QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC CHỦ THỂ CỦA QUYỀN
TÁC GIẢ VÀ QUYỀN LIÊN QUAN
Trong tập bài giảng về Quyền Sở hữu trí tuệ của mình, giáo sư Michael Blakeney
(Viện nghiên cứu sở hữu trí tuệ Queen Mary, Đại học London) viết: “Sự phát triển của
một quốc gia phụ thuộc rất lớn vào khả năng sáng tạo của người dân của quốc gia đó, và
việc khuyến khích khả năng sáng tạo cá nhân và truyền bá nó là điều kiện thiết yếu cho
sự tiến bộ. Quyền tác giả là yếu tố cấu thành quan trọng của quá trình phát triển. Kinh
nghiệm cho thấy, sự giàu có của di sản văn hóa quốc gia phụ thuộc trực tiếp vào trình độ
bảo hộ đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật. Số lượng các sáng tạo trí tuệ quốc gia
càng nhiều thì danh tiếng của quốc gia ấy càng cao; số lượng các sản phẩm trong văn
học và nghệ thuật càng nhiều thì càng có nhiều cộng sự trong các ngành công nghiệp
giải trí, sách báo, ghi âm; và thực vậy, suy cho cùng thì việc thúc đẩy sáng tạo trí tuệ là
một trong những cơ sở tiên quyết cho mọi sự phát triển xã hội, kinh tế và văn hóa. Bảo
hộ quyền tác giả, từ góc độ của người tạo ra tác phẩm, chỉ có ý nghĩa nếu người tạo ra
tác phẩm thực sự được hưởng lợi từ các tác phẩm đó, và điều này không thể có được nếu
không có sự công bố, truyền bá đó.” Thật vậy, pháp luật của hầu hết các quốc gia đều ghi
nhận tầm quan trọng của việc bảo hộ quyền tác giả. Việc bảo hộ quyền tác giả góp phần
thúc đẩy sự sáng tạo của con người. Dưới góc độ pháp lý, bảo hộ quyền tác giả là việc
nhà nước thông qua hệ thống pháp luật, xác lập quyền của chủ thể (có thể là tổ chức, cá
nhân) đối với đối tượng quyền tác giả tương ứng và bảo vệ quyền đó chống lại bất kỳ sự
vi phạm nào từ phía thứ ba.
Các khía cạnh của quyền tác giả:
Vào cuối thế kỷ 18, theo sáng kiến của các nhà triết học vĩ đại như Kant, họ cho
rằng, quyền tác giả không chỉ là một quyền về tài sản mà hơn thế, còn là một quyền về
nhân cách. Tác phẩm không phải là một thứ hàng hóa, mà nó là nhân cách của tác giả và
1
là sự kéo dài chính bản thân con người. Trào lưu tư tưởng đó đã có một ảnh hưởng to lớn
đến sự tiến triển trong các bộ luật về quyền tác giả ở Tây Âu sau này, và đó cũng là
nguồn gốc sản sinh ra quyền tinh thần của tác giả.1
Quyền tác giả gồm hai nhóm quyền: quyền tài sản và quyền nhân thân. Quyền tài sản bảo
vệ các lợi ích kinh tế của tác giả và cho phép tác giả thu lợi bằng cách khai thác trực tiếp
hoặc gián tiếp tác phẩm. Quyền nhân thân bảo vệ sự toàn vẹn về sáng tạo và danh tiếng
của tác giả sáng tạo được thể hiện thông qua tác phẩm.
1. Nội dung quyền tác giả
1.1.
Quyền nhân thân
Có sự khác nhau trong các quy định về quyền nhân thân của tác giả giữa hai hệ
thống luật chính trên thế giới – Common Law (với luật bản quyền) và Civil Law (với
Luật quyền tác giả). Theo luật sở hữu trí tuệ của Pháp, quyền nhân thân bao gồm quyền
công bố tác phẩm, quyền đứng tên tác phẩm, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm và
quyền sửa chữa tác phẩm hoặc rút tác phẩm ra khỏi lưu thông. Trong khi đó, pháp luật
bản quyền của Hoa Kỳ quy định quyền nhân thân hẹp hơn, quyền này bao gồm quyền
đứng tên tác phẩm và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm (cấm những thay đổi gây
hại đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của tác giả). Quy định đó nhằm tránh trường hợp
các tác giả lạm dụng quyền nhân thân gây cản trở việc khai thác tác việc khai thác tác
phẩm của chủ sở hữu, hạn chế khả năng tiếp cận của người sử dụng đối với tác phẩm2.
Luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam tiếp cận theo hướng tương tự pháp luật quyền tác giả,
quy định phạm vi rộng của quyền nhân thân của tác giả. Khoản 2 Điều 738 BLDS Việt
Nam 2005 quy định:
“Quyền nhân thân thuộc quyền tác giả bao gồm:
a) Đặt tên cho tác phẩm;
1
TS.LS Lê Xuân Thảo, Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, NXB Tư pháp, 2005, tr25, 26
Theo Vũ Thị Thanh Tú (Học viên khoa Luật, ĐH Tự do Brusells, Bỉ), “Pháp luật về quyền tác giả và Pháp luật về
bản quyền – Một số điểm khác biệt)
2
2
b) Đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi
tác phẩm được công bố, sử dụng;
c) Công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;
d) Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén, xuyên
tạc tác phẩm.”
Nhìn chung, hầu hết các nước đều công nhận ít nhất hai loại quyền nhân thân là:
-
Quyền đứng tên là tác giả của phẩm: khi tác phẩm của một tác giả được xuất bản,
tái bản, truyền tải đến công chúng hoặc trưng bày công khai, người chịu trách
nhiệm làm việc này phải bảo đảm tên của tác giả phải được nêu trong hoặc gắn
-
liền với tác phẩm một cách hợp lý;
Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm: quyền này cấm việc thay đổi, sửa đổi
hoặc thay thế nội dung tác phẩm theo chiều hướng gây phương hại đến danh dự
hoặc uy tín của tác giả.
Theo pháp luật Việt Nam, các quyền nhân thân của tác giả gồm 4 quyền cụ thể
được quy định tại khoản 2 điều 738 BLDS 2005 và điều 19 Luật sở hữu trí tuệ:
-
Quyền đặt tên cho tác phẩm là quyền nhân thân quan trọng đầu tiên, khai sinh cho
sự ra đời của tác phẩm và thể hiện rõ ý tưởng sáng tạo của tác giả. Trong trường hợp tác
giả tham khảo ý kiến của người khác để đặt tên cho tác phẩm của mình thì không có
nghĩa là người khác có quyền đặt tên cho tác phẩm hoặc đã thực hiện một phần của
quyền này trên thực tế. Sở dĩ như vậy vì tác giả là người biết rõ nhất về tác phẩm, về ý
tưởng sáng tạo của mình và tên tác phẩm do chính tác giả quyết định cũng thể hiện dụng
ý của tác giả trong mối liên hệ tới những ý tưởng sáng tạo đó.
-
Quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh
khi tác phẩm được công bố, sử dụng là quyền của tác giả được xã hội công nhận quyền
của họ đối với tác phẩm. Khi tác phẩm của một tác giả được xuất bản, tái bản, truyền tải
đến công chúng hoặc trưng bày công khai, người chịu trách nhiệm làm việc này phải bảo
đảm tên của tác giả phải được nêu trong hoặc gắn liền với tác phẩm một cách hợp lý.
3
Quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm: quyền này cho phép
tác giả đưa tác phẩm do mình sáng tạo đến với công chúng một cách chính thức. Qua việc
công bố tác phẩm, những thông tin về việc tác phẩm đã hoàn thành được chuyển đến
công chúng (số lượng không xác định). Tác giả có quyền lựa chọn cách thức, thời gian và
địa điểm để công bố tác phẩm sau này. Theo khoản 2 điều 22 Nghị định 100/2006: Quyền
công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm quy định tại khoản 3 Điều 19
của Luật Sở hữu trí tuệ là việc phát hành tác phẩm đến công chúng với số lượng bản sao đủ để
đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng tuỳ theo bản chất của tác phẩm, do tác giả, chủ sở hữu
quyền tác giả thực hiện hoặc do cá nhân, tổ chức khác thực hiện với sự đồng ý của tác giả, chủ
sở hữu quyền tác giả. Công bố tác phẩm không bao gồm việc trình diễn một tác phẩm sân khấu,
điện ảnh, âm nhạc; đọc trước công chúng một tác phẩm văn học; phát sóng tác phẩm văn học,
nghệ thuật; trưng bày tác phẩm tạo hình; xây dựng công trình từ tác phẩm kiến trúc.
-
Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm giúp tác giả bảo vệ tác phẩm trước bất kỳ
sự sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm. Thông qua việc bảo đảm sự toàn vẹn tác
phẩm, pháp luật bảo vệ danh dự và uy tín của tác giả. Bất kỳ sự sửa chữa, xuyên tạc, cắt
xén mà không được sự đồng ý của tác giả đều bị coi là xâm phạm quyền tác giả. Quyền
này có thể bị hạn chế trong một số trường hợp và việc không đảm bảo sự không toàn vẹn
của tác phẩm không bị coi là xâm phạm tác phẩm, ví dụ việc trích dẫn vì mục đích nghiên
cứu khoa học, đưa tin, giảng dạy,…( điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ).
Trong số các quyền nhân thân trên có thể chia thành hai nhóm: quyền nhân thân gắn với
tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản. Các quyền nhân thân không gắn với tài
sản là những quyền gắn liền với các giá trị nhân thân của tác giả và không thể chuyển
giao, bao gồm: quyền được đặt tên cho tác phẩm, quyền đứng tên tác phẩm và bảo vệ sự
toàn vẹn của nội dung tác phẩm. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản được bảo hộ
vô thời hạn, khác với những quyền khác được bảo hộ có thời hạn (Điều 27 Luật sở hữu
trí tuệ). Trong khi đó, quyền công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm có thể
được chuyển giao cho người khác bởi tác giả hoặc theo thừa kế.
4
Công ước Berne gọi khía cạnh quyền này của quyền tác giả là Quyền tinh thần,
bao gồm quyền đứng tên tác giả và phản đối một số sự sửa đổi và hành vi xuyên tạc khác.
Khoản 1 điều 6 bis Công ước quy định: “Độc lập với quyền kinh tế của tác giả và cả sau
khi quyền này đã được chuyển nhượng, tác giả vẫn giữ nguyên quyền được đòi thừa
nhận mình là tác giả của tác phẩm và phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa
đổi hoặc những vi phạm khác đối với tác phẩm có thể làm phương hại đến danh dự và
tiếng tăm của tác giả.” Công ước Berne chỉ quy định thời hạn bảo hộ tối thiểu đối với các
quyền đó kể từ khi tác giả chết (sau khi tác giả chết, những quyền tác giả được hưởng
theo quy định của các khoản trên đây vẫn được duy trì ít nhất cho đến khi chấm dứt các
quyền kinh tế và được sử dụng bởi những cá nhân hoặc đoàn thể được ủy quyền theo
pháp luật của nước bảo hộ) nhằm tạo một sự linh hoạt cho luật pháp quốc gia thành viên
khi quy định về vấn đề trên.
1.2.
Quyền tài sản
Khoản 3 điều 738 BLDS Việt Nam quy định:
Quyền tài sản thuộc quyền tác giả bao gồm:
a)
b)
c)
d)
e)
Sao chép tác phẩm;
Cho phép tạo tác phẩm phái sinh;
Phân phối, nhập khẩu bản gốc và bản sao tác phẩm;
Truyền đạt tác phẩm đến công chúng;
Cho thuê bản gốc hoặc bản sao chương trình máy tính.
Luật Sở hữu trí tuệ sắp xếp nội dung quyền tài sản theo một thứ tự và cách thể hiện phần
nào khác với BLDS. Khoản 1 Điều 20 quy định:
“Quyền tài sản bao gồm các quyền sau đây:
a)
b)
c)
d)
Làm tác phẩm phái sinh;
Biểu diễn tác phẩm trước công chúng;
Sao chép tác phẩm;
Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
5
đ) Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng
thông tin điện từ hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
e) Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
Như vậy, Luật sở hữu trí tuệ đã bóc tách quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng để
phân biệt quyền này với quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng những hình
thức gián tiếp mang tính chất kỹ thuật khác.
Xét dưới góc độ truyền thống, quyền sao chép tác phẩm là quyền quan trọng nhất
của tác giả. Việc khai thác, sử dụng tác phẩm thường được thực hiện thông qua sao chép
tác phẩm nguyên gốc. Quyền sao chép tác phẩm là quyền thể hiện lại tác phẩm dưới hình
thức khách quan cho phép những người khác cảm nhận được tác phẩm, chẳng hạn sao
chụp tác phẩm, in các bản sao của tác phẩm,…Quyền sao chép tác phẩm thường chỉ có
thể thực hiện thông qua dạng vật chất nào đó (như sách in, tranh ảnh…). Quyền sao chép
tác phẩm của tác giả dựa trên cơ sở độc quyền, điều này có nghĩa là những người khác
phải tôn trọng quyền của tác giả và không được thực hiện hoạt động sao chép tác phẩm
nếu không có sự cho phép của tác giả, bất kể số lượng là bao nhiêu và mục đích sao chép
là gì. Công ước Berne đã thừa nhận ngoại lệ có thể có đối với quyền sao chép, tức là
quyền này không hoàn toàn là tuyệt đối. Khoàn 2 Điều 9 Công ước quy định: “Luật pháp
quốc gia thành viên Liên hiệp, trong một vài trường hợp đặc biêt, có quyền cho phép sao
in những tác phẩm nói trên (những tác phẩm văn học nghệ thuật được công ước bảo hộ),
miễn là sự sao in đó không được phương hại đến việc khai thác bình thường tác
phẩm hoặc không gây ảnh hưởng bất hợp lý đến những quyền lợi hợp pháp của tác
giả.
Quyền đối với tác phẩm phái sinh, bao gồm hai nội dung: tác giả tự mình tạo nên
tác phẩm khác dựa trên tác phẩm gốc; tác giả cho phép người khác tạo tác phẩm phái
sinh. Quy định về quyền đối với tác phẩm phái sinh của Luật sở hữu trí tuệ, về mặt hình
thức, chưa thống nhất với BLDS. Luật sở hữu trí tuệ sử dụng thuật ngữ “làm tác phẩm
phái sinh” khiến người ta có thể hiểu rằng quyền này chỉ khả năng của tác giả tự mình tạo
6
nên tác phẩm phái sinh. Trong khí đó, BLDS quy định rằng quyền cho phép tạo ra tác
phẩm phái sinh là một quyền của bó quyền tài sản thuộc quyền tác giả, cách quy định như
vậy là hợp lý hơn, vì người đọc có thể suy ra rằng quyền này cho phép tác giả hoặc chủ
sở hữu quyền tác giả tác động đến phạm vi rộng lớn những người (tổ chức, cá nhân)
muốn tạo ra tác phẩm phái sinh.
Tác phẩm phái sinh là tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm
phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn.”
-
Dịch là việc chuyển tải trung thực nội dung của một tác phẩm từ ngôn ngữ này
-
sang ngôn ngữ khác.
Phóng tác là sự sáng tạo dựa theo nội dung của một tác phẩm khác. Ví dụ
Cải biên là việc viết lại từ một tác phẩm đã có.
Chuyển thể là việc chuyển từ loại hình nghệ thuật này sang loại hình nghệ thuật
-
khác.
Tuyển tập là việc tuyển chọn từ nhiều tác phẩm riêng rẽ của một tác giả.
Biên soạn là việc tuyển chọn theo một chủ đề có thể bình luận, đánh giá. Ví dụ:
các tập bài giảng được tập hợp theo chủ đề, có bình luận, đánh giá, so sánh …
Khi một người muốn dịch, cải biên, chuyển thể một tác phẩm, họ phải xin phép chủ sở
hữu quyền tác giả gốc, bởi vì những hành vi kể trên là những hành vi sử dụng tác phẩm
mà chủ sở hữu quyền tác giả có quyền cho hay không cho (Khoản 3 Điều 20 Luật SHTT
quy định: “Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền
quy định tại khoản 1 Điều này <các quyền tài sản>, khoản 3 điều 19 Luật này
công bố tác phẩm>, phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất
khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.”
Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm giúp tác giả thu được
lợi ích kinh tế từ việc sử dụng, khai thác tác phẩm. Nội dung của quyền này được làm rõ
qua hoạt động phân phối và nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm.
Phân phối là việc chuyển giao tác phẩm gốc hoặc bản sao tới các cá nhân hoặc tổ chức
khác dưới bất cứ cách thức nào, ví dụ điển hình là việc tổ chức bán hoặc cho thuê các bản
7
sao. Do quyền tác giả có tính chất lãnh thổ nên việc phân phối bản gốc hoặc bản sao chỉ
được thực hiện trong thị trường nội địa, trừ trường hợp quyền tác giả được đăng ký ở
những quốc gia là thành viên của những công ước mà Việt Nam cũng tham gia thì quyền
phân phối được mở rộng ra ngoài lãnh thổ Việt Nam theo quy định của các điều ước quốc
tế đó và pháp luật nước sở tại.
Quyền đối với việc nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao giúp chủ sở hữu quyền tác giả kiểm
soát việc phân phối tác phẩm của mình khi nó được tạo ra ở nước ngoài. Tác giả có
quyền cho phép người khác hoặc tự mình nhập khẩu các tác phẩm được tạo ra ở nước
ngoài, thậm chí hạn chế số lượng tác phẩm được nhập khẩu. Quyền này của tác giả đặc
biệt có ích khi các bản sao tác phẩm được tạo ra ở nước nơi quyền của tác giả này không
được bảo hộ, vì vậy chúng được lưu thông tự do.3
Quyền tác giả cho phép chủ sở hữu cấm người khác bán, cho thuê, chuyển giao,
thuê những bản sao tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu. Tuy nhiên, ở nhiều
nước, quyền phân phối tác phẩm bị giới hạn bởi cơ chế “bán lần đầu” (nguyên tắc “khai
thác hết quyền”), theo đó, khi một chủ sở hữu quyền tác giả đã cho phép bán hoặc phân
phối lần đầu đối với một bản sao hoặc bản ghi âm, cá nhân/tổ chức đó sẽ không còn
quyền can thiệp vào cách thức phân phối sau đó của bản sao hoặc bản ghi âm đó trong
lãnh thổ của các nước có liên quan. Nói cách khác, chủ sở hữu quyền tác giả có thể quản
lý gần như mọi chi tiết của “lần bán hàng đầu tiên” của tác phẩm, kể cả thời gian, giá cả
và các điều kiện bán hàng. Nhưng một khi đã bán đi rồi, người mua hàng có thể bán lại
bản sao hoặc bản ghi âm có liên quan, cho thư viện mượn, hay cho tặng đi,… Tuy nhiên,
người mua hàng không thể nhân bản sản phầm hay tạo ra tác phẩm phái sinh dựa trên tác
phẩm gốc.4 Quyền đối với việc nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao giúp tác giả kiểm soát
việc phân phối tác phẩm của mình khi nó được tạo ra ở nước ngoài.
33
Theo Giáo trình Luật dân sự, Học viện tư pháp, 2007, tr. 643
Theo tài liệu điện tử về Quyền sở hữu trí tuệ của Cục sở hữu trí tuệ tại
www.noip.gov.vn/html/.../pdf/ip_panorama_5_learning_points.pdf
4
8
Truyền đạt tác phẩm đến công chúng (communication to public): quyền này có thể
được thể hiện dưới nhiều hình thức trực tiếp và gián tiếp, bao gồm các hành vi trình diễn,
phân phối tác phẩm đến một số lượng đáng kể người sử dụng, ví dụ trình diễn một vở
kịch, tổ chức một buổi hòa nhạc, phát hành một đĩa nhạc hay đưa tác phẩm lên mạng
internet.... Theo Công ước Berne, quyền này còn được mở rộng đến đối tượng là bản dịch
của tác phẩm. Điều 11 Công ước quy định:
Điều 11
[Một số quyền đối với tác phẩm kịch và âm nhạc: 1. Quyền trình diễn và truyền phát tới công
chúng một cuộc trình diễn; 2. Bản dịch]
1. Tác giả các tác phẩm kịch, nhạc kịch và ca nhạc được hưởng toàn quyền ủy thác quyền :
i. Trình diễn công cộng tác phẩm của mình, sử dụng bất cứ phương tiện hoặc kỹ thuật nào
ii. Truyền phát tới công chúng những cuộc trình diễn đó bằng bất kỳ một phương pháp nào.
2. Các tác giả của các tác phẩm kịch và nhạc kịch trong suốt thời gian sở hữu các quyền đối với
nguyên tác, được hưởng tất cả những quyền nói trên đối với bản dịch các tác phẩm đó của mình
Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao theo điểm đ, khoản 3 điều 738 BLDS chỉ áp
dụng đối với chương trình máy tính. Trong khi đó, Luật sở hữu trí tuệ mở rộng đối với cả
tác phầm điện ảnh ( Điểm e Khoản 1 điều 20). Nội dung chính của quyền này là việc tác
giả của tác phẩm điện ảnh hoặc chương trình máy tính có quyền cho phép hoặc cấm cá
nhân, tổ chức khác thực hiện việc cho thuê bản gốc hoặc bản sao đối với công chúng mà
có hoạt động mang tính chất thương mại qua những bản gốc, bản sao đó. Sở dĩ có quy
định này vì nếu chủ sở hữu quyền đối với tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính chỉ
khai thác tác phẩm hay chương trình của mình dựa vào việc bán bản gốc hoặc bản sao thì
những công chúng có thể lợi dụng để cho thuê thương mại, thu được lợi nhuận mà không
phải thực hiện bất cứ nghĩa vụ tài chính nào đối với chủ sở hữu bản tác phẩm hoặc
chương trình máy tính.
2. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
9
2.1.
Xác định quyền của các chủ thể của quyền tác giả trong những trường
hợp khác nhau:
Tác giả là người nắm toàn bộ quyền nhân thân (theo quy định tại điều 19 Luật sở
hữu trí tuệ) và một, một số hoặc toàn bộ quyền tài sản trong trường hợp tác giả chính là
chủ sở hữu quyền tác giả, hoặc không phải chủ sở hữu quyền tác giả nhưng được hưởng
một số quyền tài sản nhất định.
Quyền của Chủ sở hữu quyền tác giả khi chủ sở hữu quyền tác giả thuộc một trong
những cá nhân, tổ chức sau đây:
-
Là tác giả: trong trường hợp tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất –
kỹ thuật của mình để sáng tạo ra tác phẩm thì có đầy đủ các quyền nhân thân và tài
-
sản trên.
Là các đồng tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật để cùng
sáng tạo ra một tác phẩm: có chung các quyền nhân thân và tài sản theo điều 19 và
-
20 Luật sở hữu trí tuệ.
Là các đồng tác giả sáng tạo ra tác phẩm nhưng tác phẩm có các phần riêng biệt,
có thể tách ra sử dụng độc lập mà không làm phương hại đến phần của đồng tác
giả khác: thì các chủ sở hữu này có đầy đủ các quyền nhân thân và tài sản đối với
-
phần riêng biệt tương ứng.
Là tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả;
là người thừa kế: thì được hưởng các quyền tài sản (Điều 20 LSHTT) và quyền
-
công bố hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm.
Chủ sở hữu quyền tác giả cũng có thể là người được tác giả chuyển giao quyền và
cá nhân/tổ chức này được hưởng toàn bộ các quyền tài sản và quyền nhân thân trừ
-
những quyền nhân thân không thể chuyển giao.
Trong trường hợp tác phẩm khuyết danh mà chưa có tổ chức, cá nhân nào quản lý
(được hưởng quyền sở hữu); trường hợp tác phẩm còn trong thời hạn bảo hộ mà
chủ sở hữu quyền tác giả chết không có người thừa kế hoặc người thừa kế từ chối
nhận di sản hoặc không được hưởng quyền hưởng di sản; trường hợp tác phẩm
được chủ sở hữu quyền tác giả chuyển giao cho Nhà nước, thì chủ sở hữu quyền
10
tác giả chính là Nhà nước. Việc sử dụng những tác phẩm đó sẽ được thực hiện
theo những quy định cụ thể của chính phủ.
Tác giả và chủ sở hữu tác phẩm có độc quyền về quyền tài sản đối với tác phẩm,
nhưng không có nghĩa rằng quyền này là tuyệt đối. Để cân bằng giữa việc bảo vệ lợi ích
của chủ thể nắm giữ quyền tác giả với lợi ích của công chúng nói chung, pháp luật cũng
định ra những trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố mà không phải xin phép, có hoặc
không phải trả tiền nhuận bút, tiền thù lao. Các trường hợp này được quy định tại điều 26
và 27 Luật SHTT 2005.
Về thời hạn bảo hộ, trong khi quyền nhân thân (trừ quyền công bố và cho phép
người khác công bố tác phẩm) được bảo hộ vô thời hạn thì quyền công bố, cho phép
người khác công bố tác phẩm và các quyền tài sản được bảo hộ trong một thời gian nhất
định. Thời hạn bảo hộ đối với những quyền đó như sau: (điều 27 Luật SHTT)
-
Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời
-
hạn bảo hộ là 75 năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên;
Đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố
trong thời hạn 25 năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là
-
một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình;
Đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì thời hạn
-
bảo hộ được tính là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết.
Tác phẩm không thuộc các loại hình trên thì có thời hạn bảo hộ là suốt đời tác giả
và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết. Nếu có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ
chấm dứt vào năm thứ 50 sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.
Vấn đề thừa kế quyền tác giả: Chủ sở hữu quyền tác giả có quyền để lại thừa kế
quyền đối với tác phẩm của mình. Việc thừa kế quyền tác giả không kéo dàu mãi mãi mà
chỉ kéo dài trong thời gian bảo hộ. Nếu không có người thừa kế, người thừa kề từ chối
nhận di sản hay không được hưởng quyền hưởng di sản, thì quyền tác giả thuộc về nhà
nước.
2.2.
Nghĩa vụ của các chủ thể
11
Bên cạnh các quyền đối với tác phẩm thì các chủ thể của quyền tác giả cũng phải tuân thủ
những nguyên tắc, quy định chung của SHTT: ví dụ chỉ được thực hiện quyền của mình
trong phạm vi và thời hạn bảo hộ theo quy định của LSHTT; không xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác, và
không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan. Các chủ thể cũng có
nghĩa vụ tuân thủ những quy định của Chính phủ về việc cấm hoặc hạn chế chủ thể thực
hiện quyền của họ, hoặc buộc phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một
số quyền của họ đó với những điều kiện phù hợp cũng như việc giới hạn quyền đối với
sáng chế thuộc bí mật Nhà nước trong trường hợp nhằm đảm bảo mục tiếc quốc phòng,
an ninh, dân sinh và các lợi ích khác của Nhà nước, xã hội.
3. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể của Quyền liên quan đến quyền tác giả.
3.1.
Định nghĩa.
Việc ra đời của một tác phẩm phụ thuộc hoàn toàn vào năng lực lao động sáng tạo
của tác giả, nhưng để tác phẩm ấy có thể tiếp cận với công chúng, và truyền tải được
thông điệp sáng tạo của tác giả một cách rộng rãi nhất, không thể không nhắc đến vai trò
của những người trung gian, làm cầu nối giữa tác giả và công chúng. Họ có thể là người
thể hiện tác phẩm (người biểu diễn), cũng có thể là người có khả năng đưa tác phẩm tới
công chúng một cách rộng rãi (nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng). Tất
cả những người sử dụng tác phẩm để đưa nó đến được với công chúng cũng cần một sự
bảo hộ cho riêng họ, nhằm chống lại việc sử dụng bất hợp pháp các sản phẩm của mình
trong quá trình truyền bá tác phẩm. Việc bảo hộ này được thực hiện thông qua các quyền
kế cận hay quyền liên quan. Đây là những quyền phát sinh từ quyền tác giả, bổ sung và
tồn tại song song với quyền tác giả.
Sở dĩ nói như vậy vì:
-
Thứ nhất, quyền liên quan được hình thành dựa trên việc sử dụng tác phẩm gốc.
Như vậy, nó chỉ phát sinh khi tác phẩm ra đời, trên cơ sở của quyền tác giả. Vì thế, các
12
chủ thể của quyền liên quan có nghĩa vụ phải tôn trọng các quyền tài sản và nhân thân
của tác giả, chủ sở hữu. Việc công nhận và bảo hộ quyền liên quan không ảnh hưởng đến
quyền tác giả đối với tác phẩm. Chẳng hạn như việc một ca sỹ trình bày một ca khúc,
không được làm ảnh hưởng đến quyền của chủ sở hữu và tác giả của ca khúc ấy.
Thứ hai, các quyền này cũng phải được tạo nên trên cơ sở là công sức, lao động
nghệ thuật một các nghiêm túc. Việc biểu diễn của một ca sỹ, việc thu âm thu hình...
không phải là sự sao chép, sử dụng tác phẩm một cách đơn thuần, giản đơn, mà nó đòi
hỏi sự đầu tư, sáng tạo rất lớn. Nói cách khác, nó có tính nguyên gốc. Cũng phải nói thêm
là chính tính nguyên gốc này là cơ sở để quyền liên quan tồn tại song song với quyền tác
giả.
Đây cũng được xem là hai đặc điểm của quyền liên quan.5
Có 3 loại quyền liên quan (quyền kế cận), đó là:
Quyền đối với cuộc biểu diễn, bao gồm quyền của người biểu diễn và quyền của
người đầu tư cho cuộc biểu diễn.
Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình đối với các bản ghi âm, ghi hình của
họ.
-
Quyền của tổ chức phát sóng đối với các chương trình phát sóng của họ.
Người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng được gọi chung là
các chủ thể kế cận.
Khái niệm:
Theo khoản 3, điều 4 Luật SHTT thì quyền liên quan là “quyền của tổ chức, cá nhân
đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh
mang chương trình được mã hóa”.
3.2. Nội dung của quyền liên quan.
3.2.1. Quyền của các chủ thể của quyền liên quan
3.2.1.1. Quyền đối với cuộc biểu diễn.
Theo Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm:
“Người biểu diễn” là diễn viên, ca sĩ, nhạc công, vũ công, và những người khác nhập
vai, hát, đọc, ngâm, thể hiện, diễn xuất hoặc biểu diễn khác các tác phẩm văn học hoặc
nghệ thuật hoặc những thể hiện tác phẩm văn học dân gian;
5
Theo Lê Nết, Tập bài giảng về Quyền sở hữu trí tuệ, NXB ĐHQG Hồ Chí Minh, tr 72, 73
13
Điều 745 BLDS 2005 không quy định trực tiếp quyền của người biểu diễn, mà quy định
gián tiếp thông qua quyền đối với cuộc biểu diễn, với hàm ý là phân biệt quyền của người
biểu diễn và quyền của người đầu tư cho cuộc biểu diễn trong trường hợp người biểu diễn
không đồng thời là người đầu tư cho cuộc biểu diễn. Cũng với ý nghĩa như vậy, khoản 1
điều 29 Luật SHTT quy định: “Người biểu diễn đồng thời là chủ đầu tư thì có các quyền
nhân thân và các quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn; trong trường hợp người biểu diễn
không đồng thời là chủ đầu tư thì người biểu diễn có các quyền nhân thân và chủ đầu tư
có các quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn”. Như vậy, chủ thể quyền đối với cuộc biểu
diễn bao gồm người biểu diễn và chủ đầu tư cuộc biểu biễn (sau đây gọi chung là quyền
của người biểu diễn). Nội dung của quyền bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.
Trong đó, quyền nhân thân là quyền gắn liền với người biểu diễn và không thể chuyển
giao, quyền tài sản có thể chuyển giao cho cá nhân và tổ chức khác.
Quyền nhân thân (“quyền tinh thần” – Hiệp ước của WIPO) của người biểu diễn
được quy định tại khoản 2 điều 745 BLDS và được cụ thể hóa tại Khoản 2 điều 29 luật
SHTT, bao gồm:
Quyền được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hình, hay
khi phát sóng cuộc biểu diễn. Quyền này “độc lập với quyền kinh tế của người biểu diễn
đối với các buổi biểu diễn nghe trực tiếp hoặc các buổi biểu diễn được định hình trong
bản ghi âm, và thậm chí sau khi chuyển nhượng các quyền kinh tế đó, người biểu diễn có
quyền yêu cầu được công nhận là người biểu diễn của buổi biểu diễn của mình” (theo
Hiệp ước của WIPO)
Quyền được bảo vệ sự toàn vẹn hình tượng biểu diễn: không cho người khác sửa
chữa, cắt xén, hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến uy tín và
danh dự của người biểu diễn, bao gồm cả quyền ngăn cản việc cắt xén, sửa đổi cuộc biểu
diễn nếu xét thấy có thể gây ảnh hưởng đến danh dự của họ.
So với quyền nhân thân của tác giả thì quyền của người biểu diễn thu hẹp hơn vì quyền
của người biểu diễn dựa trên quyền tác giả đối với các sản phẩm được biểu diễn. Quyền
nhân thân của người biểu diễn chỉ giới hạn trong quyền đối với phần biểu diễn của mình
mà thôi.
14
Quyền tài sản của người biểu diễn đối với cuộc biểu diễn bao gồm độc quyền
thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện các hành vi sau đây:
Định hình cuộc biểu diễn của mình trên bản ghi âm, ghi hình.
Quyền sao chép bản ghi âm, ghi hình, cuộc biểu diễn: có thể thực hiện trực tiếp
(sao chép bản gốc), hoặc thực hiện gián tiếp (sao chép bản sao) đúng với mục đích đã
thỏa thuận với người biểu diễn.
Quyền phân phối: “Người biểu diễn được hưởng độc quyền cho phép cung cấp
cho công chúng bản gốc hoặc bản sao buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong
bản ghi âm thông qua việc bán hoặc hình thức chuyển nhượng quyền sở hữu khác.” (theo
Hiệp ước của WIPO). Như vậy, việc phân phối không chỉ hạn chế ở hoạt động phổ biến
là bán, mà còn bao gồm các hình thức khác, theo luật STTT thì là “bất kỳ phương tiện kỹ
thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được”.
Ngoài ra, việc Luật SHTT sử dụng cụm từ: “phân phối bản gốc hoặc bản sao của cuộc
biểu diễn” không chính xác bằng cách sử dụng cụm từ “phân phối bản gốc hoặc bản sao
bản ghi âm, ghi hình cuộc biểu diễn” mà BLDS sử dụng, do không phù hợp với đặc tính
thực tế của cuộc biểu diễn.
Ngoài ra, Hiệp ước của WIPO còn quy định Quyền cho thuê của người biểu diễn:
“Người biểu diễn được hưởng độc quyền cho phép cho thuê thương mại tới công chúng
bản gốc và bản sao buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong bản ghi âm như
được xác định trong luật pháp quốc gia của các Bên ký kết, thậm chí sau khi phân phối
chúng bởi hoặc theo sự cho phép của người biểu diễn.” (điều 9)
Quyền của người biểu diễn đối với việc phát sóng cuộc biểu diễn: là quyền phát
sóng hoặc truyền theo cách khác đến công chúng cuộc biểu diễn chưa được định hình mà
công chúng có thể tiếp cận được. “Người biểu diễn sẽ được hưởng quyền độc quyền cho
phép cung cấp tới công chúng các buổi biểu diễn của mình đã được định hình trong bản
ghi âm bằng các phương tiện hữu tuyến hoặc vô tuyến, theo cách thức mà Bên ký kết
trong xã hội có thể tiếp cận chúng từ một địa điểm và vào thời gian do cá nhân họ lựa
chọn.” (theo Hiệp ước Wipo). Trong trường hợp mục đích buổi biểu diễn đó nhằm mục
đích phát sóng, hay việc phát sóng cuộc biểu diễn đã được định hình thì quyền này sẽ
không còn. Vì cuộc biểu diễn nhằm mục đích phát sóng thì người biểu diễn không thể sử
15
dụng quyền này để ngăn cấm việc phát sóng vì như vậy cũng chính là phủ nhận chính
cuộc biểu diễn. Khi đó, hoạt động này thuộc về nội dung của quyền phân phối cuộc biểu
diễn.
Quyền tài sản của người biểu diễn có thể được chính người này hoặc cá nhân và tổ
chức khác sử dụng. Trong trường hợp này thì phải trả tiền thù lao cho người biểu diễn
theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật (khoản 4 điều 29 Luật SHTT).
3.2.1.2. Quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình.
“Nhà sản xuất bản ghi âm” là cá nhân hoặc pháp nhân khởi xướng và có trách
nhiệm đối với việc định hình lần đầu tiên những âm thanh biểu diễn hoặc những âm
thanh khác, hoặc sự tái hiện lại của những âm thanh đó.” (theo Hiệp ước của WIPO).
Ngoài ra, chủ sở hữu của bản ghi âm, ghi hình được xác định gián tiếp thông qua
hợp đồng chuyển nhượng một phần hay toàn bộ các quyền của nhà sản xuất cũng sẽ có
các quyền tương ứng.
Quyền sao chép bản ghi âm ghi hình:
+ Theo nội dung : sao chép một phần hay toàn bộ (BLDS).
+ Theo cách thức: sao chép trực tiếp hay gián tiếp (Luật SHTT).
Quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao bản ghi âm, ghi hình: là bất kỳ hành vi nào
đối với việc đưa ra bản gốc và bản sao, dưới bất kỳ hình thức nào, bao gồm cả quyền
phân phối đến công chúng bản ghi âm, ghi hình bằng các phương tiện hữu tuyến và vô
tuyến.
Quyền cho thuê: Luật SHTT xem đây là quyền thuộc phạm vi của quyền phân
phối, tuy nhiên điều này gây ảnh hưởng đến việc khai thác phân phối bình thường tác
phẩm do sự phát triển của kỹ thuật hiện nay. Vì vậy, BLDS và Hiệp ước WIPO quy định
đây là một quyền độc lập. Như vậy, chủ sở hữu bản ghi âm ghi hình có thể thực hiện và
cấm người khác cho thuê bản gốc hoặc bản sao bản ghi âm, ghi hình nhằm mục đích
thương mại.
Quyền thực hiện hoặc cấm người khác thực hiện nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao
bản ghi âm, ghi hình. Đây là quyền độc lập của nhà sản xuất bản ghi, giúp họ khai thác
các bản ghi này tốt hơn ở thị trường nước ngoài.
3.2.1.3. Quyền của tổ chức phát sóng:
“Phát sóng” là việc truyền bằng các phương tiện vô tuyến cho việc thu của công
chúng các âm thanh, hoặc hình ảnh và âm thanh, hoặc sự tái hiện lại của nó; việc truyền
16
như vậy qua vệ tinh cũng là “phát sóng”; việc truyền tín hiệu được mã hoá là “phát sóng”
khi mà các phương tiện giải mã được cung cấp cho công chúng bởi hoặc với sự đồng ý
của các tổ chức phát sóng này (Wipo). Theo điều 4, mục 11 luật STTT thì phát sóng bao
gồm cả việc truyền qua vệ tinh để công chúng có thể tiếp cận được theo đúng địa điểm và
thời gian mà họ lựa chọn.
Quyền của tổ chức phát sóng là độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác
thực hiện các quyền sau:
+ Phát sóng, tái phát sóng chương trình của mình.
+ Phân phối đến công chúng chương trình phát sóng của mình.
+ Định hình chương trình phát sóng của mình.
+ Sao chép bản định hình chương trình phát sóng của mình theo đúng mục đích đã thỏa
thuận.
3.2.2. Hạn chế quyền:
Các quyền của chủ thể liên quan có thể bị hạn chế nếu vi phạm các nguyên tắc
chung của pháp luật.
Công ước Bern cũng nói rằng: “Việc lưu giữ các bản ghi nói trên tại cơ quan lưu trữ của
nhà nước có thể được luật pháp cho phép nếu bản ghi đó có giá trị đặc biệt về mặt tư
liệu”.
Các quyền tài sản của các chủ thể có liên quan có thể bị hạn chế để đảm bảo sự cân bằng
với lợi ích chung của cộng đồng. Cụ thể:
Điều 32 Luật SHTT quy định các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải
xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao.
Điều 33 Luật SHTT quy định các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải
xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao.
Tuy nhiên, người sử dụng không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường
cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương tình phát sóng, và không gây phương hại
đến quyền của các chủ thể liên quan.
3.2.2. Nghĩa vụ của các chủ thể
Để có thể hưởng được các quyền trên, chủ thể kế cận phải thực hiện các nghĩa vụ tương
ứng xuất phát chủ yếu từ đặc trưng của quyền kế cận là phát sinh chủ yếu dựa trên quyền
tác giả. Đây được xem như điều kiện để bảo hộ quyền kế cận.
17
-
Khoản 4 Điều 17 Luật sở hữu trí tuệ quy định cuộc biểu diễn chỉ được bảo hộ với
điều kiện không gây phương hại đến quyền tác giả.
Điều 26 Luật này quy định : “Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố (trừ
tác phẩm điện ảnh) để thực hiện chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu
tiền thì không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền
tác giả.” Và “khi sử dụng tác phẩm khôngđược làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình
thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, và nguồn gốc, xuất
xứ của tác phẩm”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Học viện tư pháp, Giáo trình Luật dân sự, NXB Công an Nhân dân, 2010
2) Bộ Luật dân sự Việt Nam 2005, NXB Lao động
3) Luật sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung năm 2009, NXB Lao động
4) Công ước Berne về quyền tác giả
5) Thỏa ước về các khía cạnh thương mại về Sở hữu trí tuệ (TRIPs)
18
6) Nghị định 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Bộ Luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên
quan.
7) TS. Lê Nết, Quyền sở hữu trí tuệ, NXB ĐGQG thành phố Hồ Chí Minh, 2006
8) TS.LS Lê Xuân Thảo, Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, NXB
Tư pháp, 2005.
9) Theo Vũ Thị Thanh Tú (Học viên khoa Luật, ĐH Tự do Brusells, Bỉ), “Pháp
luật về quyền tác giả và Pháp luật về bản quyền – Một số điểm khác biệt)
10) Tài liệu điện tử về Quyền sở hữu trí tuệ của Cục sở hữu trí tuệ tại
www.noip.gov.vn/html/.../pdf/ip_panorama_5_learning_points.pdf
11) Giáo sư Michael Blakeney (Viện nghiên cứu sở hữu trí tuệ Queen Mary, Đại
học London) , Tập bài giảng về Quyền Sở hữu trí tuệ (Unit 5_Copyright)
12) TS. Trần Văn Hải, Những bất cập trong quy định của Pháp luật sở hữu trí tuệ
Việt Nam về quyền tác giả.
19