quản lý có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và phương thức để thực hiện một
cách tốt nhất những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp mình. Trong phạm vi thẩm quyền
được giao mỗi cấp quản lí được phép tiến hành những hoạt động nhất định nhằm phát
huy tính năng động sáng tạo của mình.
Phân cấp là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ. Tuy nhiên điều này

điều này chỉ được thực sự thực hiện khi việc phân cấp quản lí bảo đảm được những
yêu cầu sau:
- Việc phân cấp quản lí phải đảm bảo cho trung ương có những quyết định trong
lĩnh vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược nhằm đảm bảo sự phát triển
cân đối và hài hòa của toàn xã hội bảo đảm sự quản lí tập trung thống nhất của nhà
nước trong phạm vi toàn quốc.
- Mạnh dạn giao quyền cho các địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy tính
chủ động tích cực và sáng tạo trong quản lí, tích cực phát huy sức người sức của đẩy
mạnh sản xuất và phục vụ đời sống, trên cơ sở đó hoàn thành mọi nhiệm vụ được cấp
trên và trung ương giao phó. Mạnh dạn phân cấp cho địa phương và cơ sở là biện pháp
bảo đảm tập trung, tránh cho trung ương và cấp trên phải ôm đồm nhiều việc, quản lí
nhiều việc cụ thể trên các lĩnh vực khác nhau.
- Việc phân cấp quản lí phải thật cụ thể, hợp lí trên cơ sở những quy định pháp
luật tránh đưa ra những quyết định mang tính chung chung tùy tiện.
Như vậy, phân cấp quản lý là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Phân cấp quản lý là biện pháp bảo đảm tập trung làm cho tập trung thoát khỏi tính
quan liêu mệnh lệnh. Thực hiện tốt sự phân cấp quản lý sẽ phát huy được tính chủ
động, sang tạo của các cấp quản lý, khâu quản lý.
3.4. Sự hướng về cơ sở:
Hướng về cơ sở là việc các cơ quan hành chính nhà nước mở rộng dân chủ trên
cơ sở quản lý tập trung đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn
hóa xã hội trực thuộc. Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính Nhà nước là nơi trực
tiếp tạo ra của cải vật chất phục vụ nhân dân lao động. Do vậy, phải tạo điều kiện cho
các đơn vị kinh tế, văn hoá, xã hội hoàn thành công việc của mình. Đây là việc cơ
6


quan hành chính Nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung đối với các
hoạt động của toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa, xã hội trực thuộc. Nhà
nước có các chính sách và biện pháp quản lý một cách thống nhất và chặt chẽ về tổ

chức và hoạt động của các đơn vị cơ sở.
Ví dụ: ở tỉnh Hà Tĩnh, Tỉnh uỷ đã ban hành Nghị quyết phân công cụ thể các
đơn vị cấp tỉnh, cấp huyện giúp đỡ, xây dựng các công trình đường, trường, trạm đối
với từng xã, thôn cụ thể. Việc làm này đã mang lại kết quả rất khả quan, tình hình an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, an toàn giao thông được giữ vững và phát triển,
đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Hướng về cơ sở là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý
hành chính nhà nước bởi vì thông qua hoạt động này mọi hoạt động của các đơn vị cơ
sở luôn theo đúng khuôn khổ pháp luật dưới sự giám sát, kiểm tra của cấp trên, Trung
ương và do vậy nhà nước thống nhất tập trung được quyền lực.
Hướng về cơ sở là mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lý tập trung, có như vây
mới đảm vảo được sự thống nhất giữa lợi ích của cơ sở với lợi ích của nhà nước, xã
hội, đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở thuận lưọi và hiệu quả.
3.5. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và hoạt động
theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều (chiều dọc và chiều ngang) hay còn gọi là nguyên
tắc song trùng trực thuộc.
Cơ quan quản lý hành chính Nhà nước có thẩm quyền chung ở địa phương (Uỷ
ban nhân dân) phụ thuộc vào cơ quan quyền lực Nhà nước cùng cấp (Hội đồng nhân
dân) – quan hệ ngang, và phụ thuộc vào cơ quan quản lý hành chính Nhà nước cấp
trên ở cấp trực tiếp – quan hệ dọc.
Mối phụ thuộc dọc nhằm tập trung quyền lực nhà nước để chỉ đạo hoạt động
của cấp dưới tạo nên hoạt động chung thống nhất. Mối phụ thuộc ngang tạo điều kiện
cho cấp dưới mở rộng dân chủ, phát huy thế mạnh của địa phương.
Mối phụ thuộc hai chiều này đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích chung của
nước với lợi ích của địa phương, lợi ích ngành và lợi ích lãnh thổ.
Ví dụ: Sở Lao động thương binh và xã hội một mặt phụ thuộc vào UBND tỉnh
Y, mặt khác phụ thuộc vào Bộ Lao động thương binh và xã hội.
Để thực hiện tốt mối quan hệ phụ thuộc hai chiều trên đòi hỏi phải có sự đồng
bộ trong việc phân công, phân nhiệm rõ ràng, rành mạch nội dung công tác quản lý

hành chính của các cơ quan liên quan trong mối quan hệ phụ thuộc hai chiều.
7


Ví dụ: Trong tổ chức và hoạt động của Sở kế hoạch đầu tư thì phải phân định rõ
ràng lĩnh vực nào, nội dung nào thuộc quyền quản lý của Bộ chủ quan (Bộ kế hoạch
và đầu tư), đâu là nội dung quản lý thuộc quyền quản lý thuộc thẩm quyền của UBND
cùng cấp.
=> Năm mặt biểu hiện trên đây của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý
hành chính nhà nước là không thể thiếu. Mỗi mặt biểu hiện đều thể hiện tính tập trung,
đồng thời cũng thể hiện tính dân chủ tỏng quản lý hành chính nhà nước. Tuy mỗi mặt
đều có tính độc lập tương đối nhưng trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước
chúng có quan hệ mật thiết hữu cơ không tách rời nhau, bổ sung cho nhau và thể hiện
đầy đủ bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ.
II. Ý nghĩa của nguyên tắc tập trung - dân chủ trong quản lý hành chính
nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Vận dụng nguyên tắc tập trung - dân chủ có ý nghĩa to lớn trong quản lý hành
chính nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Trước hết tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản đóng vai trò tư tưởng chủ
đạo, xuyên suốt trong quá trình thực hiện quản lí nhà nước, quản lí xã hội. Trong quản
lí hành chính thì nguyên tắc này đảm bảo cho sự tập trung quyền lực nhà nước vào chủ
thể quản lí để điều hành chỉ đạo việc thực hiện chính sách pháp luật một cách thống
nhất, đồng thời nguyên tắc này đảm bao cho việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lí
nhằm phát huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lí phát huy khả năng tiềm tàng của
đối tượng quản lí trong việc thực hiện chính sách pháp luật.
Thứ hai, vận dụng nguyên tắc tập trung – dân chủ trong quản lý hành chính nhà
nước tạo nên sự thống nhất được quyền lực trong quản lý, bảo đảm việc thâu tóm
quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lý.
Việc vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước
tạo nên một sự thống nhất về ý chí trong việc quản lý hành chính nhà nước, tạo ra sự

nhịp nhàng, ăn khớp giữa các cơ quan, ngành khối trong toàn xã hội mà vẫn bảo đảm
để cho các địa phương trong nước có quyền tự do tương đối trong việc định ra các
hình thức phát triển khác nhau phù hợp với địa phương của mình. Tạo nên một sức
mạnh tổng thể cho đất nước.
Thứ ba, vận dụng nguyên tắc còn giúp cho việc thực hiện quyền lực làm chủ
của nhân dân hoàn thiện hơn, người dân có thể thực hiện quyền giám sát của mình một
cách hữu hiệu, tạo nên một cơ chế đảm bảo cho quần chúng tích cực tham gia vào
công tác quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, cần lưu ý là việc áp dụng yếu tố dân
8


chủ nhưng không thể loại trừ trách nhiệm cá nhân, nghĩa là, dân chủ nhưng phải gắn
với trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể, trong công việc nhất định, ở thời gian xác
định. Tập trung - dân chủ nhưng cũng đề cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ
chức chính quyền các cấp trong thực hiện chính sách, pháp luật, thiết lập một trật tự
hành chính phù hợp với việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương của nền hành chính.
Vận dụng nguyên tắc này nhằm mục đích bảo đảm cho hoạt động của hệ thống
cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân
lao động, bảo đảm sự tập trung quyền lực vào cơ quan quyền lực-cơ quan do dân bầu
và chịu trách nhiệm trước nhân dân; hơn nữa còn tạo điều kiện cho người dân tham gia
tích cực vào quá trình quản lý nền hành chính hiệu lực-hiệu quả của đất nước.
Thứ tư, vận dụng nguyên này trong quản lý hành chính còn góp phần làm tăng
hiệu quả hoạt động của công tác quản lý hành chính ở nước ta.
Mặc dù nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc quản lý hành chính nhà
nước mang tính chất chỉ đạo hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội nhưng khi vận
dụng vào thực tế, nguyên tắc này đã giúp cho công tác quản lý hành chính nhà nước
đạt được những hiệu quả rất tốt trong việc tăng hiêu quả hoạt động của công tác quản
lý hành chính. Chính phủ, các Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện vai trò chức
năng quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
các nội dung hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội;

xây dựng và ban hành thể chế, chính sách; hướng dẫn việc tổ chức thực hiện; thanh
tra, kiểm tra và xử lý vi phạm.
Vận dụng tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước
còn phải gắn chặt với chống tham nhũng bằng các biện pháp mạnh mẽ và quyết liệt.
Tập trung vào xoá bỏ căn bản cơ chế “xin - cho” đối với các lĩnh vực, các cấp hành
chính để loại bỏ tiêu cực, sách nhiễu, tham nhũng sinh ra từ cơ chế “xin - cho” này.
Tiếp tục xoá bỏ triệt để hơn “cơ chế chủ quản đối với doanh nghiệp nhà nước” bằng
cách cải cách cả các cơ quan hành chính, cơ quan chủ quản và cải cách doanh nghiệp
nhà nước. Trên cơ sở tách hẳn giữa quản lý hành chính nhà nước với quản lý sản xuất
- kinh doanh, tiến hành cổ phần hoá mạnh doanh nghiệp nhà nước và Công ty hoá
doanh nghiệp nhà nước để hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Đây là giải pháp căn
bản nhất để loại bỏ cơ chế chủ quản và cơ quan chủ quản đối với doanh nghiệp nhà
nước và để chống tham nhũng từ cơ chế sinh ra.
Thứ năm, vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà
nước cũng góp phần làm cho bộ máy nhà nước tinh gọn, thực hiện hoạt động quản lý
9


có hiệu quả. Trên cơ sở thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ các cơ quan nhà nước
thực hiện nhất quán nguyên tắc tổ chức bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực đối với tất cả
các bộ để thay thế hay loại bỏ mô hình bộ quản lý đơn ngành, đơn lĩnh vực trong cơ
cấu tổ chức của Chính phủ. Mặt khác, còn sắp xếp, hợp nhất một số cơ quan ngang bộ
và cơ quan thuộc Chính phủ để chuyển chức năng quản lý nhà nước của cơ quan đó
vào các bộ tương ứng. Coi đây như là nguyên tắc cần thống nhất để thu gọn số lượng
các bộ đến mức cần thiết và khắc phục được nhiều hơn các lĩnh vực quản lý giao thoa,
chồng lấn khó phân công, phối hợp do cơ cấu tổ chức Chính phủ có nhiều bộ, ngành
sinh ra.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ cũng góp phần to lớn trong việc
triển khai đồng bộ, nâng cao chất lượng cơ chế “một cửa” theo yêu cầu công khai,
minh bạch coi đó như là một bước đột phá trong cải cách thủ tục hành chính đi vào

chiều sâu để loại bỏ mạnh thủ tục hành chính rườm rà, nhiều cửa phức tạp, nảy sinh
tiêu cực, tham nhũng, cản trở các hoạt động kinh tế - xã hội. Qua đó làm thay đổi và
tạo lập được mối quan hệ mới giữa các cơ quan hành chính với công dân, doanh
nghiệp, tổ chức xã hội; giữa nhà nước với thị trường; giữa thị trường với doanh
nghiệp.
Cuối cùng, thực hiện tốt và có hiệu quả nguyên tắc tập trung dân chủ trong
quản lý hành chính nhà nước còn tăng cường sự đoàn kết nội bộ, tạo không khí tích
cực và tin cậy của đội ngũ cán bộ đối với cấp lãnh đạo, thể hiện được bản chất nhà
nước.
III. Một số phương hướng nhằm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tập
trung dân chủ trong quản lý hành chính nhà nước.
Cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ nhằm đem lại cho nó một nội hàm mới
phù hợp yêu cầu mới về quản lí nhà nước , phù hợp với điều kiện kinh tế phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy xuất phát từ tính độc lập
tương đối trong tổ chức thực hiện quyền hành pháp và hành chính trong nhà nước vẫn
có thể đề ra những phương pháp cụ thể để đổi mới nội dung và yêu cầu tập trung dân
chủ trong tổ chức và hệ thống hành chính nhà nước. Cụ thể:
Xây dựng và thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo, kiểm tra và xử lý các vấn
đề kịp thời, đúng đắn; khách quan và khoa học. Các chủ trương, quyết định của cấp
trên phải được thông báo kịp thời cho cấp dưới, để cấp dưới năm được đúng tinh thần
chỉ đạo của cấp trên, từ đo chủ động giải quyết các vấn đề đúng páhp luật và đáp ứng
yêu cầu của cấp trên. Các hoạt động của cấp dưới phải báo cáo kịp thời và đầy đủ cho
10


cấp trên để cấp trên nắm được và có sự chỉ đạo đối với cấp dưới, tạo sự nhịp nhàng,
đồng bộ của cả bộ máy nhà nước. Các cơ quan nhà nước cấp trên phải thực hiện kiểm
tra và xử lý các vi phạm một cách nghiêm minh, đúng pháp luật;
Bên cạnh đó, cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về
năng lực và phẩm chất theo những tiêu chuẩn xác định phù hợp với tính chất và yêu

cầu quản lý đối với từng ngành, từng lĩnh vực và mỗi cấp quản lý. Nhất là chất lượng
hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là đòi hỏi cấp thiết hiện nay.
Phải đảm bảo tính chất đồng bộ trong thực hiện tập trung dân chủ. Không chỉ
đơn giản kết hợp đúng đắn, đồng bộ giữa tập trung với dân chủ để dân chủ luôn đi đôi
với tập trung và tập trung phải trên cơ sở dân chủ mà còn phải đảm bảo đồng bộ với
các nguyên tắc khác trong quản lí hành chính nhà nước.
Hiện nay, Nhà nước ta đang thực hiện công cuộc cải cách hành chính. Cải cách
nền hành chính Nhà nước nhằm đáp ứng với yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mở
cửa là nhiệm vụ cấp bách hiện nay nhưng không vì thế mà chúng ta nóng vội, chủ
quan, đốt cháy giai đoạn mà chúng ta cần phải căn cứ vào thực tiễn tình hình chính trị,
kinh tế, xã hội của đất nước, trình độ cán bộ, tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm quả
lý Nhà nước để đưa ra giải pháp cải cách phù hợp. Đồng thời một vấn đề quan trọng
đặt ra là việc cải cách nền hành chính nhất nhất phải tuân theo các nguyên tắc cơ bản
trong quản lý Nhà nước ở nước ta, trong đó việc vận dụng đúng đắn và sáng tạo
nguyên tắc tập trung dân chủ là một vấn đề hết sức cần thiết.
C. KẾT BÀI
Tập trung và dân chủ là một trong những nguyên tắc quản lí hành chính nhà
nước khoa học. Có thể nói, Hiến pháp đã ghi nhận nó là nguyên tắc cơ bản trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên việc thực hiện đúng đắn nội dung
của nguyên tắc này là một nhiệm vụ hết sức khó khăn và vô cùng quan trọng. Chỉ khi
nào chúng ta kết hợp được sự tập trung và dân chủ một cách hài hoà thì mới phát huy
được hết vai trò của nguyên tắc này trong thực tế xã hội nước ta hiện nay. Đây là một
câu hỏi lớn đặt ra cho các nhà làm luật ở nước ta hiện nay, làm thế nào để khắc phục,
làm rõ được nội dung, hình thức và sự vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong
điều kiện nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy phát huy, sức mạnh
của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới được thực thi và sức sáng tạo của
người dân mới được tôn trọng và giải phóng. Thiết nghĩ đây cũng là điều mà các nhà
làm luật đang hướng đến.
11



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2008;
2. Hiến pháp của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt Nam năm 1946, 1959,
1989, 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001, NXB Lao Động – 2010.
3. Tạp chí Khoa hoc – pháp luật số 3/2004, Nguyên tắc tập trung dân chủ trong
tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước, Thạc sĩ - Vũ Văn Nhiêm.
4. Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2006, Vấn đề cụ thể hóa nguyên tắc tập

trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nướcThạc sĩ Nguyễn Phước Thọ.

5. Khoá luận tốt nghiệp - Đồng Thị Hữu, Nguyên tắc tập trung dân chủ trong
tổ chức và hoạt động trong quản lý nhà nước.
6. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia - Sự vận dụng nguyên tắc
tập trung dân chủ trong hoạt động quản lý của Nhà nước, PTS. Nguyễn
Tiến Phồn .
7.

12



×