Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Phân tích quyền tự do kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.36 KB, 12 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Bảo đảm quyền con người là một trong những chức năng cốt yếu của Nhà nước, mà từ đó
Nhà nước được khai sinh. Trong thời đại ngày nay, các thiết chế nhà nước và xã hội đã có
những thay đổi quan trọng tương thích với sự phát triển và hội nhập của nền kinh tế, tuy nhiên
chức năng bảo vệ quyền con người vẫn là một trong những nhiệm vụ vĩnh cửu của nhà nước,
trong đó, việc bảo vệ quyền tự do kinh doanh đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Vậy quyền
tự do kinh doanh là gì? Có nội dung ra sao? Thực trạng bảo đảm quyền tự do kinh doanh tại
Việt Nam như thế nào?
Bài viết sau đây của nhóm 09 xin được trình bỳ những nội dung trên, đồng thời xin được
đề xuất một số giải pháp nhằm giúp cho quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Việt Nam được
đảm bảo một cách hợp lý nhất.
NỘI DUNG
1. Những vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh:
1.1.
Khái niệm kinh doanh và khái niệm tự do:
Nghề kinh doanh, xưa nay vẫn thường được hiểu là nghề “kiếm tiền”. Nhưng thực chất,
mọi nghề nghiệp suy cho cùng đều nhằm mục đích đó. Điều khác biệt của nghề kinh doanh là
trong quá trình hành nghề của mình doanh nhân không hành động một cách đơn lẻ mà biết kiến
tạo ra các chuỗi giá trị. Cụ thể hơn, họ nắm lấy một doanh nghiệp và tập hợp bên mình nhiều
thành viên để cùng cộng hưởng lại nhằm hình thành một sức mạnh tổng lực, từ đó tạo ra nhiều
giá trị hơn cho xã hội. Đó cũng chính là lý do mà nghề kinh doanh thường kiếm được nhiều tiền
hơn so với những nghề khác và vẫn được cộng đồng xã hội ủng hộ.
Trong khoa học pháp lý, định nghĩa về kinh doanh theo pháp luật Việt Nam được tìm thấy
tại khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp, theo đó kinh doanh là “việc thực hiện liên tục một, một
số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.”
Về khái niệm “tự do”, theo từ điển tiếng Việt xuất bản năm 1999: “tự do là phạm trù triết
học chỉ khả năng biểu hiện ý chí, làm theo ý muốn của mình trên cơ sở nhận thức được quy luật
phát triển của tự nhiên, xã hội. Tự do là tất yếu được nhận thức.”
Như vậy, tự do biểu hiện mối quan hệ qua lại giữa hoạt động của con nguời và quy luật
khách quan. Về mặt khoa học, tự do luôn tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với tất yếu khách


quan, trong mối quan hệ này, cái tất yếu khách quan có trước, còn ý thức, ý chí con người có
sau. Tất yếu khách quan tồn tại trong tự nhiên và xã hội dưới hình thức các quy luật khách quan.
Ý chí, ý thức của con người (biểu hiện thông qua hành động) phải phù hợp với quy luật, trên cơ
sở nhận thức đúng đắn quy luật mà hành động. Tự do của con người là không bị phụ thuộc vào
các lực lượng xã hội đang thống trị trong những điều kiện lịch sử nhất định. Như vậy khái niệm
tự do là tương đối chứ không có tự do tuyệt đối.
Tự do phải gắn với một đối tượng cụ thể thì mới có ý nghĩa thực tiễn, như một thứ quyền
lợi của con người, chẳng hạn như tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do hành nghề,…. Do vậy
không thể nói tự do một cách chung chung trừu tượng, khi nói đến tự do kinh doanh, điều đó có
nghĩa là tự do đã gắn liền với một đối tượng cụ thể trong vô số thứ tự do của con người. Kinh
doanh chỉ là một trong vô số lĩnh vực hoạt động của con người trong xã hội mà thôi.
1.2. Quyền tự do kinh doanh


Khoa học Lý luận Nhà nước và Pháp luật đã chỉ ra rằng một trong những đặc trưng của
quyền pháp lý là khả năng yêu cầu chủ thể khác cùng tham gia quan hệ pháp luật thực hiện
nghĩa vụ pháp lý của họ nhằm đáp ứng quyền của mình, đồng thời yêu cầu các bên có liên quan
tôn trọng việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ mới phát sinh cũng như chấm dứt các hành vi cản
trở việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trên thực tế. Trong mối quan hệ pháp lý giữa công
dân với Nhà nước, nhân quyền và dân quyền là một nội dung quan trọng vào bậc nhất. Xét cho
cùng, mục tiêu tối thượng của mọi “khế ước xã hội” là nhằm bảo vệ quyền con người, quyền
công dân. Trong mối quan hệ này, Nhà nước và các chủ thể khác ở vào vị trí chủ thể mang
nghĩa vụ, có trách nhiệm bảo vệ và tạo mọi điều kiện để chủ thể quyền thực hiện các quyền của
mình. Quyền con người, trên phương diện nội dung, có thể được chia thành nhóm quyền Dân sự
- Chính trị và nhóm quyền kinh tế, văn hóa và xã hội. Quyền công dân có nội hàm hẹp hơn
quyền con người, ở một khía cạnh nào đó có thể coi là sự thể chế hóa của quyền con người vào
pháp luật của mỗi quốc gia, tiêu biểu như tại Việt Nam. Quyền công dân là khả năng lựa chọn
hành vi của công dân mà Nhà nước phải đảm bảo khi công dân yêu cầu, tuy nhiên muốn được
hưởng quyền công dân của một Nhà nước thì một người phải có quốc tịch của nhà nước đó. Chế
định quyền công dân tồn tại ở pháp luật hầu hết các quốc gia, tuy nhiên trong đó vẫn có các

quốc gia chưa phê chuẩn các công ước quốc tế về quyền con người. Tại Việt Nam, quyền con
người được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, BLDS, BLHS,
BLTTHS, BLTTDS, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và gia đình, các luật về bầu cử, …
Quyền tự do kinh doanh là một quyền cơ bản của công dân, được pháp luật Việt Nam
được ghi nhận tại Điều 57 Hiến pháp 1992. Mặc dù trong Công ước Quốc tế về các quyền kinh
tế, xã hội và Văn hóa không quy định rõ ràng về một quyền “tự do kinh doanh”, tuy nhiên từ các
Điều 6 và Điều 11 của công ước này, có thể thấy công ước đã để mở cho các quốc gia quy định
trong pháp luật của mình mọi biện pháp để bảo đảm sự “mưu cầu hạnh phúc” của nhân dân.
Quyền tự do kinh doanh trên thực tế bao hàm trong nó và những phần nội dung của nhiều quyền
như quyền lao động, quyền được hưởng an sinh xã hội, quyền được bảo hộ các quyền lợi tinh
thần và vật chất phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học nghệ thuật nào của mình, quyền
được hưởng các lợi ích của tiến bộ khoa học và các ứng dụng của nó,… và cũng là một sự bảo
đảm quan trọng để các quyền này được hiện thực hóa trong phạm vi một quốc gia.
Việc ghi nhận quyền tự do kinh doanh trong Hiến pháp mới của nước Việt Nam, Hiến pháp
năm 1992 thể hiện một sự cách tân mạnh mẽ trong tư duy của Nhà nước và xã hội, gắn liên với
việc công nhận nền kinh tế thị trường như là sự tiếp thu của văn minh nhân loại và hội nhập vào
nền kinh tế thế giới. Theo quy định tại Điều 5 Luật Doanh nghiệp - những bảo đảm của Nhà
nước đối với doanh nghiệp, “Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại
hình doanh nghiệp được quy định trong Luật này; bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các
doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi
hợp pháp của hoạt động kinh doanh; nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn
đầu tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh
nghiệp; tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp không bị
quốc hữu hoá, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Trường hợp thật cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của doanh
nghiệp thì doanh nghiệp được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm công
bố trưng mua hoặc trưng dụng. Việc thanh toán hoặc bồi thường phải bảo đảm lợi ích của doanh
nghiệp và không phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp.
Một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng – dân chủ - văn minh” chắc chắn không thể phủ nhận giá trị to lớn của quyền tự do



kinh doanh trong việc giải phóng tối đa mọi nguồn lực xã hội. Tính chất dân chủ, “ của dân, do
dân và vì dân” cũng thể hiện ở sự ghi nhận quyền tự do kinh doanh, theo đó người dân được tự
do và trực tiếp tham gia vào quá trình xây dựng nền kinh tế đất nước. Nhà nước chuyển dần từ
vị trí “cầm lái” sang “cầm chèo”.
Tuy nhiên, với tư các là một nhân quyền và một quyền tự do, quyền tự do kinh doanh vẫn
phải chịu những hạn chế. Những hạn chế này được quy định nhằm đảm bảo lợi ích và trật tự
công cộng, đảm bảo kinh doanh hiệu quả. Việc tiến hành kinh doanh có ảnh hưởng to lớn tới
nền kinh tế và xã hội, vì thế theo nguyên tắc “quyền tự do của người này không thể hạn chế
quyền tự do của người khác”, nhưng hạn chế đối với quyền tự do kinh doanh được Nhà nước
quy định. Chúng thể hiện ở những quy phạm pháp luật về điều kiện kinh doanh, thành lập doanh
nghiệp; về hạn chế tự do hợp đồng; về cạnh tranh lành mạnh, về đầu tư, … Nền kinh tế thị
trường với đặc trưng điều tiết kinh tế thông qua cạnh tranh vẫn có những ngành, những lĩnh vực
mà “cạnh tranh tỏ ra bất lực” vì nhiều lí do, như những hàng hóa, dịch vụ có tính chất độc quyền
tự nhiên của nhà nước, như cung cấp điện, khí đốt, viễn thông, các dịch vụ công cộng như giao
thông, công viên, chiếu sáng, bảo đảm an ninh xã hội, bảo vệ môi trường, … Sự can thiệp của
Nhà nước vào những lĩnh vực kinh doanh này là cần thiết và không thể phủ nhận.
2. Phân tích quyền tự do kinh doanh:
Phần viết trên đã đề cập về bản chất của quyền tự do kinh doanh. Phần dưới đây sẽ phân tích
các nội dung của quyền tự do kinh doanh. Với tính chất quan trọng và toàn diện của nó, những quy
định pháp luật có liên quan đến quyền tự do kinh doanh còn có mặt ở hầu hết các văn bản pháp luật
của nước ta. Được ghi nhận chính danh tại Điều 57 Hiến pháp 1992 và Điều 50 BLDS 2005, những
quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do kinh doanh được thể hiện rõ nhất tại Chương I
Luật Doanh nghiệp 2005, cụ thể là tại Điều 8 – Quyền của doanh nghiệp. Căn cứ vào nội dung của
các văn bản pháp luật, quyền tự do kinh doanh có thể được hiểu bao gồm những khía cạnh chủ yếu
sau đây:
1 - Quyền được tự do sở hữu đối với tài sản:
2 - Quyền tự do thành lập doanh nghiệp
3 - Quyền tự do hợp đồng

4 Quyền tự do cạnh tranh
Phần viết sẽ trình bày tầm quan trọng, nội dung và thực trạng của mỗi khía cạnh này.
1.1. Quyền tự do sở hữu đối với tài sản:
Một lập luận kinh tế có tính kinh điển: “rằng một người sẽ làm bất cứ điều gì mà pháp luật
không cấm, và rằng một người sẽ chỉ làm những thứ mà pháp luật bảo hộ” đã nói lên tầm quan
trọng đặc biệt của pháp luật về tài sản trong xã hội, nếu mọi người được pháp luật bảo vệ để sử
dụng tài sản, khả năng pháp lý để ngăn cấm người khác sử dụng nó và khả năng chuyển nhượng
cho người khác, họ sẽ cảm thấy muốn đầu tư công sức và vốn liếng vào phát triển các nguồn lực,
và các nguồn lực cũng sẽ được chuyển vào tay người nào có khả năng sử dụng nó hiệu quả nhất.
Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật tài sản còn có chức năng đặc biệt đó là giảm chi phí giao
dịch thông qua việc làm rõ những quyền mà chủ tài sản có thế có, qua đó tạo thuận lợi cho việc
chuyển giao tài sản giữa các sở hữu chủ, mà thiếu điều này thì nền kinh tế thị trường không thể
phát triển được. Tóm lại, một khi pháp luật bảo hộ tài sản tư, thì có nghĩa là pháp luật đã góp
phần bảo hộ một động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội phát triển.
Quyền tự do sở hữu đối với tài sản được ghi nhận tại chương II – Chế độ kinh tế của Hiến
pháp năm 1992 tại Điều 58 và được cụ thể hóa tại nhiều văn bản pháp luật khác, như Bộ luật


Dân sự, Luật Đất đai, Luật Chứng khoán, Luật Sở hữu trí tuệ,.... Các văn bản này, với gốc là
BLDS 2005, đã có những quy định tương đối cụ thể về:
+ Khái niệm tài sản: BLDS định nghĩa tài sản là “vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài
sản”. Quy định này tuy có rộng hơn so với BLDS 1995 nhưng vẫn còn thiếu rõ ràng, chưa làm rõ
được ranh giới giữa tài sản vô hình và hữu hình, hệ quả là nhiều quy chế pháp lý liên quan tới tài
sản đã không thỏa đáng về mặt khoa học và thực tiễn, gây ảnh hưởng không nhỏ tới giao lưu dân
sự và phát triển kinh tế, thương mại.
+ Về các hình thức sở hữu: Việc thừa nhận hình thức sở hữu tư nhân bên cạnh các hình
thức sở hữu khác như sở hữu chung, sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước là một bước tiến lớn mở
rộng quyền tự do kinh doanh. Bất cứ cá nhân nào, không phân biệt mức độ năng lực pháp luật
hành vi dân sự đều có thể là chủ thể của sở hữu tư nhân. Tuy vậy, tài sản thuộc hình thức sở hữu
tư nhân vẫn bị hạn chế, cá nhân không được sở hữu đối với các tài sản mà pháp luật quy định

thuộc hình thức sở hữu Nhà nước, như đất đai, rừng tự nhiên, tài nguyên trong lòng đất,… Việc
quy định quá nhiều hình thức sở hữu như trong bộ luật cũng làm phức tạp hóa mối quan hệ sở
hữu giữa các chủ thể, một nguyên nhân dẫn đến sự không minh bạch của thị trường.
+ Về nội dung quyền sở hữu: Pháp luật quy định quyền sở hữu được cấu thành bởi ba
quyền là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt. Quan niệm này chưa thực sự phù hợp với thực
tiễn nền kinh tế - xã hội và khác biệt với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nó chưa làm rõ được
vật quyền sở hữu và dịch quyền, cũng như việc quy định quyền chiếm hữu là một nội dung chính
của quyền sở hữu đã làm ảnh hưởng không nhỏ tới vấn đề xác định bản chất của tài sản trí tuệ.
Những khiếm khuyết này sẽ làm ảnh hưởng tới các giao dịch dân sự đa dạng trong thời đại nền
kinh tế phát triển mạnh và hội nhập sâu rộng.
+ Về bảo vệ quyền, lợi ích của chủ sở hữu và của người chiếm hữu ngay tình: Chủ sở hữu
có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình,
truy tìm, đòi lại tài sản bị người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật.
Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước
trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân, pháp nhân hoặc của chủ thể khác
theo quy định của pháp luật (Điều 169). Đây là nguyên tắc chung, rất cơ bản trong việc bảo vệ
quyền của chủ sở hữu. Tuy nhiên, ở đây cũng có một số ngoại lệ. Trong trường hợp tài sản đang
thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu ngay tình thì lợi ích của chủ sở hữu và người chiếm
hữu ngay tình sẽ được giải quyết như thế nào. BLDS năm 2005 đã giải quyết vấn đề này thông
qua các quy định về quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm
hữu ngay tình ( Điều 257) và quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động
sản từ người chiếm hữu ngay tình (Điều 258). Tuy nhiên, xuất phát từ những khiếm khuyết của
pháp luật có liên quan cũng như ý thức pháp luật của các chủ thể trong xã hội, công tác bảo hộ
quyền sở hữu, nhất là quyền sở hữu trí tuệ lại càng nhiều vấn đề phức tạp. Nạn xâm phạm quyền
tác giả, quyền sở hữu công nghiệp diễn ra tràn lan, trong điều kiện mà tri thứ và công nghệ đang
dần trở thành nguồn tư bản quan trọng nhất thì những yếu kém này thực sự là một lực cản lớn
đối với việc thực hiện quyền tự do kinh doanh nói chung và nền kinh tế nước ta nói riêng.
2.2. Quyền tự do hợp đồng:
Nếu tiền đề đầu tiên của nền kinh tế thị trường là pháp luật tài sản, thì pháp luật hợp đồng
là “chất dầu” bôi trơn để nền kinh tế có thể vận hành được. Hàng hóa được phân phối, công việc

được thực hiện và việc chuyên môn hóa quá trình lao động và sản xuất được điều phối thông qua
các hợp đồng. Luật hợp đồng cung cấp cơ chế giải quyết tranh chấp cho sự trao đổi mua bán, và
chứng minh cam kết của xã hội trong việc bảo đảm quyền tự do và quyền tự quyết của cá nhân.
Tự do kinh doanh nhất thiết phải đi kèm tự do hợp đồng.


Tuy nhiên, là một quyền tự do, bản thân quyền tự do hợp đồng đã bao hàm trong nó sự
hạn chế. Nhà nước với tư cách là chủ thể của quyền lực công, cần phải ban hành những quy định
pháp luật chống lại các hành vi lạm dụng quyền tự do hợp đồng, nhằm bảo đảm quyền tự do hợp
đồng của người khác, lợi ích chung của xă hội và trật tự công cộng. Đây là cơ sở để pháp luật
hợp đồng đặt ra các quy định về năng lực chủ thể giao kết hợp đồng, nguyên tắc giao kết hợp
đồng, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, các trường hợp hợp đồng vô hiệu… Đây cũng là
cơ sở khoa học để các học thuyết về hợp đồng ngày càng đặt ra nhiều cơ sở cho sự tác động của
Nhà nước vào quyền tự do hợp đồng so với quan niệm truyền thống trước đây. Ngoài ra, pháp
luật hợp đồng còn bảo vệ bên thế yếu trong quan hệ hợp đồng bằng cách quy định cho họ quyền
rút khỏi nghĩa vụ hợp đồng và được đền bù thiệt hại thông qua quyền khởi kiện yêu cầu huỷ hợp
đồng do: bị lừa dối, vi phạm đạo đức xă hội… Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để Toà án
can thiệp vào quan hệ hợp đồng nhằm bảo vệ công bằng trong quan hệ thương mại. Thực tế giao
kết hợp đồng ở các nước cho thấy, hợp đồng nhiều khi được sử dụng như một công cụ, phương
tiện để một bên ở vào thế mạnh về kinh tế buộc bên kia phải phụ thuộc vào ḿnh hoặc để bóc lột
một bên ở vào vị trí thế yếu hơn trong quan hệ hợp đồng, đặc biệt như trường hợp các hợp đồng
mẫu, các điều kiện thương mại chung trong đó chứa đựng các điều khoản miễn trừ trách nhiệm
của công ty này hoặc các điều khoản ràng buộc trách nhiệm của bên kư kết kia - thường là bên ở
vào vị trí thế yếu thế.Việc kí kết một hợp đồng như vậy tất yếu mang lại sự bất bình đẳng sâu
sắc, dẫn tới Toà án dần có quyền can thiệp vào quan hệ hợp đồng thông qua việc tuyên bố vô
hiệu những điều khoản hợp đồng trái pháp luật, hay sửa đổi, bổ sung nội dung hợp đồng để lập
lại sự cân bằng trong hợp đồng giữa các bên nhằm chống lại các điều khoản lạm dụng.
Pháp luật về hợp đồng của Việt Nam hiện nay được quy định trong nhiều văn bản pháp
luật khác nhau như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bảo hiểm…, tuy nhiên,
Bộ luật Dân sự được coi là luật gốc quy định các vấn đề chung về hợp đồng, là nền tảng cho

pháp luật về hợp đồng, điều chỉnh các quan hệ hợp đồng được xác lập trên nguyên tắc bình đẳng,
tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách nhiệm. Các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự
được áp dụng chung cho tất cả các loại hợp đồng, không phân biệt hợp đồng dân sự hay hợp
đồng kinh tế, hợp đồng có mục đích kinh doanh hay hợp đồng nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh
hoạt hàng ngày. Trên cơ sở các quy định chung về hợp đồng của Bộ luật Dân sự, tuỳ vào tính
chất đặc thù của các mối quan hệ hoặc các giao dịch, các luật chuyên ngành có thể có những quy
định riêng về hợp đồng để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực đó, ví dụ như các quy định
về hợp đồng mua bán hàng hoá trong Luật Thương mại, hợp đồng bảo hiểm trong Luật Kinh
doanh bảo hiểm... Các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự được coi là các quy định
chung còn các quy định về hợp đồng trong các luật chuyên ngành được coi là các quy định
chuyên ngành và các quy định này được ưu tiên áp dụng. Đặc biệt, sự ra đời của Luật Bảo vệ
người tiêu dùng là một bước tiến mới của pháp luật hợp đồng Việt Nam. Sự hạn chế quyền tự do
hợp đồng nhằm bảo vệ bên yếu thế đã được ghi nhận và đưa vào thực hiện, tuy hiệu quả còn
chưa cao.
Quyền tự do hợp đồng được thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
+ Quyền được tự do lựa chọn đối tác giao kết hợp đồng
Pháp luật dân sự, thương mại và lao động chỉ quy định điều kiện các chủ thể được quyền
giao kết các loại hợp đồng: đối với cá nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi (Điều
14, 15 BLDS 2005); đại diện của pháp nhân (Điều 91 BLDS 2005) người đại diện pháp luật của
pháp nhân (khoản 4 Điều 141 BLDS 2005), thương nhân (khoản 1, Điều 6 Luật TM 2005),
người sử dụng lao động và người lao động (khoản 1, 2 Điều 26 BLLĐ 1994, 2002, 2006, 2007).
Hệ thống pháp luật hiện hành không quy định cá nhân nào, pháp nhân nào, hay thương nhân nào,


người sử dụng lao động hay người lao động nào được quyền GKHĐ với nhau. Đây chính là sự
thể hiện tôn trọng quyền được lựa chọn đối tác GKHĐ cho các CTKD.
+ Quyền được tự do thỏa thuận nội dung giao kết hợp đồng
Quyền tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng là quyền hết sức cơ bản của quyền TDKD vì
đây là yếu tố cơ bản nhất tác động đến lợi ích của các bên GKHĐ. Các bên hoàn toàn có quyền
lựa chọn đối tượng hàng hóa để mua bán hoặc dịch vụ để cung cấp, thỏa thuận giá cả, cách tính

giá, phương thức thanh toán; điều kiện giao nhận hàng, vận chuyển, đóng gói bao bì và các nội
dung khác trong hợp đồng trên cơ sở đảm bảo hài hòa quyền và lợi ích của hai bên. Để đảm bảo
quyền và lợi ích của các bên khi thực hiện quyền tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng, BLDS,
Luật TM, Bộ luật Hàng hải, BLLĐ cũng như các văn bản pháp quy hướng dẫn đều có những quy
định về nội dung của hợp đồng theo hướng các chủ thể phải thỏa thuận đầy đủ các điều khoản
chủ yếu để đảm bảo hiệu lực của hợp đồng; thỏa thuận về nội dung hợp đồng không thể trái với
các nội dung thường lệ được quy định bởi pháp luật.
Quyền tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng của các bên bị giới hạn bởi các quy định của
pháp luật nhằm bảo đảm sự thỏa thuận của các bên không xâm hại đến những lợi ích mà pháp
luật cần bảo vệ hay trật tự công cộng (các nguyên tắc cơ bản của pháp luật) như việc các bên
không thể tự thỏa thuận trước trong hợp đồng việc bồi thường thiệt hại hợp đồng bằng một mức
ấn định trước trong hợp đồng vì nguyên tắc bồi thường thiệt hại của pháp luật Việt Nam là chỉ
chấp nhận cho việc bồi thường đối với những thiệt hại thực tế từ hành vi vi phạm hợp đồng của
bên kia (Điều 302 và 303 Luật TM 2005.)
Quyền tự do thỏa thuận hợp đồng còn bị giới hạn về hình thức hợp đồng mua bán hàng
hóa (Điều 24 Luật TM 2005) được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng
hành vi cụ thể, ngoại trừ đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải
được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó. Đối với mua bán hàng hoá quốc tế
(khoản 2 Điều 27 Luật TM 2005), phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc
bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, trong khi đó, Công ước Viên 1980 quy định
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế còn có hình thức đa dạng hơn, chỉ cần có người làm
chứng thì hợp đồng cũng được công nhận. Sự giới hạn này hiện nay là một rào cản gây trở ngại
cho các CTKD trong nước, hạn chế quyền TDKD khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp
hợp đồng trong nước, không thể kiện các đối tác nước ngoài khi họ ký kết hợp đồng theo hình
thức có người làm chứng là bên môi giới.
+ Quyền được tự do thỏa thuận các điều kiện đảm bảo để thực hiện hợp đồng
Pháp luật dân sự đã đảm bảo quyền tự do thỏa thuận các điều kiện đảm bảo để thực hiện
hợp đồng bằng các quy định (i) về biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự (từ Điều 318
đến Điều 325 BLDS 2005); (ii) về cầm cố tài sản (từ Điều 326 đến Điều 341 BLDS 2005; (iii) về
hợp đồng thế chấp (từ Điều 342 đến Điều 357 BLDS 2005); (iv) về đặt cọc (Điều 358 BLDS

2005);(v) về ký cược (Điều 359 BLDS 2005);(vi) về ký quỹ (Điều 360 BLDS 2005); (vii) về bảo
lãnh (từ Điều 361 đến Điều 371 BLDS 2005); (viii) về tín chấp (từ Điều 372 đến Điều 373
BLDS 2005).
+ Quyền được tự do thỏa thuận cơ quan tài phán và luật giải quyết tranh chấp hợp
đồng
Quyền tự do thỏa thuận về cơ quan tài phán được quy định tại Điều 4 Bộ luật Tố tụng Dân
sự (BLTTDS) 2004 quy định về quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, theo đó,
CTKD có quyền lựa chọn Tòa án nhân dân có thẩm quyền để tài phán tranh chấp hợp đồng. Điều
5 Luật Trọng tài Thương mại (Luật TTTM) 2010 quy định điều kiện giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài, theo đó, nếu các bên muốn lựa chọn cơ quan tài phán là trọng tài thương mại thì cần


thỏa thuận trước trong hợp đồng hoặc sau khi xảy ra tranh chấp. Điều 6 Luật TTTM 2010 quy
định Tòa án từ chối thụ lý trong trường hợp có thoả thuận trọng tài, theo đó, trong trường hợp
các bên tranh chấp đã có thoả thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ
chối thụ lý, trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài không thể thực
hiện được. Theo Điều 25, 29, 31 BLTTDS 2004 quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp
về hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại và hợp đồng lao động, thì nếu các bên không lựa chọn
cơ quan tài phán tranh chấp hợp đồng là Tòa án hoặc trọng tài thì thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp hợp đồng nêu trên thuộc thẩm quyền của cơ quan Tòa án nhân dân có thẩm quyền cấp
huyện hoặc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Các quy định trên của pháp luật dân sự và
trọng tài đã đảm bảo quyền tự do lựa chọn của các bên về cơ quan tài phán và đảm bảo cơ quan
Tòa án nhân dân có thẩm quyền đương nhiên tài phán tranh chấp hợp đồng kinh doanh cho các
CTKD nếu các bên không có sự lựa chọn trước đó, hoặc khi xảy ra tranh chấp, các bên không
thỏa thuận được việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Về quyền tự do lựa chọn luật giải quyết tranh chấp được quy định tại Điều 769 BLDS
2005. Theo đó, khi lựa chọn cơ quan tài phán là Tòa án (i) nếu không có thoả thuận khác thì áp
dụng pháp luật nơi thực hiện hợp đồng; (ii) nếu hợp đồng được giao kết tại Việt Nam; (iii) thực
hiện hoàn toàn tại Việt Nam; (iv) hợp đồng liên quan đến bất động sản ở Việt Nam thì áp dụng
theo pháp luật Việt Nam. Điều 14 Luật TTTM 2010 quy định: khi lựa chọn cơ quan tài phán là

Trọng tài thương mại thì (i) đối với tranh chấp không có yếu tố nước ngoài thì áp dụng pháp luật
Việt Nam để giải quyết tranh chấp; (ii) đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, thì áp dụng pháp
luật do các bên lựa chọn; (iii) nếu các bên không có thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng
trọng tài quyết định luật để giải quyết tranh chấp; (iv) trường hợp pháp luật Việt Nam, pháp luật
do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội dung tranh chấp thì Hội đồng
trọng tài được áp dụng tập quán quốc tế để giải quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả
của việc áp dụng đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Theo các quy
định trên, chỉ ngoại trừ trường hợp đã được luật quy định thì các bên có quyền lựa chọn luật áp
dụng tranh chấp theo sự thỏa thuận và khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thương mại thì cơ hội lựa chọn luật áp dụng nước ngoài giải quyết tranh chấp được rộng hơn,
còn lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp thì hạn chế hơn.
2.3. Quyền tự do thành lập doanh nghiệp, chủ động lựa chọn ngành nghề, địa bàn
hình thức kinh doanh, đầu tư, chủ động mở rộng quy mô và ngành, nghề kinh doanh, tự do
lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn.
Thành lập doanh nghiệp là sự khai sinh ra một chủ thể kinh doanh. Quyền tự do thành lập
doanh nghiệp kéo theo cùng nó quyền tự do lựa chọn ngành nghề, quy mô và lĩnh vực kinh
doanh. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp chính là nhân vật trung tâm, là chủ thể kinh
doanh chủ yếu và có vai trò quan trọng nhất. Với yêu cầu của nguyên tắc tự do kinh doanh, thành
lập doanh nghiệp được coi là quyền cơ bản của nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc thành lập doanh
nghiệp phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Các quy định về thành lập doanh nghiệp
một mặt nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh của nhà đầu tư, mặt khác phải đáp ứng yêu cầu
của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. Ngoài Hiến pháp 1992, BLDS 2005, quyền tự do
thành lập doanh nghiệp và nội dung của nó được ghi nhận chủ yếu tại Luật Doanh Nghiệp 2005
và các văn bản hướng dẫn thi hành. Có lẽ đây là nội dung thể hiện rõ nhất quyền tự do kinh
doanh trong tương quan với sự hạn chế của nó.
Để thành lập một doanh nghiệp, cần phải thỏa mãn 05 nhóm điều kiện sau:
1- Điều kiện về tài sản: Người thành lập Doanh nghiệp phải đăng kí tài sản đầu tư vào kinh
doanh và khi đã được cấp đăng ký kinh doanh, số tài sản này được ghi thành vốn điều lệ đối với



những doanh nghiệp có điều lệ hoặc vốn đầu tư đối với doanh nghiệp tư nhân. Mức độ tài sản
đầu tư khi thành lập doanh nghiệp tùy thuộc vào điều kiện của những người chủ doanh nghiệp,
trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác. Đối với một số ngành nghề, Nhà nước quy
định vốn pháp định, với lý do trong những ngành nghề, lĩnh vực này, doanh nghiệp cần phải có
quy mô vốn nhất định để đảm bảo sự cạnh tranh cần thiết và hiệu quả hoạt động, đồng thời ngăn
chặn tình trạng độc quyền.
2- Điều kiện về ngành nghề kinh doanh: Người đầu tư thành lập doanh nghiệp chỉ được đăng
kí hoạt động trong các lĩnh vực, ngành nghề không thuộc phạm vi cấm của Nhà nước, theo quy
định của Nghị định 139/2007/ND-CP, gồm các ngành như kinh doanh chất ma túy các loại, kinh
doanh các loại pháo, văn hóa phẩm đồi trụy,… Đối với những ngành nghề kinh doanh có điều
kiện, xuất phát từ yêu cầu quản lý, điều tiết nền kinh tế và lợi ích xã hội, doanh nghiệp được quy
định cần phải có đủ các điều kiện nhất định thì mới được phép thành lập, như kinh doanh dịch vụ
pháplý; Kinh doanh dịch vụ khám, chữa bệnh và kinh doanh dược phẩm ; Kinh doanh dịch vụ
thú y và kinh doanh thuốc thú y, kinh doanh dịch vụ đòi nợ,… Hiện hành, điều kiện kinh doanh
thể hiện dưới các hình thức: 1- Giấy phép kinh doanh, 2- Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh, 3- Chứng chỉ hành nghề, 4- Chứng nhận bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, 5- Xác nhận
vốn pháp định, 6- Chấp thuận khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, 7- Những yêu cầu
khác mà doanh nghiệp cần phải thực hiện hoặc phải có mới được quyền kinh doanh ngành nghề
đó mà không cần xác nhận, chấp thuận dưois bất kì hình thức nào của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền.
3- Điều kiện về tên, địa chỉ doanh nghiệp: Người thành lập doanh nghiệp phải đăng ký tên
doanh nghiệp và được pháp luật công nhận và bảo vệ. Mỗi doanh nghiệp phải có một tên chính
thức dùng trong các giao dịch giữa doanh nghiệp với nhà nước và với các chủ thể kinh doanh
khác cũng như với người tiêu dùng. Không chỉ bắt buộc phải có tên mà việc đặt tên, đăng kí tên
và quá trình sử dụng tên doanh nghiệp còn phải tuân theo những quy định của pháp luật
4- Tư cách pháp lý của người thành lập và quản lý doanh nghiệp: Tất cả các tổ chức là pháp
nhân, gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, không phân biệt nơi đăng ký
địa chỉ trụ sở chính và mọi cá nhân, không phân biệt nơi cư trú và quốc tịch đều có quyền thành
lập, tham gia thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Tuy
nhiên, Khoản 2 Điều 13 của Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định một số tổ chức, cá nhân sau

đây không được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam, đó là các cán bộ, công
chức theo quy định của luật cán bộ, công chức, sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, người đang
chấp hành hình phạt tù,…
2.4. Quyền tự do cạnh tranh:
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh có một vai
trò không chỉ là động lực của sự phát triển mà còn là yếu tố quan trọng đảm bảo tính lành mạnh
của hoạt động kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, nếu lợi nhuận là nhân tố thúc đẩy các
chủ thể kinh doanh tiến hành hoạt động kinh doanh thì cạnh tranh buộc họ phải điều hành các
hoạt động kinh doanh có hiệu quả nhất nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển sự nghiệp kinh
doanh của mình. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang vận hành theo cơ chế
thị trường, thực tiễn cạnh tranh trong nền kinh tế đã góp phần quan trọng thúc đẩy nền kinh tế
phát triển, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh cần phải được
coi như quyền tự do của các chủ thể kinh doanh. Tự do cạnh tranh là một nội dung quan trọng
của quyền tự do kinh doanh đồng thời cũng là điều kiện đảm bảo cho quyền tự do kinh doanh
được thực hiện có hiệu quả.


Trong pháp luật Việt Nam, các quy định của về cạnh tranh và tự do cạnh tranh được ghi
nhận chủ yếu trong Luật Cạnh tranh năm 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành, ngoài ra rất
nhiều văn bản luật khác cũng hàm chứa trong nó quy định về sự tự do cạnh tranh, như Luật Sở
hữu trí tuệ, luật Bảo vệ người tiêu dùng, .... Các văn bản này đã điều chỉnh các hành vi hạn chế
cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh, góp phần quan trọng tạo nên một thị trường minh
bạch, nơi các doanh nhân kinh doanh một cách chân chính và thúc đẩy sự năng động sáng tạo
nơi họ. Tuy nhiên thực trạng thực thi luật cạnh tranh vẫn còn nhiều vướng mắc, ý thức của các
chủ thể kinh doanh, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước, còn chưa cao, đặc biệt, các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ ở mức độ đáng báo động. Lợi thế
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nguy cơ tàn lụi nếu việc thực thi pháp luật cạnh
tranh không được cải thiện.
3. Một số kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành về quyền tự do kinh doanh:
Những thực trạng nêu trên đã cho thấy quyền tự do kinh doanh, dù không bị hạn chế quá

nghiêm ngặt bởi pháp luật, nhưng chưa thể trở thành một cú hích mạnh mẽ đối với cộng đồng
doanh nhân Việt Nam. Những yếu kém của pháp luật, cơ chế hành chính quan liêu, sự thiếu
niềm tin vào hệ thống tư pháp, ... là những vật cản đáng kể đổi với quá trình gia nhập thị trường,
phát huy lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Để tạo ra một môi trường kinh
doanh thuận lợi, nơi các chủ thể kinh doanh thực sự bình đẳng và phát huy được tối đa tiềm lực
con người Việt Nam, phần cuối của bài xin được đề xuất một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, về công tác lập pháp:
+ Nâng cao chất lượng lập pháp của Quốc hội, chất lượng công tác thẩm tra dự án luật; tuân
thủ các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, tăng cường tính
độc lập và vai trò giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ. Để khắc phục tình trạng hiện nay
có nhiều văn bản có nội dung chồng chéo, mâu thuẫn nhau, việc ban hành các văn bản pháp
luật cần phải được đồng bộ, thống nhất cả về nội dung lẫn hình thức. Tính thống nhất, đồng
bộ ở đây được thể hiện ở chỗ các quy định của pháp luật phải tồn tại bên cạnh nhau, bổ sung
cho nhau, cái này làm tiền đề cho cái kia, làm rõ hơn cho cái kia. Khi xây dựng dự thảo luật
thì cũng nên đồng thời xây dựng dự thảo các văn bản hướng dẫn kèm theo. Như vậy, sẽ đảm
bảo được tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật và đảm bảo triển khai áp dụng một cách kịp
thời văn bản luật trong thực tiễn.
+ Hoàn thiện pháp luật về sở hữu, cần xây dựng mô hình BLDS mà tại đó phải phân loại và
mô tả đầy đủ các vật quyền, có nghĩa là mô tả quan hệ giữa người và vật phát sinh một cách
khách quan, mô hình BLDS tương lai cần tính đến việc thay đổi tận gốc quan niệm về quyền
sở hữu và tách quyền chiếm hữu ra khỏi nội dung của quyền sở hữu cho phù hợp với giao lưu
dân sự và kinh tế, thương mại ngày nay. Gắn với chúng là việc thiết lập quy chế cho ba loại
tài sản: tài sản chung, tài sản công và tài sản tư, trong đó tài sản công do nhà nước đại diện
chủ sở hữu, còn tài sản chung có quy chế bảo vệ và khai thác thích hợp. Pháp luật cần xây
dựng khung pháp lý chung cho việc thương mại hóa các tài sản trí tuệ, đặc biệt là định giá
thương hiệu.
+ Hoàn thiện pháp luật về chủ thể kinh doanh. Hiện nay, pháp luật nước ta hạn chế một số
đối tượng không được thành lập doanh nghiệp (Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005). Xét dưới
góc độ nào đó thì quyền tự do kinh doanh vẫn chưa được đảm bảo thực hiện. Do đó, cần tạo
ra một khung pháp lý mở rộng, thống nhất và đồng bộ cho các chủ thể tham gia kinh doanh,

cho phép cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước cùng tham gia kinh doanh. Khi các


thành phố, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân ngày càng tham gia nhiều vào nền kinh
tế, các nguồn lực của xã hội sẽ được tận dụng tối đa. Quốc doanh cạnh tranh với dân doanh
một cách bình đẳng góp phần làm cho Nhà nước trở nên “gần dân” hơn, vai trò “cầm chèo”
của Nhà nước rõ ràng hơn, khắc phục được tàn dư của chế độ xây dựng pháp luật và quản lý
hành chính cứng nhắc, thiếu thực tế và kém hiệu quả.
+ Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng. Cần thống nhất các văn bản và cần ban hành thêm một
văn bản ở các lĩnh vực khác nhằm quy định rõ ràng, cụ thể hơn về hợp đồng kinh tế. Qua đó,
tạo một cơ chế thông thoáng cho các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng. Tích cực tập
trung vào vấn đề điều chỉnh thông tin bất cân xứng trong giao kết hợp đồng, đồng thời do
quan hệ pháp luật hợp đồng là quan hệ pháp luật phổ biến nhất trong nền kinh tế thị trường,
các quy định pháp luật nếu không ban hành, sửa đổi, bổ sung kịp thời sẽ sớm trở nên lạc hậu
trước thực tiễn kinh doanh. Vì thế, đa dạng hóa nguồn pháp luật hợp đồng, thừa nhận án lệ, là
một vấn đề rất cần được nghiên cứu.
Thứ hai, về công tác hành pháp
+ Tăng cường công tác giải thích pháp luật để làm rõ nội dung của những quy định, đảm bảo
cho nhận thức đúng đắn thống nhất pháp luật trên cở sở thực hiện đúng pháp luật. Đẩy mạnh
công tác thông tin, tuyên truyền phổ biến pháp luật trong nhân dân, đặc biệt là đối với những
nhà kinh doanh nhằm nâng cao kiến thức về pháp luật cho họ.
+ Đổi mới chức năng của cả hệ thống bộ máy, trên cở sở xác định lại chức năng của từng cơ
quan trong hệ thống bộ máy Nhà nước, phân cấp mạnh mẽ và toàn diện giữa các cấp trong hệ
thống hành chính nhà nước. Bộ máy hành chính Nhà nước phải có phương thức hoạt động
sao cho phát huy cao độ được quyền dân chủ của công dân.
+ Đơn giản hóa các thủ tục hành chính, nhất là những thủ tục có liên quan đến hoạt động kinh
doanh như: thủ tục giao đất, thủ tục thẩm định các dự án đầu tư… Hạn chế quyền xây dựng
văn bản pháp luật của Chính phủ, đặt quyền này dưới sự giám sát chặt chẽ của Quốc hội.
+ Đào tạo đội ngũ cán bộ công chức Nhà nước một cách có hệ thống, có đầy đủ năng lực và
phẩm chất đạo đức để thực hiện chức năng công quyền của các cơ quan Nhà nước, xác lập

chế độ bổ nhiệm, bãi nhiệm, điều động người đứng đầu các cơ quan hành chính Nhà nước.
Thứ ba, về công tác tư pháp
Là một Nhà nước pháp quyền dân chủ, tố quyền của người dân phải được đảm bảo.
Niềm tin nơi tòa án của mọi công dân nói chung và các chủ thể kinh doanh nói riêng cần
được nâng cao. Yêu cầu này đòi hỏi:
+ Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp mạnh và hoạt động có hiệu quả, đem lại niềm tin cho
các chủ thể kinh doanh khi tham gia giải quyết tranh chấp, bảo đảm sự vô tư của tòa án, tổ
chức hệ thống tòa án căn cứ theo cấp xét xử thay vì cấp hành chính như hiện nay. Sự cải tổ
hệ thống tổ chức tòa án, các tòa án cần được tổ chức theo cấp xét xử thay vì cấp hành chính
như hiện nay.
+ Bảo đảm sự vô tư và độc lập của các thẩm phán, thông qua chế độ lương và thăng trật, bổ
nhiệm. Đồng thời quy định cho họ khả năng tạo án lệ, một yêu cầu thiết thực nhằm tạo điều
kiện bảo đảm pháp chế trong nền kinh tế năng động hiện nay. Đồng thời, trình độ của cả các
thẩm phán cũng như các chức danh bổ trợ tư pháp cần luôn luôn được nâng cao. Điều này có
thể thực hiện thông qua công tác giáo dục pháp luật tại các cơ sở đào tạo chuyên nghiệp hiện
nay. Chương trình giảng dạy cần thiết thực hơn, chú trọng đào tạo kĩ năng và những ngành
luật “mũi nhọn” nhằm phục vụ nền kinh tế, như Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thương mại Quốc
tế, …


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.


Hiến pháp 1992
BLDS 2005
Luật Thương mại 2005
Giáo trình Luật Kinh tế, PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa, NXB. CAND,
2010.
Bình luận, phân tích tình huống Luật Doanh nghiệp, PGS. TS. Phạm
Duy Nghĩa, NXBDHQG, 2006.
Tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật – một quyền cơ bản của
các chủ thể kinh doanh, Luận văn tốt nghiệp đại học, Lê Minh Thắng,
2001.
Hạn chế quyền lực Nhà nước, PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung,
NXBDHQG, 2005.
Từ điển Luật học, NXB. Từ điển bách khoa, 2006.


BÀI TẬP NHÓM THÁNG SỐ 1
MÔN : PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN NHÂN THÂN
Đề bài số 09: Phân tích quyền tự do kinh doanh của cá nhân?
Quyền tự do kinh doanh bị hạn chế trong những trường hợp
nào? Đưa ra bình luận, kiến nghị của nhóm?



×