Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.35 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC..............................................................................................................................1
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.....................................................................................................2
I.NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC................................................................................................................................2
1.Khái niệm, cơ sở pháp lí, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí
hành chính nhà nước......................................................................................................2
2.Sự cần thiết của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước....3
3.Những biểu hiện cụ thể của ngyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính
nhà nước.........................................................................................................................4
a.Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền lực nhà nước
cùng cấp......................................................................................................................4
b.Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương...............5
c.Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung ương.........6
d.Việc phân cấp quản lí..............................................................................................7
e.Hướng về cơ sở........................................................................................................8
II.Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÍ
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................................9
C.KẾT THÚC VẤN ĐỀ.......................................................................................................10
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................11

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cũng giống như bất kì hoạt động có mục đích nào, quản lí hành chính
nhà nước được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đây chính là
những tư tưởng chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho
các chủ thể quản lí hành chính nhà nước thực hiện có hiệu quả công việc của
mình trên các lĩnh vực đã được phân công. Vấn đề áp dụng nguyên tắc tập
trung dân chủ và các biểu hiện của nguyên tắc đó như thế nào trong tổ chức


và hoạt động của bộ máy quản lí hành chính nhà nước, trong từng loại cơ
quan quản lí cũng như mỗi cơ quan, sao cho hai mặt tập trung và dân chủ
được kết hợp một cách hợp lí, tối ưu phù hợp bản chất, đặc thù của vị trí, chức
năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan và từng vấn đề mà nó giải quyết ở từng thời
điểm lịch sử cụ thể luôn luôn là vấn đề cấp bách của khoa học lí luận quản lí
nhà nước và luật hành chính.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ TRONG QUẢN LÍ
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm, cơ sở pháp lí, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân chủ
trong quản lí hành chính nhà nước
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của
nhà nước và hoạt động quản lí hành chính nhà nước cũng được tổ chức thực
hiện theo nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung dân chủ được quy định tại
Điều 6 Hiến pháp năm 1992 “Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan
khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân
chủ”. Điều 6 Luật tổ chức chính phủ 2001 quy định: “Chính phủ tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Luật tổ chức Hội đồng nhân
dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND) 2003 một lần nữa khẳng định
nguyên tắc này tại Điều 3:“HĐND và UBND tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nguyên tắc này bao hàm sự kết hợp giữa hai
yếu tố tập trung và dân chủ.
Tập trung trong quản lí hành chính nhà nước có thể hiểu là sự lãnh đạo
tập trung nhưng không phải là tập trung toàn diện và tuyệt đối, mà chỉ đối với
những vấn đề cơ bản, chính yếu nhất, bản chất nhất. Sự tập trung đó đảm bảo
cho chính quyền cấp dưới, quần chúng ở địa phương và cơ sở khả năng thực
hiện quyết định của trung ương căn cứ vào các điều kiện thực tế của mình,
2



đồng thời đảm bảo tính sáng tạo, quyền chủ động của địa phương và cơ sở
trong việc giải quyết các vấn đề của địa phương và cơ sở. V.I.Lê nin có viết
về điều này: “…chế độ tập trung hiểu theo nghĩa thực sự dân chủ, đã bao
hàm khả năng… phát huy một cách đầy đủ và tự do không những các đặc
điểm của địa phương mà cả những sáng kiến của địa phương, tính chủ động
của địa phương tính muôn hình muôn vẻ của các đường lối, của các phương
pháp và phương tiện để đạt đến mục đích chung”.
Dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước có thể hiểu là dân chủ
hướng tới việc mở rộng quyền cho đối tượng quản lí nhằm phát huy trí tuệ tập
thể trong hoạt động quản lí, phát huy khả năng tiềm tàng của đối tượng quản
lí trong quá trình thực hiện chính sách pháp luật. Việc thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ là việc phối hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ cả hai yếu tố
tập trung và dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước. Nếu chỉ có sự lãnh
đạo tập trung mà không mở rộng dân chủ thì sẽ tạo điều kiện cho các hành vi
lạm quyền, tệ quan liêu, hách dịch, của quyền, tham nhũng phát triển, lực
lượng dân chủ sẽ bị phát tán, không đủ sức chống lại các thế lực phản động,
phản dân chủ. Ngược lại, không có sự lãnh đạo tập trung thống nhất sẽ dẫn
đến tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục bộ địa phương.
2. Sự cần thiết của nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành
chính nhà nước
Sự cần thiết tất yếu phải áp dụng các nguyên tắc tập trung dân chủ
trong hoạt động quản lí của nhà nước nói một cách khái quát là vì những lí do
sau đây:
- Từ mục đích, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là đảm bảo thực
hiện quyền lực và lợi ích làm chủ xã hội của nhân dân lao động. Muốn cho
nhà nước thực sự là cơ quan quyền lực, đại diện cho ý chí quyền lực của nhân
dân, trở thành nhà nước của dân, do dân, vì dân, đảm bảo cho dân chủ là:
“dân làm chủ và dân là chủ” (Hồ Chí Minh) thì phải tập trung dân chủ trong
quản lí.

- Nhà nước xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng Sản lãnh đạo, muốn thực
hiện đường lối, nghị định của Đảng, muốn thể chế hóa các đường lối đó để
đưa vào cuộc sống có hiệu quả vì lợi ích của nhân dân và toàn xã hội thì phải
thực hiện tập trung dân chủ trong quản lí điều hành, kiểm tra, giám sát từ trên
xuống dưới, đảm bảo cho hoạt động của nhà nước của xã hội có tổ chức, có
nề nếp, kỉ luật, ăn khớp nhịp nhàng như một bộ máy.

3


- Tập trung dân chủ là nguyên tắc chính trị của Đảng Cộng sản, nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Nhà nước chịu sự lãnh đạo của Đảng. Sự
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước được biểu hiện một cách trực tiếp và
thực tiễn thông qua tổ chức Đảng và các Đảng viên của Đảng hoạt động trong
các cơ quan nhà nước (đặc biệt là các Đảng viên có chức, có quyền). Do đó,
đương nhiên tập trung dân chủ từ một nguyên tắc lãnh đạo chính trị trở thành
một nguyên tắc trong quản lí điều hành
- Chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp sáng tạo, có tính chất khoa học cao, đầy
tính tự giác, chủ động, tích cực của quần chúng. Chỉ có áp dụng tập trung dân
chủ trong quản lí hành chính nhà nước thì mới đảm bảo cho quàn chúng nhân
dân có điều kiện tham gia quản lí, kiểm tra, giám sát ngày một sâu rộng, có
hiệu quả đối với các hoạt động, các công việc của nhà nước.
Chỉ có áp dụng tập trung dân chủ trong hoạt động quản lí hành chính
nhà nước thì chế độ nhà nước mới thực sự phát triển trở thành một chế độ dân
chủ.
3. Những biểu hiện cụ thể của ngyên tắc tập trung dân chủ trong quản
lí hành chính nhà nước
Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà nước biểu
hiện rõ nét nhất trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước do đó ta
chỉ tập trung phân tích biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt

động quản lí của cơ quan hành chính nhà nước
a. Sự phụ thuộc của cơ quan hành chính nhà nước vào cơ quan quyền
lực nhà nước cùng cấp
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền lực thuộc
về tay nhân dân, nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Thông
qua các cơ quan quyền lực nhà nước do mình trực tiếp bầu ra người dân thực
hiện quyền làm chủ của mình. Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước
được hình thành từ trung ương đến địa phương nhằm thực hiện chức năng
quản lí hành chính nhà nước không trực tiếp hình thành bằng con đường dân
cử. Trong tổ chức và hoạt động các cơ quan hành chính nhà nước luôn có sự
phụ thuộc vào các cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp.
Trước hết, cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp có những quyền hạn
nhất định trong việc thành lập, sáp nhập hay giải thể các cơ quan hành chính
nhà nước cùng cấp. Các cơ quan khác trong hệ thống cơ quan hành chình nhà
nước (như bộ, cơ quan ngang bộ...) đều do cơ quan quyền lực nhà nước trực
4


tiếp hay gián tiếp quyết định việc thành lập, thay đổi hay bãi bỏ. Chẳng hạn,
tại khoản 8 Điều 7 Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 quy định về quyền
hạn của HĐND tỉnh: “Giải tán HĐND cấp huyện trong trường hợp HĐND
đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân dân, trình Uỷ ban thường
vụ Quốc hội phê chuẩn trước khi thi hành”
Trong hoạt động, các cơ quan hành chính nhà nước luôn chịu sự chỉ
đạo, giám sát của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước và chịu trách nhiệm
báo cáo hoạt động của mình trước cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp. Luật
tổ chức HĐND và UBND 2003 tại Điều 2 quy định: “Uỷ ban nhân dân do
HĐND bầu là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương, chịu trách nhiệm trước HĐND cùng cấp và cơ quan nhà nước cấp
trên’’

Tất cả sự phụ thuộc nêu trên nhằm mục đích đảm bảo cho hoạt động
của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước phù hợp với ý chí, nguyện vọng và
lợi ích của nhân dân lao động. Đồng thời đó cũng chính là việc đảm bảo tập
trung quyền lực vào hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước- cơ quan do dân
bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Mặt khác, yếu tố dân chủ thể hiện rõ nét trong việc cơ quan quyền lực
nhà nước trao quyền chủ động sáng tạo cho các cơ quan hành chính nhà nước
trong việc chỉ đạo thực hiện hiến pháp, luật và các văn bản khác của cơ quan
quyền lực nhà nước. Các cơ quan quyền lực nhà nước không can thiệp vào
hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước mà tạo điều kiện thuận lợi
cần thiết để các cơ quan này hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình là
quản lí hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
b. Sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương
Các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương đều được tổ chức và
hoạt động theo nguyên tắc sự phụ thuộc hai chiều. Sự phụ thuộc này thể hiện
ở cả hai mặt tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương và được pháp luật quy định một cách cụ thể. Ở địa phương, UBND
các cấp trước hết phụ thuộc vào HĐND cùng cấp (mối phụ thuộc ngang).
Đồng thời chúng còn phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
quyền chung ở cấp trên trực tiếp (mối phụ thuộc dọc). Mối phụ thuộc ngang
tạo điều kiện cần thiết cho cấp dưới phát huy dân chủ, phát huy thế mạnh của
địa phương để hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên đã giao phó. Mối phụ thuộc

5


dọc giúp cho cấp trên có thể tập trung quyền lực nhà nước để chỉ đạo hoạt
động của cấp dưới, tạo nên một hoạt động chung thống nhất. Ví dụ như
UBND tỉnh Bắc Ninh do HĐND tỉnh Bắc Ninh bầu ra, kết quả bầu các thành

viên của UBND tỉnh Bắc Ninh phải được thủ tướng chính phủ phê chuẩn.
UBND tỉnh chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND tỉnh và Chính
phủ (theo Luật tổ chức HĐND và UBND 2003).
Nguyên tắc sự phụ thuộc hai chiều của cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương nhằm đảm bảo sự thống nhất gữa lợi ích chung của cả nước với
lợi ích của địa phương, giữa lợi ích ngành với ích vùng lãnh thổ.
c. Sự phục tùng của cấp dưới đối với cấp trên, địa phương đối với trung
ương
Sự phục tùng này biểu hiện trong các mối quan hệ:
- Giữa cơ quan cấp dưới với cơ quan cấp trên.
+ Giữa cơ quan cấp dưới với cơ quan có thẩm quyền chung (Ví dụ
giữa UBND tỉnh và chính phủ).
+ Giữa cơ quan cấp dưới với cơ quan cấp trên là cơ quan có thẩm
quyền chuyên môn về lĩnh vực chuyên môn đó. Ví dụ sự phục tùng của
UBND tỉnh đối với sự chỉ đạo của bộ giáo dục về hình thức đào tạo.
- Thủ trưởng đối với nhân viên .
Sự phục tùng này đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập trung quyền
lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa phương. Thiếu sự
phục tùng đó sẽ dẫn đến việc buông lỏng sự lãnh đạo, quản lí tập trung của
trung ương và của cấp trên, làm nảy sinh tình trạng tùy tiện, vô chính phủ, cục
bộ địa phương. Sự phục tùng này thể hiện ở cả hai phương diện tổ chức và
hoạt động.
Tất cả các yêu cầu, mệnh lệnh do cấp trên và trung ương đưa ra cấp
dưới và địa phương có nghĩa vụ phải thực hiện. Tuy vậy, cần phải nhấn mạnh
rằng sự phục tùng ở đây không phải sự phục tùng vô điều kiện mà là sự phục
tùng những mệnh lệnh hợp pháp trên cơ sở quy định của pháp luật.
Đồng thời cấp trên, trung ương cũng phải tôn trọng ý kiến của cấp
dưới, địa phương về công tác tổ chức, hoạt động và về các vấn đề khác của
quản lí hành chính nhà nước; phải tạo mọi điều kiện để cấp dưới, địa phương
phát huy chủ động, sáng tạo nhằm huy động mọi khả năng về trí tuệ, lao

động… để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
6


Sự phục tùng của cơ quan cấp dưới đối với cơ quan cấp trên, của địa
phương đối với trung ương ngoài việc đảm bảo cho cấp trên và trung ương tập
trung quyền lực để chỉ đạo, giám sát hoạt động của cấp dưới và của địa
phương còn khắc phục được tình trạng quan liêu, áp đặt ý chí, làm mất đi tính
chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của địa phương và cấp dưới.
d. Việc phân cấp quản lí
Phân cấp quản lí là sự chuyển giao thẩm quyền từ cấp trên xuống cấp
dưới nhằm đạt được một cách có hiệu quả mục tiêu chung của hoạt động quản
lí hành chính nhà nước. Khi tiến hành phân cấp quản lí, đã có sự phân định rõ
chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp trong bộ máy hành chính nhà
nước. Mỗi cấp quản lí có những mục tiêu, nhiệm vụ, thẩm quyền và những
phương tiện cần thiết để thực hiện tốt những mục tiêu, nhiệm vụ của cấp
mình. Trong phạm vi thẩm quyền được giao mỗi cấp quản lí được phép tiến
hành những hoạt động nhất định nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của
mình.
Phân cấp quản lí là một biểu hiện của nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tuy nhiên, điều này chỉ thực sự được thực hiện khi việc phân cấp quản lí đảm
bảo được những yêu cầu sau đây:
- Phải đảm bảo cho trung ương có quyền quyết định trong những lĩnh
vực then chốt, những vấn đề có ý nghĩa chiến lược nhằm đảm bảo sự phát
triển cân đối và hài hòa của toàn xã hội, bảo đảm sự quản lí tập trung và thống
nhất của nhà nước trong phạm vi toàn quốc.
- Mạnh dạn giao quyền cho các địa phương, các đơn vị cơ sở để phát huy
tính chủ động tích cực và sáng tạo trong quản lí, tích cực phát huy sức người,
sức của, đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống, trên cơ sở đó hoàn thành
mọi nhiệm vụ được trung ương và cấp trên giao phó. Mạnh dạn phân cấp

quản lí cho địa phương và cơ sở là biện pháp đảm bảo tập trung, tránh cho
trung ương và cấp trên phải ôm đồm các công việc mang tính sự vụ, thuộc về
chức trách của địa phương và cơ sở.
- Việc phân cấp quản lí phải thật cụ thể, hợp lí trên cơ sở những quy định
của pháp luật
Phân cấp quản lí giữa các cấp trong bộ máy quản lí hành chính nhà
nước là công việc hết sức phức tạp đòi hỏi phải xem xét từ nhiều yếu tố và
góc độ khác nhau như: cơ sở kinh tế, xã hội, trình độ phát triển đồng đều về
kinh tế, kết cấu hạ tầng, giao thông, thông tin liên lạc, trình độ dân trí… Do

7


đó, việc ban hành các quyết định về phân cấp quản lí cần phải có sự cân nhắc,
tính toán kĩ lưỡng, hợp lí, tránh đưa ra những quyết định mang tính chung
chung, tùy tiện. Tất cả các nội dung của việc phân cấp quản lí bao giờ cũng
phải được thể hiện trong các văn bản pháp luật của các cấp có thẩm quyền.
Việc phân cấp giúp việc quản lí tránh được tình trạng “lấn sân”, “ôm
đồm” của cấp trên khi can thiếp quá mức vào công việc của cấp dưới cũng
như sự “ỷ lại” vào cấp trên trong giải quyết công việc của cấp dưới. Đồng thời
tránh được việc giải quyết công việc chồng chéo dẫn đến tình trạng có việc
cần được giải quyết lại không được giải quyết, có công việc lại khó giải quyết
do có nhiều luồng ý kiến khác nhau.
e. Hướng về cơ sở
Các đơn vị cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo
ra của cải vật chất, trực tiếp phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của người
dân lao động, là những tế bào của nền kinh tế quốc dân. Các đơn vị cơ sở
được Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu các tài sản hợp pháp, có quyền tự chủ
trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng được nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ
về vật chất, tinh thần. Do vậy trách nhiệm của mọi cơ quan nhà nước là phải

tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội hoàn thành tốt
công việc của mình. Hướng về cơ sở chính là việc các cơ quan hành chính
nhà nước mở rộng dân chủ trên cơ sở quản lí tập trung đối với hoạt động của
toàn bộ hệ thống các đơn vị kinh tế, văn hóa – xã hội trực thuộc. Nhà nước
phải có các chính sách và biện pháp quản lí một cách thống nhất và chặt chẽ
tổ chức và hoạt động của hệ thống các đơn vị cơ sở. Có như vậy mới thúc đẩy
mọi hoạt động của các đơn vị kinh tế, văn hóa- xã hội này phát triển một cách
mạnh mẽ theo đúng định hướng của Nhà nước.
Việc quan tâm, thúc đẩy các đơn vị cơ sở là biểu hiện rõ nét nhất của
tính dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí hành chính nhà
nước do nó tác động vào đối tượng quản lí một cách trực tiếp, có hiệu quả
nhất. Nếu như trong hoạt động quản lí cơ quan hành chính quan tâm đến sự
phát triển của cơ sở tức là đã có sự quan tâm đến thực tế khách quan, từ đó
đưa ra các biện pháp quản lí phù hợp với điều kiện khách quan, đảm bảo tính
hợp lí trong các biện pháp quản lí đối với toàn bộ bộ máy hành chính nhà
nước nói riêng và toàn xã hội nói chung.

8


II. Ý NGHĨA CỦA NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ
TRONG QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện rõ nét bản chất giai cấp của nhà
nước ta. Bản chất giai cấp của nhà nước bắt nguồn sâu xa từ những căn
nguyên kinh tế và nó biểu hiện ra một cách trực tiếp ở nhân tố chính trị và hệ
tư tưởng vốn phản ánh và bảo vệ lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị. Nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa là một nhà nước kiểu mới, là chính quyền
của nhân dân, thực hiện quyền lực và phục vụ lợi ích của đông đảo những
người lao động, do giai cấp công nhân và Đảng lãnh đạo. Tư tưởng Hồ Chí

Minh nhất quán với tư tưởng Lênin khi người nhấn mạnh rằng: chế độ ta là
chế độ dân chủ, nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trong chế
độ dân chủ với một nhà nước dân chủ như thế, quần chúng nhân dân là người
chủ của xã hội bao nhiêu quyền lực của dân bao nhiêu lợi ích cũng thuộc về
nhân dân và vì nhân dân, bao nhiêu sức mạnh và quyền lực đều ở trong dân.
Chính phủ và các viên chức nhà nước đều lấy việc phục vụ nhân dân là mục
đích và họ phải là đầy tớ, công bộc, xứng đáng của dân. Đó là khái quát
nguyên lí tính giai cấp của nhà nước và nhà nước xã hội chủ nghĩa lấy đó là
cơ sở chính trị để luận chứng về tập trung dân chủ là một nguyên tắc của quản
lí hành chính nhà nước. Từ nhà nước tư sản trở về trước, chỉ có tập trung là
ngyên tắc phổ biến của quản lí, là công cụ phổ biến để thống trị. Trong những
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, tùy thuộc tình hình và cũng do lợi ích của giai
cấp thống trị đòi hỏi, thúc đẩy mà các nhà nước đó có thể áp dụng đến một
giới hạn nào đó, một mức độ, phạm vi nào đó các yêu cầu dân chủ và chế độ
dân chủ. Song, kết hợp tập trung với dân chủ, chế độ tập trung với chế độ dân
chủ để thành chế độ tập trung dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ, đưa
nó vào hoạt động quản lí một cách thường xuyên nhất quán của nhà nước thì
các nhà nước trước xã hội chủ nghĩa kể cả nhà nước tư sản đều không thể
thực hiện được.
Tính phức tạp của việc tổ chức đời sống xã hội trong chủ nghĩa xã hội
là ở chỗ để quản lí đời sống xã hội tự bản thân nhà nước mạnh chưa đủ. Nó
phải đảm bảo sự lành mạnh của cả hệ thống chính trị. Lí thuyết hệ thống đã
cho thấy, sức mạnh và hiệu lực được quyết định bởi cả hệ thống – chỉnh thể
chứ không phải là sức mạnh riêng rẽ, độc lập của từng phần tử. Từng cá thể,
từng đơn vị chỉ mạnh và phát huy được tác dụng trong sức mạnh của toàn bộ
hệ thống. Nó làm nổi bật tầm quan trọng của sự phân định rành mạch chức

9



năng, vị trí, quyền hạn, phương thức hoạt động, cơ chế tác động, phối hợp
điều chỉnh của các bộ phận trong toàn hệ thống. Đây là cơ sở lí luận cho thấy
vì sao phải áp dụng đồng bộ các giải pháp, đổi mới nội dung, phương thức
lãnh đạo của Đảng và đổi mới tổ chức, bộ máy, cơ chế, phương thức quản lí
của nhà nước cũng như toàn bộ hệ thống vận hành của hệ thống chính trị nói
chung. Chính vì tính chất phức tạp này của hoạt động quản lí nhà nước đòi
hỏi nhà nước XHCN phải coi trọng tập trung dân chủ là nguyên tắc tổng
quát, nguyên tắc chỉ đạo quan trọng nhất trong hoạt động quản lí của mình.
Có thể xem đây là nguyên tắc chi phối các nhuyên tắc khác, là nguyên tắc
của nguyên tắc. Nó còn có tác dụng chỉ đạo đối với các phương pháp, biện
pháp, các công cụ quản lí khác.
Nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ bác bỏ tình trạng lạm quyền
của cấp dưới, mà có thực tế chính quyền cấp trên “làm thay”, “lấn sân” vào
thẩm quyền chính quyền cấp dưới đồng thời cũng phủ nhận việc chính quyền
cấp dưới ỷ nại, đùn đẩy công việc cho cấp trên và khuyến khích cấp dưới
tham gia vào việc giải quyết những vấn đề chung thuộc thẩm quyền cấp trên
đề xuất những kiến nghị hợp lí để giải quyết chúng.

C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Mỗi nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà nước có nội dung riêng,
phản ánh những quy luật khách quan khác nhau trong quản lí hành chính nhà
nước. Những nguyên tắc này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và tạo nên một
hệ thống thống nhất. Việc thực hiện tốt nguyên tắc này này tạo tiền đề cho
việc thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc khác. Qua việc phân tích nội dung
và ý nghĩa của nguyên tắc tập trung dân chủ ta có thể thấy nguyên tắc này giữ
vai trò rất quan trọng trong số các nguyên tắc trong quản lí hành chính nhà
nước ở Việt Nam hiện nay. Sở dĩ có nhận định như trên vì trong điều kiện của
Việt Nam hiện nay nguyên tắc này thực sự phù hợp và cần thiết để đảm bảo
việc thực hiện đúng đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, đưa nước ta
phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa, nguyên tắc này là tiền

đề cho việc thực hiện các nguyên tắc khác. Do đó chúng ta cần thực hiện một
cách triệt để nguyên tắc này và các nguyên tắc khác trong quản lí hành chính
nhà nước nói riêng và trong hoạt động quản lí nhà nước nói chung để đạt
được mục đích mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra là: dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh.

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt Nam, NXB
CAND, Hà Nội, 2009.
2. Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hành chính Việt
Nam, NXB ĐHQG, 2005.
3. Học viện hành chính quốc gia, Giáo trình thủ tục hành chính, NXB Giáo
Dục, Hà Nội, 2005
4. Học viện hành chính quốc gia, Giáo trình luật hành chính và tài phán
hành chính, NXB Giáo Dục, Hà Nội, 2005.
5. Luật cán bộ công chức 2008.
6.
7.
8.
9. .
10.

11




×