Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Sự tương thích pháp luật Việt Nam với Công ước Lahaye 1993 bảo vệ trẻ em hơp tác lĩnh vực nuôi nuôi quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.4 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Vấn đề nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài luôn
mang những giá trị nhân đạo cao cả. Mục đích của nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
là đem lại cho trẻ em bất hạnh một mái ấm gia đình thay thế. Việc nuôi con nuôi luôn
đi cùng với vấn đề bảo vệ quyền trẻ em vì trẻ em là đối tượng đặc biệt cần được cộng
đồng quan tâm, chăm sóc, giáo dục. Ở Việt Nam, vấn đề nuôi con nuôi cũng được
Nhà nước ta quan tâm. Việt Nam coi Công ước Lahaye về bảo vệ trẻ em và hợp tác
trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế cùng với công ước quốc tế về quyền trẻ em là cơ
sở pháp lý quốc tế quan trọng nhằm tăng cường quan hệ hợp tác giữa các nước để
đảm bảo quá trình giải quyết cho trẻ em làm con nuôi the đúng tinh thần nhân đạo và
vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Nhóm chúng em chọn đề tài: “Sự tương thích của pháp
luật Việt Nam với Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hơp tác trong lĩnh
vực nuôi con nuôi quốc tế” để tìm hiểu về vấn đề.


NỘI DUNG
1. Một số vấn đề lý luận chung
1.1. Khái niệm về chế định nuôi con nuôi
a. Nuôi con nuôi
Dưới góc độ xã hội, nuôi con nuôi là một quan hệ xã hội được thiết lập giữa
người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi nhằm hình thành quan hệ
cha mẹ và con trong những mối liên hệ gia đình mới để thỏa mãn những nhu cầu tình
cảm, đạo đức hoặc những lợi ích vật chất nhất định của cả hai bên.
Dưới góc độ pháp lý, nuôi con nuôi là một hệ thống tổng hợp các quy phạm
pháp luật, do nhà nước ban hành điều chỉnh vệc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt
các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể có liên quan trong việc cho nhận con
nuôi, trên cơ sở hình thành quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người
được nhận làm con nuôi.
Tại khoản 1 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 ghi nhận khái niệm nuôi con nuôi
như sau: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con
nuôi và người được nhận làm con nuôi”.


b. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Quan hệ nuôi con nuôi trong phạm vi quan hệ hôn nhân gia đình thuộc phạm vi
dân sự. Vì vậy quan hệ nuôi con nuôi cũng chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp
luật về quan hệ dân sự và quan hệ hôn nhân gia đình.
Khoản 14 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2000 đã chỉ rõ quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình:
- Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;
- Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam;
- Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt
quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước
ngoài.
Trong Luật Nuôi con nuôi tại khoản 5 Điều 3 có quy định: “Nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt
Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài”.
2


1.2. Khái niệm quyền trẻ em trong hoạt động tư pháp
a. Định nghĩa quyền trẻ em
Trẻ em là một bộ phận đặc biệt của xã hội cần được quan tâm và chăm sóc đặc
biệt của cộng đồng. Điều 1 Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em xác định trẻ
em là người dưới 16 tuổi. Độ tuổi để xác định là trẻ em trong pháp luật Việt Nam thấp
hơn so với quy định tại Điều 1 công ước của Liên hiệp quốc về trẻ em. Như vậy,
quyền trẻ em có thể được hiểu là tổng thể những quyền, những lợi ích vật chất, tinh
thần mà đối tượng được thưởng là trẻ em.
b. Quan niệm về bảo vệ quyền trẻ em trong hoạt động tư pháp
Quyền trẻ em trong hoạt động tư pháp là một lĩnh vực của quyền con người nói
chung. Vì thế chúng có mối quan hệ mật thiết với việc bảo đảm quyền con người
trong các lĩnh vực như trong hoạt động lập pháp và hành pháp. Trong hoạt động tư

pháp thì bảo vệ quyền trẻ em là việc bảo đảm và thực hiện các yếu tố, điều kiện cần
thiết cho việc tổ chức và thực hiện quyền cơ bản của trẻ em trong hoạt động của các
cơ quan tư pháp được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước.
1.3. Một số nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam và Công ước Lahay
1993 về chế định bảo vệ quyền trẻ em và chế định nuôi con nuôi
a. Nội dung của pháp luật Việt Nam
Pháp luật Việt Nam quy định các điều kiện về nhận nuôi con nuôi, quyền và
nghĩa vụ giữa người nuôi và con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi.
- Thứ nhất: về điều kiện nhận con nuôi bao gồm điều kiện đối với người nhận
nuôi (Điều 29 Luật con nuôi 2010), con nuôi và điều kiện về sự đồng ý của cha mẹ đẻ,
người giám hộ và người được nhận làm con nuôi.
- Thứ hai, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, chấm dứt việc nuôi
con nuôi, pháp luật Việt Nam chia làm hai trường hợp:
+ Trường hợp thứ nhất: nếu việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được thực
hiện tại Việt Nam thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi được xác định
theo Luật nuôi con nuôi. Việc dẫn chiếu đến pháp luật Việt Nam điều chỉnh vấn đề
trên là phù hợp với thực tế của Việt Nam
+ Trường hợp thứ hai: nếu việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài được thực hiện ở nước ngoài thì quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ
nuôi và con nuôi được xác định theo pháp luật của nước nơi thường trú của con nuôi.
3


Ngoài ra, giải quyết xung đột pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
còn được đề cập đến trong các Hiệp định tương trợ về nuôi con nuôi giữa Việt Nam
với nước ngoài…
b. Các quy định cơ bản của Công ước Lahaye
- Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi
Những nguyên tắc cơ bản của Công ước Lahay về nuôi con nuôi được coi là
những quy định bắt buộc, có giá trị ràng buộc chung đối với tất cả các quốc gia thành

viên. Quốc gia thành viên có nghĩa vụ nghiêm chỉnh và tuyệt đối tuân thủ, pháp luật
trong nước không được trái với những nguyên tắc này. Những nguyên tắc đó được ghi
nhận trong lời nói đầu và điều 1 của Công ước, gồm có:
+ Việc nuôi con nuôi quốc tế phải được thực hiện vì lợi ích tốt nhất của trẻ và
tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em như đã được công nhận trong pháp luật quốc tế,
để các em được sống trong môi trường gia đình, trong bầu không khí hạnh phúc, được
yêu thương và được cảm thông.
+ Việc nuôi con nuôi quốc tế phải diễn ra trên cơ sở đảm bảo việc nuôi con
nuôi không phải là sự trá hình của nạn bắt cóc và nạn buôn bán trẻ em phải bị xử lí
nghiêm minh.
+ Việc nuôi con nuôi quốc tế chỉ là biện pháp cuối cùng được áp dụng, sau khi
các quốc gia thành viên (nước gốc của trẻ em) đã tiến hành các biện pháp thích hợp
(như giám hộ, đỡ đầu, nhận vào các cơ quan nuôi dưỡng, cho làm con nuôi trong
nước…) mà vẫn không tìm được môi trường lí tưởng cho sự phát triển của các em.
- Điều kiện nuôi con nuôi
Khoản 1 Điều 2 Công ước Lahaye quy định: “Công ước phải được áp dụng khi
một trẻ em thường trú ở một nước ký kết (nước gốc) đã, đang hoặc sẽ được chuyển
đến một nước ký kết khác (Nước nhận) sau khi đã được một cặp vợ chồng hay khi một
người thường trú ở nước nhận nhận làm con nuôi tại pháp luật áp dụng của mỗi nước
xác định, giống như mọi điều kiện cụ thể khác áp dụng cho việc xin nhận con nuôi”.
Như vậy, khi luật áp dụng của quốc gia chỉ cho phép trẻ em ở độ tuổi thấp hơn được
nhận làm con nuôi .

4


Ngoài vấn đề độ tuổi thì trẻ em muốn được cho phép làm con nuôi người nước
ngoài cần phải được cơ quan có thẩm quyền của nước gốc xác nhận rằng trẻ em có thể
được nhận làm con nuôi (theo đoạn a Điều 4 Công ước)
- Điều kiện về ý chí của các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi

Theo đoạn c, d Điều 4 Công ước Lahaye, việc nuôi con nuôi chỉ có thể diễn ra
khi có sự đồng ý của cha, mẹ đẻ của trẻ em; của trẻ em và của các tổ chức, cá nhân có
liên quan khác. Sự đồng ý này chỉ được đưa ra sau khi họ đã biết được những hậu quả
mà sự đồng ý của họ đem lại và phải hiểu rằng khi đã chấp nhận thì họ sẽ không thể
rút lại quyết định. Những sự đồng ý này phải là tự nguyện, không bị mua chuộc hay
lừa dối và phải được ghi nhận bằng văn bản.
Công ước tách riêng sự đồng ý của trẻ em và sự đồng ý của những người liên
quan đến việc cho con nuôi.
- Thẩm quyền giải quyết nuôi con nuôi
Công ước yêu cầu cả nước công nhận và nước gốc phải thành lập cơ quan trung
ương có đủ thẩm quyền làm đầu mối trong việc bảo đảm thực thi, tạo điều kiện trao
đổi thông tin với các nước.
2. Sự tương thích giữa pháp luật Việt Nam và Công ước Lahaye
2.1. Những vấn đề đã phù hợp giữa pháp luật Việt Nam và Công ước Lahaye
a. Nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi
Hiện nay, pháp luật Việt Nam đã có những nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi
phù hợp với các nguyên tắc của Công ước Lahay. Các nguyên tắc này đều hướng tới
mục đích chung nhất là bảo vệ trẻ em và bảo đảm cho trẻ có được một gia đình tốt
nhất cho sự phát triển.
Khi chưa có Luật Nuôi con nuôi, tinh thần của một số nguyên tắc của Công ước
Lahaye mới chỉ được thể hiện chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể trong các văn bản
pháp luật Việt Nam (Bộ luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bảo vệ, chăm
sóc, giáo dục trẻ em, Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân va gia đình về quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Nghị định số 69/22006/NĐ-CP ngày
20/07/2006 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điểm của Nghị định số
68/2002/NĐ-CP nói trên), như nguyên tắc tôn trọng quyền ưu tiên của trẻ em là được
5



cha mẹ chăm sóc và nguyên tắc coi việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài là giải
pháp cuối cùng. Tuy nhiên, hiện nay, với sự ra đời của Luật Nuôi con nuôi, vấn đề
này đã được giải quyết. Điều 4 Luật Nuôi con nuôi ghi nhận nguyên tắc giải quyết
việc nuôi con nuôi như sau:
“1. Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được
sống trong môi trường gia đình gốc.
Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm
con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyên, bình đẳng, không phân biệt nam nữ,
không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
2. Chỉ cho làm con nuôi người nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay
thế trong nước”
Sở dĩ có sự phù hợp giữa các nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi của pháp luật
Việt Nam và của Công nước Lahaye là bởi luật nước ta cũng như luật quốc tế đều
nhìn nhận trẻ em là đối tượng cần được quan tâm đặc biệt, đây là lứa tuổi dễ bị tổn
thương nhất vì nhận thức của các em còn non dại, việc để các em sống trong những
môi trường không phù hợp có thể dẫn đến việc các em có những nhận thức lệch lạc về
cuộc sống, về cái đúng, cái sai... mà từ đó dẫn tới sa ngã. Mặt khác, Việt Nam cũng
như các quốc gia đang phát triển khác đang tiến hành nội luật hóa pháp luật quốc tế do
vậy việc xây dựng, sửa đổi pháp luật quốc gia phù hợp với luật quốc tế là điều hiển
nhiển.
b. Điều kiện người nhận nuôi con nuôi
Điều 29 Luật Nuôi con nuôi có quy định điều kiện đối với người nhận con
nuôi trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như sau:
“1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở
nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy
định của pháp luật nước người đó thường trú và quy định tại Điều 14 của Luật này.
2. Công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi phải có đủ điều
các điều kiện theo quy định tại Điều 14 của Luật này và pháp luật của nước nơi
người được nhận làm con nuôi thường trú.”
Theo Điều 14 Luật Nuôi con nuôi, người nhận con nuôi phải đáp ứng đủ các điều

kiện sau đây:
6


a. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b. Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
c. Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con nuôi;
d. Có tư cách đạo đức tốt.”
Các điều kiện của pháp luật Việt Nam đã cụ thể hóa hai yêu cầu: “đủ tư cách”
và “thích hợp” của Công ước Lahaye đối với người nhận con nuôi. Như vậy, ta thấy
các điều kiện đối với người nhận con nuôi theo pháp luật Việt Nam đã tương thích với
Công ước Lahay. Cả công ước và pháp luật Việt Nam đều ghi nhận điều kiện đối với
người nhận nuôi con nuôi do pháp luật nước người đó thường trú quy định và người
nhận nuôi con nuôi phải có đủ khả năng nuôi dưỡng các em.
c. Trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi
Các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài được quy định cụ thể từ Điều 31 đến Điều 37 Luật Nuôi con nuôi. Về cơ bản,
các quy định này đã phù hợp với quy định của Công ước Lahaye.
- Trình tự, thủ tục để nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài:
Sở Tư pháp kiểm tra hồ sơ và lấy ý kiến của những người liên quan bằng văn
bản trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ. Đối với trẻ em bị bỏ rơi
cần được xác minh thì Sở Tư pháp đề nghị công an Tỉnh xác minh và trả lời bằng văn
bản trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của Sở Tư pháp. Khi xác
minh đủ điều kiện thì Sở Tư pháp xác nhận và gửi Bộ Tư pháp.
Bộ Tư pháp kiểm tra và xử lý hồ sơ trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận đủ
hồ sơ. Trường hợp nhận nuôi đích danh Bộ Tư pháp chuyển hồ sơ cho Sở Tư pháp nơi
người được giới thiệu làm con nuôi thường trú để trình Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh
xem xét, quyết định.
- Trình tự, thủ tục giới thiệu trẻ em làm con nuôi:

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ của người nhận con nuôi,
Sở Tư pháp xem xét, giới thiệu trẻ em làm con nuôi và báo cáo Ủy ban nhân dân cấp
Tỉnh. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở Tư pháp trình, nếu
Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh đồng ý thì thông báo cho Sở Tư pháp để làm thủ tục
chuyển hồ sơ cho Bộ Tư pháp; trường hợp không đồng ý thì trả lời bằng văn bản và
7


nêu rõ lý do. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả giới thiệu
trẻ em làm con nuôi, Bộ Tư pháp kiểm tra việc việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi,
nếu hợp lệ thì lập bản đánh giá việc trẻ em Việt Nam đủ điều kiện được làm con nuôi
nước ngoài và thông báo cho cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người nhận nuôi
thường trú.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản của cơ quan có thẩm
quyền của nước nơi người nhận nuôi thường trú thông báo về sự đồng ý của người
nhận con nuôi đối với trẻ em được giới thiệu, xác nhận trẻ em sẽ được nhập cảnh và
thường trú tại nước mà trẻ em được nhận làm con nuôi, Bộ Tư pháp thông báo cho Sở
Tư pháp.
Người nhận con nuôi không được có bất kỳ sự tiếp xúc nào với cha mẹ người
giám hộ hoặc cơ sở nuôi dưỡng trẻ em trước khi được thông báo giới thiệu trẻ em làm
con nuôi, trừ trường hợp nhận nuôi con nuôi đích danh.
Trường hợp người nhận con nuôi từ chối nhận trẻ em được giới thiệu làm con
nuôi mà không có lý chính đáng thì việc giải quyết hồ sơ xin nhận con nuôi của người
đó chấm dứt.
Sau khi nhận được thông báo của Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp trình Ủy ban nhân
dân cấp Tỉnh quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài. Trong thời hạn 15 ngày,
kể từ ngày nhận được hồ sơ do Sở Tư pháp trình, Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh quyết
định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài.
Sau khi có quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài của Ủy ban nhân
dân cấp Tỉnh, Sở Tư pháp thông báo cho người nhận con nuôi đến Việt Nam để nhận

con nuôi. Người nhận con nuôi phải có mặt ở Việt Nam để trực tiếp nhận con nuôi
trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Sở Tư pháp; trường hợp
vợ chồng xin nhận con nuôi mà một trong hai người vì lý do khách quan không thể có
mặt tại lễ giao nhận con nuôi thì phải có ủy quyền cho người kia; trường hợp có lý do
chính đáng thì thời hạn trên có thể kéo dài, nhưng không quá 90 ngày. Hết thời hạn
nêu trên, nếu người nhận con nuôi không đến nhận con nuôi thì Ủy ban nhân dân cấp
Tỉnh hủy quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài.
Sở Tư pháp đăng ký việc nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về đăng ký
hộ tịch và tổ chức lễ giao nhận con nuôi tại trụ sở Sở Tư pháp, với sự có mặt của đại
8


diện Sở Tư pháp, trẻ em được nhận làm con nuôi, cha mẹ nuôi, đại diện cơ sở nuôi
dưỡng đối với trẻ em được xin nhận làm con nuôi từ cơ sở nuôi dưỡng hoặc cha mẹ
đẻ, người giám hộ của trẻ em đối với trẻ em được xin nhận làm con nuôi từ gia đình.
Sau khi giao nhận con nuôi, Sở Tư pháp có trách nhiệm gửi Bộ Tư pháp quyết
định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài của Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh, biên bản
giao nhận con nuôi, đồng thời gửi Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của trẻ em
được cho làm con nuôi nước ngoài.
Bộ Tư pháp gửi quyết định cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài cho Bộ Ngoại
giao để thông báo cho Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài về việc trẻ em
được nhận làm con nuôi để thực hiện biện pháp bảo hộ trẻ em trong trường hợp cần
thiết.
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã quy định rất cụ thể về trình tự thủ tục cho nhận
con nuôi. Ta thấy các quy định này cơ bản đã phù hợp với các quy định của Công ước
Lahaye về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi.
2.2. Những vấn đề chưa phù hợp giữa pháp luật Việt Nam và Công ước
Lahay
a. Điều kiện người được nhận nuôi
Theo Điều 8 Luật Nuôi con nuôi, người được nhận làm con nuôi là:

“1. Trẻ em dưới 16 tuổi.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau
đây:
a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.”
Nhận thấy, phạm vi trẻ em có thể được nhận làm con nuôi theo pháp luật Việt
Nam hẹp hơn so với Công ước Lahaye. Trẻ em Việt Nam dưới 16 tuổi và một số
trường hợp nhỏ từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi mới có thể được nhận làm con nuôi trong
khi theo Công ước Lahaye thì người có thể được nhận làm con nuôi là người dưới 18
tuổi. Nên chăng cần mở rộng phạm vi trẻ em có thể được làm con nuôi theo pháp luật
Việt Nam cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Mặt khác, việc quy định trẻ em từ đủ 16
đến dưới 18 tuổi có thể được làm con nuôi sẽ mang đến nhiều cơ hội hơn cho trẻ em
9


có hoàn cảnh khó khăn bởi phần lớn trẻ em trong độ tuổi này ở nước ta khó có thể tìm
được một công việc ổn định để tự nuôi sống bản thân.
b. Thẩm quyền giải quyết nuôi con nuôi
Theo pháp luật Việt nam, thẩm quyền giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài thuộc Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp và Ủy ban nhân dân Tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương.
Ủy ban nhân dân Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nơi thường trú của
người được nhận làm con nuôi quyết định cho người đó làm con nuôi; trường hợp trẻ
em ở cơ sở nuôi dưỡng được nhận làm con nuôi, thì Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh, nơi có
trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng trẻ em quyết định cho trẻ em đó làm con nuôi.
Sở Tư pháp thực hiện đăng ký việc nuôi con nuôi nước ngoài sau khi có quyết
định của Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh.
Bộ Tư pháp là đầu mối trong việc bảo đảm thực thi, tạo điều kiện trao đổi thông
tin với các nước.
Ta có thể dễ dàng nhận thấy là ở Việt nam có quá nhiều cơ quan tham gia vào

việc giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Cục Con nuôi thuộc Bộ Tư pháp
với tư cách là Cơ quan Trung ương về con nuôi quốc tế của Việt Nam chưa phát huy
được chức năng của mình, chưa có đầy đủ khả năng và thẩm quyền cần thiết giống
như ở các nước thành viên Công ước Lahaye.
Trên thực tế, Cục con nuôi mới chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong
lĩnh vực nuôi con nuôi và tham gia một số khâu trong quá trình giải quyết hồ sơ mà
chưa được trao quyền quyết định việc cho nhận con nuôi. Cục Con nuôi chưa xứng
tầm với Cơ quan Trung ương theo Công ước Lahaye. Để tăng cường vị thế, vài trò
của Cơ quan Trung ương của Việt Nam khi tham gia Công ước Lahaye, Cục Con nuôi
phải được tăng thẩm quyền, kiện toàn tổ chức và hoạt động.
c. Hệ quả pháp lý
Điều 24 Luật Nuôi con nuôi quy định hệ quả của việc nuôi con nuôi. Ta thấy
đối với vấn đề này thì pháp luật Việt nam vẫn chưa tương thích với các quy định của
Công ước Lahaye. Pháp luật Việt Nam không quy định rõ ràng và đầy đủ về các hình
thức nuôi con nuôi (đơn giản và trọn vẹn), về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi
10


(chấm dứt hay vẫn còn tồn tại quan hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ và trẻ em đã được cho
làm con nuôi) và không quy định về chuyển đổi hình thức nuôi con nuôi.
3. Một số kiến nghị để Việt Nam thực hiện hiệu quả Công ước Lahaye
Qua những phân tích ở trên, ta thấy việc pháp luật Việt Nam quy định về nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài đã phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật nuôi con nuôi là
một bước phát triển mới trong quá trình hoàn thiện pháp luật trong nước về nuôi con
nuôi, góp phần nội luật hóa các quy định của Công ước Lahay, phù hợp với điều kiện
trong nước và quốc tế. Luật Nuôi con nuôi đã góp phần khắc phục những bất cập, tồn
tại và giải quyết được những khó khăn thách thức của Việt Nam khi tham gia công
ước Lahaye. Luật nuôi con nuôi đã tạo điều kiện khả thi cho việc thực hiện quy trình
giải quyết nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo đúng yêu cầu của Công ước.
Tuy Công ước đã quy định về trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi có

thể áp dụng trực tiếp nhưng để đảm bảo thuận tiện cho việc thi hành Công ước, Việt
Nam cần “nội luật hóa” vào các văn bản dưới luật hướng dẫn chi tiết thi hành Luật
Nuôi con nuôi.
Pháp luật cần có quy định cụ thể về hình thức nuôi con nuôi để đáp ứng nguyện
vọng của cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi và trẻ em được nhận làm con nuôi; đồng thời tạo ra
tương đồng giữa pháp luật Việt Nam và pháp luật các nước, tránh trường hợp người
nước ngoài phải chuyển đổi hình thức nuôi con nuôi đơn giản sang hình thức nuôi con
nuôi trọn vẹn.
Về việc bảo vệ quyền lợi của trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi. Có thể thấy,
pháp luật Việt Nam chỉ tỏ rõ hiệu lực của mình chủ yếu ở phần đầu của quá trình cho
nhận con nuôi – về điều kiện của người nhận nuôi, của con nuôi và thủ tục cho nhận.
Còn đối với phần sau của quá trình nuôi con nuôi quốc tế sau khi trẻ em Việt Nam đã
được giao cho cha mẹ nuôi thì hầu như pháp luật Việt Nam chưa phát huy giá trị hiệu
lực. Do đó cần tăng cường khả năng bảo vệ trẻ em sau khi trẻ em sang làm con nuôi ỏ
nước ngoài.

11


KẾT LUẬN
Nuôi con nuôi là vấn đề nhân đạo sâu sắc thể hiện tình thương, tinh thần trách
nhiệm cao cả và mối quan hệ tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau, là biện pháp tích
cực giúp trẻ em không nơi nương tựa có mái ấm gia đình, được chăm soc và phát triển
trong những điều kiện thuận lợi. Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là một
chế định pháp luật quan trọng vì vậy cần có những sửa đổi trong hệ thống pháp luật
Việt Nam để tương thích với pháp luật quốc tế về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh
vực nuôi con nuôi quốc tế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em Việt Nam trong
quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb. Công an nhân

dân, Hà Nội, 2009.
2. Công ước Lahaye 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con
nuôi quốc tế
3. Luật nuôi con nuôi 2010
4. Luật Hôn nhân và gia đình 2000.
5. Nghị định 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn
nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
6. Nghị định số 69/2006/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 68/2002/NĐ-CP.
7. Nghị định số 19/2011/NĐ-CP, ngày 21 tháng 03 năm 2011 của Chính phủ Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi.
8. Việt Nam với công ước Lahay 1993 về bảo vệ quyền trẻ em và hợp tác trong
lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước : Khoá luận tốt nghiệp / Nguyễn Hà Liên;
Người hướng dẫn: TS. Vũ Đức Long . - Hà Nội, 2011.
9. Pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài - thực trạng và
phương hướng hoàn thiện : Luận văn thạc sĩ Luật học / Phạm Thuỳ Dương;
Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Đức Long . – Hà Nội, 2006.

12


MỤC LỤC

13



×