Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.64 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Luật người khuyết tật là một trong số những bộ luật còn khá mới mẻ. Với tư
cách là đối tượng, thực thể tồn tại trong đời sống xã hội, người khuyết tật có đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Tuy nhiên, do một số khiếm khuyết
không mong muốn về cơ thể mà người khuyết tật gặp phải nhiều khó khăn trong
việc hòa nhập cộng đồng, cũng như thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân của
mình. Với tư cách là thành viên của ILO và đã tham gia kí Công ước Liên hợp
quốc về quyền của người khuyết tật, pháp luật Việt Nam cần phải và đã bước đầu
nội luật hóa các nguyên tắc đã được ghi nhận trong Công ước. Luật người khuyết
tật năm 2010 của Việt Nam dành hẳn một chương (chương VIII) để quy định cụ
thể về bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật. Đây là một trong những nội dung cơ
bản của hệ thống an sinh xã hội. Sau đây em xin đi sâu vào tìm hiểu về chế độ bảo
trợ xã hội, cũng như liên hệ thực tiễn về quá trình thực thi chế độ.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Một số vấn đề lý luận về người khuyết tật:
1. Khái niệm về người khuyết tật:
Khái niệm về người khuyết tật được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng định nghĩa về người khuyết tật dù tiếp cận ở
bất cứ góc độ nào nhất thiết phải phản ánh thực tế là người khuyết tật có thể gặp
các rào cản do yếu tố xã hội, môi trường hoặc con người khi tham gia vào mọi hoạt
động kinh tế, chính trị, xã hội. Họ phải được đảm bảo rằng họ có quyền và trách
nhiệm tham gia vào mọi hoạt động của đời sống như bất cứ công dân nào với tư
cách là các quyền của con người. với tư cách tiếp cận đó, có thể đưa ra định nghĩa
khái niệm của người khuyết tật như sau:
Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể
hoặc bị suy giảm chắc năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong việc
tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình đẳng với những
chủ thể khác.
2. Khái niệm luật người khuyết tật:


1


Luật người khuyêt tật là một môn mới được đưa vào nghiên cứu và giảng
dạy pháp luật cho nên khoa học pháp lí nước ta chưa có khái niệm thống nhất về
vấn đề này. Tuy nhiên, về phương diện lí luận và từ quan điểm tiếp cận so sánh có
thể xem xét khái niệm luật người khuyết tật dưới góc độ đặc thù của đối tượng
(người khuyết tật).
Như vậy, luật người khuyết tật là tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình đảm bảo các quyền và trách nhiệm của người khuyết tật.
II. Chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật:
1. Khái niệm bảo trợ xã hội và bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật:
Trong cuộc sống, con người thường xuyên phải đối mặt với những khó khăn,
biến cố, bất hạnh, rủi ro… Khi đó, con người cần đến sự hỗ trợ, giúp đỡ của cộng
đồng để đảm bảo cuộc sống, hòa nhập với cộng đồng. Sự phát triển của xã hội dẫn
đến việc hình thành những cơ chế bảo vệ ngày càng an toàn hơn cho cuộc sống của
con người. Tuy nhiên, ở đâu đó vẫn tồn tại một bộ phận dân cư “yếu thế”. Với
những khiếm khuyết về sức khỏe, sự khó khăn về kinh tế, về hoàn cảnh sống…
khiến cơ hội tiếp cận và hòa nhập cuộc sống của họ có những hạn chế nhất định,
hơn bao giờ hết vấn đề đảm bảo quyền cho những công dân này được xác định là
trách nhiệm của mỗi quốc gia trong tương quan chung về đảm bảo nhân quyền.
Xuất phát từ nhu cầu tất yếu khách quan trong việc tìm kiếm những biện
pháp bảo vệ cuộc sống của mỗi cá nhân, đặc biệt là nhóm người yếu thế, một hệ
thống các chế độ bảo vệ được dần dần hình thành với vai trò trung tâm của nhà
nước. Những biện pháp bảo vệ đối tượng yếu thế có sự tham gia của nhà nước
chính là nội dung của bảo trợ xã hội.
Bảo trợ xã hội được tiếp cận với nhiều góc độ, quan điểm, phạm vi khác
nhau. Ở Việt Nam, bảo trợ xã hội cũng là nội dung khá mới mẻ, được đề cập đến
gần đây trong các văn bản pháp luật và các tài liệu nghiên cứu khoa học trong lĩnh

vực an sinh xã hội ở Việt Nam. Dựa trên quan điểm chung của Tổ chức Lao động
quốc tế (ILO) và riêng Việt Nam, có thể hiểu bảo trợ xã hội là sự giúp đỡ của nhà
nước, xã hội và cộng đồng bằng những biện pháp và các hình thức khác nhau đối
với các đối tượng gặp rủi ro, bất hạnh, nghèo đói… vì nhiều nguyên nhân dẫn đến
2


không đủ khả năng tự lo liệu được cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình
nhằm giúp họ tránh được mối đe dọa của cuộc sống thường nhật, giúp họ vượt qua
mọi khó khăn, ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Như vậy, đối tượng bảo trợ
xã hội là những người gặp khó khăn, rủi ro, biến cố, bất hạnh trong cuộc sống vì
nhiều nguyên nhân khác nhau cần có sự giúp đỡ. Đó có thể là người khuyết tật,
người già cô đơn, trẻ em mồ côi thiếu người nuôi dưỡng…
Người khuyết tật là một trong nhóm đối tượng được ưu tiên đề cập đến
trong nhóm đối tượng bảo trợ xã hội. Họ thuộc nhóm người “yếu thế” trong xã hội,
vì những nguyên nhân khác nhau mà bị rơi vào vị thế bất lợi, thiệt thòi, ít có cơ
may trong cuộc sống như những người bình thường khác và không đủ khả năng tự
lo liệu cho cuốc sống của bản thân và gia đình. Về kinh tế, những đối tượng này có
mức sống thấp hơn mức sống tối thiểu của xã hội, họ cần có sự nâng đỡ về vật chất
để tồn tại và phát triển. Căn cứ vào độ tuổi, dạng tật, nguyên nhân túng quẫn mà
hình thành các nhóm đối tượng bảo trợ xã hội cụ thể. Với những đặc điểm riêng
của đối tượng nên pháp luật các quốc gia thường có những quy định riêng cho
nhóm đối tượng này, đặc biệt trên phương diện bảo trợ xã hội. Với trách nhiệm của
mình, mỗi quốc gia đều xác định trách nhiệm đối với cuộc sống của những người
“yếu thế” nói chung và người khuyết tật nói riêng.
Bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật là tổng hợp các cơ chế, chính sách và
các giải pháp của nhà nước và cộng đồng xã hội nhằm trợ giúp và bảo vệ cho
người khuyết tật, trước hết và chủ yếu là những khoản trợ cấp, hỗ trợ và các chi phí
khác nhằm giúp cho đối tượng ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Theo đó
nội dung của bảo trợ xã hội cho người khuyết tật cũng chính là các nội dung của

bảo trợ xã hội nói chung áp dụng với đối tượng hưởng là người khuyết tật khi thỏa
mãn các điều kiện hưởng trong các chế độ trợ cấp, hỗ trợ.
Trên quan điểm tiến bộ, bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật được tiếp cận
từ góc độ nhân quyền với trách nhiệm của nhà nước chứ không chỉ dừng lại ở mục
đích nhân đạo, ban ơn, chiếu cố tới những thân phận khiếm khuyết về sức khỏe.
Các khoản trợ cấp, hỗ trợ cho cuộc sống của người khuyết tật được thực hiện như
một sự phân phối lại lợi ích xã hội theo hướng công bằng, đảm bảo cho sự phát
triển bền vững của mỗi quốc gia trong tương quan phát triển kinh tế và xã hội.
2. Ý nghĩa của bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật:
3


Người khuyết tật luôn chiếm một tỉ lệ nhất định trong dân số mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội, ước tính cả
nước có khoảng 5,3 triệu người khuyết tật, chiếm 6,34% dân số cả nước. Xem xét
về thể trạng và cơ hội tạo thu nhập đảm bảo cuộc sống cho thấy với những khuyết
tật của mình, nhóm đối tượng này đã trở thành yếu thế so với những người bình
thường. Họ cần giúp đỡ, hỗ trợ để đảm bảo cuộc sống. Với trách nhiệm đảm bảo và
chăm lo đời sống cho các thành viên xã hội, Nhà nước xác định trách nhiệm của
mình đối với cuộc sống của người khuyết tật, trước hết và cơ bản là khoản trợ cấp,
hỗ trợ nuôi dưỡng trong chế độ bảo trợ xã hội.
Việc xem xét ý nghĩa của bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật không chỉ
dừng lại ở ý nghĩa về kinh tế như một sự phân phối lại thu nhập xã hội một cách
công bằng mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội, chính trị và pháp luật.
Trước hết, dưới góc độ kinh tế, bảo trợ xã hội có ý nghĩa thiết thực đối với
đời sống của người khuyết tật và gia đình họ thông qua khoản trợ cấp hỗ trợ, góp
phần đảm bảo cho nhu cầu sinh sống tối thiểu của người khuyết tật. Bảo trợ xã hội
đối với người khuyết tật là một biện pháp kinh tế góp phần đẩy lùi nghèo đói, khắc
phục rủi ro, thúc đẩy kinh tế, phát triển. Các khoản trợ cấp bảo trợ xã hội đối với
người khuyết tật còn có ý nghĩa là công cụ phân phối lại tiền bạc, của cải và dịch

vụ có lợi cho các thành viên yếu thế, thu hẹp dần sự chênh lệch mức sống, giảm
bớt bần cùng, nghèo đói. Việc cung cấp các khoản trợ giúp xã hội từ nguồn tài
chính công đó không vì mục đích kinh doanh, lợi nhuận và mang ý nghĩa phân
phối lại thu nhập xã hội theo hướng công bằng, đảm bảo lợi ích xã hội đối với
người khuyết tật nói riêng và toàn bộ dân chúng nói chung.
Thứ hai, dưới góc độ chính trị xã hội, bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật
còn là biện pháp hỗ trợ tích cực của xã hội đối với mỗi thành viên của mình khi
gặp rủi ro, hạn chế về sức khỏe; góp phần làm giảm thiểu những bất ổn xã hội, ổn
định xã hội, ổn định chính trị bởi lẽ khi rơi vào cảnh túng quẫn, phân biệt đối xử
con người sẽ dễ nảy sinh những hành vi lệch lạc về chuẩn mực đạo đức. Đây sẽ là
nền tảng cơ bản thúc đẩy phát triển bền vững về kinh tế xã hội và chính trị mỗi
quốc gia.
Thứ ba, dưới góc độ pháp luật, bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật là một
trong những nội dung của pháp luật an sinh xã hội, điều chỉnh việc trợ giúp vật
4


chất và tinh thần cho nhóm đối tượng có vị thế bất lợi, thiệt thòi, ít có cơ may trong
cuộc sống như những người bình thường khác. Bảo trợ xã hội cho người khuyết tật
với các chế độ trợ cấp được thiết lập trên cơ sở đảm bảo quyền con người. Mỗi con
người sinh ra trong xã hội đều có quyền được sống, được bình đẳng, được thương
yêu, đùm bọc, che chắn, bảo vệ trước những biến cố bất lợi, đặc biệt là khi sự sống
bị đe dọa. Quyền này đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền của Liên
hợp quốc ngày 10/12/1948: “mọi người đều có quyền hưởng một mức sống đủ
đảm bảo sức khỏe và nhu yếu của mình cùng gia đình, nhất là về ăn uống, nhà ở,
thuốc men…” (Điều 22 Tuyên ngôn nhân quyền). Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế
xã hội và những đặc thù riêng mà mỗi quốc gia đều luật hóa nội dung này ở mức
độ khác nhau để tổ chức thực hiện. Từ đó có thể thấy, bảo trợ xã hội đối với người
khuyết tật là quyền của mỗi thành viên xã hội và là trách nhiệm, nghĩa vụ của cả
cộng đồng.

3. Nguyên tắc cơ bản của bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật:
+ Người khuyết tật có quyền được hưởng bảo trợ xã hội không có sự phân
biệt theo tiêu chí nào.
+ Mức trợ cấp bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật không phụ thuộc vào
sự đóng góp, thu nhập hoặc mức sống của họ mà chủ yếu phụ thuộc vào mức độ
khuyết tật và nhu cầu thực tế của đối tượng.
+ Thực hiện bảo trợ xã hội cân đối giữa nhu cầu thực tế của người khuyết tật
và phù hợp với khả năng đáp ứng của điều kiện kinh tế xã hội.
+ Đa dạng hóa, xã hội hóa hoạt động bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật,
phát huy khả năng vươn lên hòa nhập cộng đồng.
4. Nội dung chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật:
Trên phương diện pháp luật quốc tế, ngày 13/12/2006, tại kì họp lần thứ 61
của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về quyền của người
khuyết tật. Đây là một văn bản quy phạm pháp luật quốc tế đầu tiên của xã hội loài
người, khẳng định mọi tiếp cận của người khuyết tật đều dựa trên quyền của người
khuyết tật. Tại điều 28 Công ước quy định về mức sống và bảo trợ xã hội: “Các
quốc gia thành viên công nhận quyền của người khuyết tật có được mức sống đầy
đủ cho bản thân và gia đình họ, bao gồm có đủ thức ăn, quần áo và nhà ở, và có
5


quyền không ngừng cải thiện điều kiện sống. Các quốc gia thành viên thực thi
những bướ phù hợp để bảo vệ và thúc đẩy việc công nhận quyền đó mà không có
sự phân biệt đối xử vì lí do khuyết tật”. Để đảm bảo quyền này, công ước cũng đề
xuất những biện pháp đảm bảo thực hiện quyền. Những quy định này là nguồn
pháp luật cơ bản mà các quốc gia phê chuẩn công ước phải nội luật hóa đảm bảo
thực hiện. Ngày 22/10/2007, Việt Nam đã kí cam kết tham gia Công ước về quyền
của người khuyết tật và nhanh chóng nội luật hóa thực hiện. Kế thừa thành tựu lập
pháp và các nội dung về bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật, nội dung bảo trợ
xã hội cho người khuyết tật ở Việt Nam được quy định trong một chương (chương

VIII) trong Luật người khuyết tật 2010, từ Điều 44 tới Điều 48.
Chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật là nội dung cơ bản của pháp
luật bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật, quy định quyền, nghĩa vụ của nhà
nước, tổ chức, cá nhân trong việc hỗ trợ, giúp đỡ cho người khuyết tật thông qua
các khoản trợ cấp.
Ở Việt Nam, bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật được quan tâm thực
hiện từ rất sớm và thực sự được ghi nhận với vị trí quan trọng trong hệ thống pháp
luật bằng sự ra đời của Pháp lệnh về người tàn tật ngày 30 tháng 7 năm 1998. Sau
10 năm thực hiện với hệ thống văn bản hướng dẫn đã tạo được môi trường pháp lí
thuận lợi bảo vệ và hỗ trợ cho người khuyết tật hòa nhập cộng đồng. Trên phương
diện chế độ bảo trợ xã hội cho người khuyết tật, phải kể đến sự ra đời của Nghị
định số 07/2000/NĐ-CP ngày 9/3/2000 về chính sách cứu trợ xã hội, Nghị định số
67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp đối tượng bảo trợ xã hội,
Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 67/NĐ-CP, Chỉ thị số 01/2006/CT-TTg ngày 9/1/2006 về việc đẩy
mạnh thực hiện chính sách trợ giúp người tàn tật trong tình hình phát triển kinh tế
xã hội hiện nay… và một số các văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành. Điểm mốc
đánh dấu sự phát triển của chế độ bảo trợ xã hội nói riêng và pháp luật người
khuyết tật nói chung là sự ra đời của Luật người khuyết tật 2010. Theo đó, chế độ
bảo trợ xã hội cho người khuyết tật chủ yếu bao gồm chế độ trợ cấp, hỗ trợ cho
người khuyết tật và chế độ nuôi dưỡng người khuyết tật tại các cơ sở bảo trợ xã
hội.
4.1. Chế độ trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí chăm sóc hang tháng

6


Đây là chế độ trợ cấp cơ bản của bảo trợ xã hội cho người khuyết tật. Theo
quy định của Luật người khuyết tật, để được hưởng khoản trợ cấp và hỗ trợ đối
tượng khuyết tật phải đảm bảo điều kiện hưởng. Điều kiện để hưởng trợ cấp xã hội

và hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng với hai nhóm đối tượng có sự khác nhau.
Đối với chế độ trợ cấp xã hội hàng tháng, cần xác định không phải mọi đối tượng
khuyết tật đều được hưởng trợ cấp này mà điều kiện hưởng thực hiện theo nguyên
tắc lũy thoái từ đối tượng khuyết tật nặng nhất với nhu cầu cấp thiết nhất. Theo
Điều 44 Luật người khuyết tật 2010, để hưởng trợ cấp này đối tượng phải được xác
định
là:
+ Người khuyết tật nặng.
+ Người khuyết tật đặc biệt nặng.
Như vậy, theo Luật người khuyết tật tiêu chí xác định đối tượng hưởng trợ
cấp chỉ dừng lại ở mức độ khuyết tật mà không đề cập đến các điều kiện khác như
hoàn cảnh kinh tế, tình trạng tài sản, tình trạng thân nhân… So với pháp luật quốc
gia khác, quy định về điều kiện hưởng này tỏ ra “thoáng” hơn. Thông tư số
24/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 18/8/2010 của liên Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội và Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số
67/2007/NĐ-CP và Nghị định số 13/2010/NĐ-CP đã quy định điều kiện xác định
người tàn tật nặng không có khả năng lao động là:
- Đủ 15 tuổi trở lên.
- Bị tàn tật, giảm thiểu chức năng không thể lao động được.
- Được Hội đồng xét duyệt cấp xã công nhận hoặc bệnh viện cấp huyện trở
lên xác nhận.
Tiêu chí độ tuổi theo quy định ở đây được đặt trong tương quan chung với
Luật lao động, nhằm đảm bảo yêu cầu người khuyết tật không có khả năng lao
động khi họ trong độ tuổi lao động.
Đối với người không có khả năng tự phục vụ được xác định là:
- Người khuyết tật không có khả năng tự phục vụ sinh hoạt cá nhân.

7



- Được Hội đồng xét duyệt cấp xã hoặc bệnh viện cấp huyện trở lên xác
nhận.
Bên cạnh chế độ trợ cấp với bản thân đối tượng khuyết tật, luật cũng quy
định quyền lợi cho thân nhân, gia đình và người nhận nuôi người khuyết tật thông
quan chế độ hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng tháng (Khoản 2 Điều 44 Luật người
khuyết tật). Những đối tượng được hỗ trợ kinh phí nuôi người khuyết tật bao gồm:
- Gia đình có người khuyết tật đặc biệt nặng đang trực tiếp nuôi dưỡng,
chăm sóc người đó.
- Người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng.
- Đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng đang mang thai hoặc nuôi con
dưới 36 tháng tuổi.
Luật người khuyết tật quy định phạm vi đối tượng hưởng hỗ trợ kinh phí
nuôi dưỡng mở rộng hơn nhiều so với quy định trước đây. Việc bổ sung thêm 2
nhóm đối tượng là người nhận nuôi dưỡng chăm sóc người khuyết tật đặc biệt nặng
và người khuyết tật mang thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng thể hiện sự tiến bộ
trong xu hướng xã hội hóa thực hiện và sự đảm bảo quyền của bà mẹ trẻ em. Hơn
nữa, luật hiện hành cũng không đưa ra điều kiện về yêu cầu số lượng người khuyết
tật như trong quy định trước đây tại Nghị định 67/2007/NĐ-CP (có từ 02 người
khuyết tật nặng trở lên). Những quy định này cho thấy việc đảm bảo quyền cho
người khuyết tật nói chung và đặc biệt với những người khuyết tật nặng ngày càng
được bảo vệ hơn lên trong quy định của pháp luật về người khuyết tật ở Việt Nam.
Để được hưởng trợ cấp, hỗ trợ hàng tháng đối tượng phải đảm bảo thủ tục
với quy định về hồ sơ, trình tự xin hưởng trợ cấp, hỗ trợ. Hồ sơ của đối tượng bao
gồm: (i) Đơn đề nghị hưởng trợ cấp của đối tượng hoặc gia đình, người thân, người
giám hộ theo mẫu quy định; (ii) Sơ yếu lí lịch của đối tượng hưởng trợ cấp và (iii)
Biên bản họp hội đồng xét duyệt trợ cấp xã hội tại xã, phường, thị trấn hoặc văn
bản xác nhận của bệnh viện cấp huyện trở lên. Trường hợp có ý kiến thắc mắc,
khiếu nại, tố cáo sau khi đã niêm yết danh sách công khai cần có văn bản kết luận
của Hội đồng xét duyệt cấp xã. Hồ sơ được gửi tới ủy ban nhân dân cấp xã xét
duyệt. Trình tự thủ tục xét duyệt hưởng trợ cấp được quy định tại Điều 4 Thông tư

liên tịch số 24/2010/TTLT-BLĐTBXH-BTC. Theo đó, trong thời hạn 20 ngày kể từ
8


ngày tiếp nhận đủ hồ sơ, Hội đồng xét duyệt trợ cấp cấp xã tổ chức họp, xét duyệt
hồ sơ đối tượng (chương II Luật người khuyết tật), nếu đủ điều kiện hưởng sẽ niêm
yết công khai tại trụ sở UBND xấp xã trong vòng 7 ngày và thông báo trên phương
tiện thông tin đại chúng. Hết thời gian niêm yết nếu không có ý kiến thắc mắc,
khiếu nại thì Hội đồng hoàn thiện hồ sơ và trình Chủ tịch UBND cấp xã có văn bản
gửi Phòng lao động – thương binh xã hội xem xét giải quyết. Trường hợp có khiếu
nại, tố cáo của công dân thì trong thời hạn 10 ngày Hội đồng xét duyệt phải tiến
hành xác minh và đưa ra kết luận công khai. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày
nhận được hồ sơ đề nghị của cấp xã, Phòng lao động thương binh xã hội có trách
nhiệm thẩm định trình Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện ra quyết định cho từng
đối tượng. Có thể thấy, quy định về thủ tục hưởng trợ cấp của người khuyết tật khá
chặt chẽ.
Về chế độ hưởng, mức trợ cấp hàng tháng và hỗ trợ kinh phí chăm sóc hàng
tháng được Chính phủ quy định cụ thể. Mức trợ cấp này được xác định và điều
chỉnh trong tương quan mối quan hệ chung với mức trợ cấp của các đối tượng
chính sách khác, phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước và điều kiện thực tế.
Việc đáp ứng nhu cầu trợ giúp cho người khuyết tật nói riêng và các đối tượng xã
hội khác nói chung phải được tính toán cân đối với khả năng đáp ứng và điều kiện
kinh tế - xã hội từng giai đoạn cụ thể của đất nước, nếu không sẽ ảnh hưởng đến
các chính sách kinh tế, phát triển khác.
Do mục đích của trợ cấp bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật là nhằm hỗ
trợ, giúp đỡ ở mức độ cần thiết đảm bảo các nhu cầu sinh sống cơ bản của người
khuyết tật nên mức trợ cấp được xác định trên cơ sở của chi phí sinh hoạt tối thiểu
(không phải tiền lương tối thiểu hay mức sống tối thiểu). Mức trợ cấp hiện hành
được thiết kế bằng việc quy định mức chuẩn (hệ số 1) và xác định các mức trợ cấp
xã hội hàng tháng thấp nhất tương ứng với mức độ suy giảm sức khỏe, có tính đến

yếu tố hoàn cảnh gia đình. Để đảm bảo công bằng cho đối tượng hưởng, trường
hợp người khuyết tật thuộc diện hưởng các mức khác nhau thì được ưu tiên hưởng
mức cao nhất. Khoản 3 Điều 44 Luật người khuyết tật quy định đối với người
khuyết tật là trẻ em, người cao tuổi được hưởng mức cao hơn đối tượng có cùng
mức độ khuyết tật. Trường hợp đối tượng không đảm bảo được cuộc sống ở cộng
đồng sẽ được xem xét tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ xã hội để nuôi dưỡng. Những
đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng khi chết được hỗ trợ chi phí mai tang.
9


Mức chuẩn xác định mức trợ cấp xã hội và hỗ trợ hàng tháng được điều
chỉnh khi mức sống tối thiểu của dân cư thay đổi. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của
địa phương, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
quy định mức trợ cấp xã hội, hỗ trợ kinh phí nuôi dưỡng, mai táng phí cho phù hợp
nhưng không thấp hơn mức thấp nhất do Chính phủ quy định. Trên cơ sở đó mức
trợ cấp của người khuyết tật sống ở địa phương được xác định theo quy định của
địa phương và đương nhiên cũng sẽ có sự khác nhau nhất định giữa các địa
phương. Bên cạnh khoản trợ cấp, hỗ trợ từ nguồn tài chính công, Nhà nước cũng
chú trọng tới việc phát huy tối đa khả năng của bản thân đối tượng, gia đình và
cộng đồng trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người khuyết
tật.
4.2. Chế độ nuôi dưỡng người khuyết tật trong cơ sở bảo trợ xã hội
Nuôi dưỡng người khuyết tật tại các cơ sở bảo trợ xã hội của Nhà nước là
một chế độ nhân đạo và đặc biệt có ý nghĩa đối với đối tượng người khuyết tật.
Theo Điều 45 Luật người khuyết tật, đối tượng người khuyết tật được tiếp nhận
vào cơ sở bảo trợ xã hội chỉ được giới hạn là những đối tượng khuyết tật đặc biệt
nặng, không có nơi nương tựa, không tự lo được cuộc sống tại cộng đồng. Thực tế
cho thấy, hoàn cảnh sống của những đối tượng này vô cùng khó khăn, không có sự
chăm sóc, hỗ trợ thường xuyên hàng ngày, tính mạng họ có thể bị đe dọa.
Để được tiếp nhận đối tượng người khuyết tật vào cơ sở bảo trợ xã hội thì

đối tượng, gia đình hoặc người giám hộ phải hoàn thiện hồ sơ xin tiếp nhận vào cơ
sở bảo trợ. Hồ sơ bao gồm đơn xin tiếp nhận vào cơ sở bảo trợ, sơ yếu lí lịch của
đối tượng, biên bản họp xét duyệt cấp xã, giấy xác nhận khuyết tật và các giấy tờ
liên quan. Hồ sơ được gửi tới ủy ban nhân dân cấp xã, trong thời hạn nhất định, hội
đồng xét duyệt cấp xã tổ chức họp, xét duyệt đối tượng và thông báo kết quả công
khai, nếu không có thắc mắc khiếu nại sẽ hoàn thiện hồ sơ gửi lên phòng lao động
– thương binh và xã hội xem xét giải quyết, chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện là
người có thẩm quyền ra quyết định đối với việc tiếp nhận đối tượng vào nuôi
dưỡng tại cơ sở bảo trợ. Khi được tiếp nhận, cơ sở bảo trợ có trách nhiệm lập và
quản lí hồ sơ đối tượng.

10


Theo Khoản 2 Điều 45 Luật người khuyết tật, chế độ bảo trợ xã hội đối với
đối tượng người khuyết tật sống tại các cơ sở bảo trợ được đảm bảo bằng nhà nước
thông qua kinh phí nuôi dưỡng người khuyết tật, bao gồm:
- Trợ cấp nuôi dưỡng hàng tháng.
- Chi phí mua sắm tư trang, vật dụng sinh hoạt hàng ngày.
- Chi phí mua thẻ bảo hiểm y tế.
- Chi phí mua thuốc chữa bệnh thông thường.
- Chi phí mua dụng cụ, phương tiện hỗ trợ phục hồi chức năng.
- Chi phí mai táng khi đối tượng chết.
- Chi phí cho vệ sinh cá nhân hàng tháng đối với người khuyết tật là nữ.
Mức trợ cấp nuôi dưỡng người khuyết tật đặc biệt nặng trong cơ sở bảo trợ
xã hội cũng được quy định trên cơ sở hệ số mức trợ cấp chuẩn do Chính phủ quy
định trong từng giai đoạn cụ thể. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa phương, chủ
tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quy định mức mua sắm
tư trang, vật dụng phục vụ sinh hoạt đời sống hàng ngày, mua thuốc chữa bệnh
thông thường và vệ sinh hàng tháng đối với phụ nữ. Mức hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm

y tế được thực hiện theo quy định của Luật bảo hiểm y tế. Theo đó, đối tượng này
được Nhà nước đảm bảo 100% kinh phí mua thẻ bảo hiểm y tế từ ngân sách nhà
nước.
Nhìn chung, chế độ nuôi dưỡng đối với người khuyết tật trong cơ sở bảo trợ
tương đối toàn diện với việc đảm bảo các nhu cầu sinh sống tối thiểu, đặc biệt Luật
cũng quy định cụ thể về lợi ích chăm sóc y tế và khám chữa bệnh cho đối tượng
người khuyết tật. Với những đối tượng khuyết tật nặng, đây là một quyền lợi thiết
thực và đặc biệt có ý nghĩa đối với cuộc sống của họ. Bằng hoạt động xã hội hóa
thực hiện, nhà nước khuyến khích thành lập các cơ sở bảo trợ xã hội khác với
những hỗ trợ, ưu đãi nhất định. Hiện nay song song với hệ thống cơ sở bảo trợ xã
hội của nhà nước, hệ thống các cơ sở bảo trợ xã hội của các tổ chức, cá nhân với
mục đích nhân đạo đóng góp vai trò quan trọng trong việc đảm bảo đời sống những
người khuyết tật không thể tự lo liệu được cuộc sống.
11


4.3. Cơ sở chăm sóc người khuyết tật
Cơ sở chăm sóc người khuyết tật là cơ sở nuôi dưỡng, cung cấp dịch vụ tư
vấn, trợ giúp người khuyết tật. Với nội dung hoạt động của mình, các cơ sở chăm
sóc người khuyết tật không chỉ dừng lại ở hoạt động nuôi dưỡng mà chú trọng tới
việc chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng và hòa nhập cộng đồng. Các cơ sở
này đang chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động hòa nhập cộng đồng trên quan
điểm tiến bộ về người khuyết tật. Theo Khoản 2 Điều 47 Luật người khuyết tật, cơ
sở chăm sóc người khuyết tật bao gồm:
- Cơ sở bảo trợ xã hội.
- Cơ sở dịch vụ hỗ trợ người khuyết tật.
- Trung tâm hỗ trợ người khuyết tật sống độc lập.
- Cơ sở chăm sóc người khuyết tật khác.
Đối với những cơ sở chăm sóc người khuyết tật công lập, Nhà nước đảm bảo
đầu tư cơ sở vật chất và đảm bảo kinh phí hoạt động. Đối với các cơ sở khác ngoài

công lập Nhà nước chỉ hỗ trợ với những giới hạn nhất định bằng những ưu tiên, ưu
đãi trong hoạt động. Điều kiện thành lập, hoạt động, giải thể cơ sở chăm sóc người
khuyết tật được quy định cụ thể đối với từng loại cơ sở.
Đối với cơ sở bảo trợ xã hội, pháp luật quy định cụ thể nhiệm vụ, kinh phí
hoạt động, quản lí tài chính chế độ báo cáo đối với các cơ sở bảo trợ xã hội. Điều
kiện, thủ tục thành lập, tổ chức hoạt động và giải thể của cơ sở bảo trợ xã hội được
quy định trong Nghị định 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008. Sau khi hoàn thiện hồ
sơ xin thành lập, đơn vị gửi tới cơ quan thẩm định có thẩm quyền thực hiện nghiệp
vụ thẩm định dự án. Thẩm quyền thành lập cơ sở bảo trợ xã hội được quy định: (i)
Bộ trưởng các bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có quyền quyết định thành lập và
hoạt động đối với cơ sở thuộc quyền quản lí; (ii) Chủ tịch UBND Tỉnh, Thành phố
trực thuộc trung ương quyết định hoặc phân cấp quyết định thành lập cơ sở bảo trợ
xã hội hoạt động trên địa bàn phạm vi cấp tỉnh, thành phố và các cơ sở công lập
hoạt động trên phạm vi cấp huyện và (iii) Chủ tịch UBND cấp huyện quyết định
thành lập cơ sở bảo trợ xã hội ngoài công lập trên phạm vi cấp huyện.

12


Đối với các cơ sở dịch vụ hỗ trợ người khuyết tật, trung tâm hỗ trợ người
khuyết tật sống độc lập và các cơ sở chăm sóc người khuyết tật khác, điều kiện
thành lập được đề xuất với những yêu cầu về địa điểm cơ sở, điều kiện về cơ sở vật
chất chăm sóc người khuyết tật phù hợp, chứng minh nguồn tài chính, tài sản chi
cho hoạt động của cơ sở, đội ngũ nhân viên với những tiêu chuẩn cụ thể…Các cơ
sở chăm sóc người khuyết tật phải đảm bảo định mức về nhân viên tư vấn, chăm
sóc người khuyết tật trên số lượng người khuyết tật theo quy định đáp ứng được
điều kiện hành nghề. Hồ sơ đăng kí hoạt động của các cơ sở chăm sóc người
khuyết tật sau khi được hoàn thiện gửi tới cơ quan quản lí nhà nước trong lĩnh vực
lao động xã hội thẩm định. Thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng kí hoạt động
của các cơ sở thuộc về ủy ban nhân dân theo sự phân cấp cụ thể tương ứng với

thẩm quyền ra quyết định thành lập cơ sở bảo trợ xã hội. Luật cũng quy định các
trường hợp tạm đình chỉ, thu hồi giấy chứng nhận đăng kí hoạt động, giải thể các
cơ sở chăm sóc người khuyết tật trong các trường hợp vi phạm pháp luật, không đủ
điều kiện hoạt động…
Điều 48 Luật người khuyết tật quy định các cơ sở phải tuân thủ điều kiện
hoạt động, thực hiện đầy đủ các quy chuẩn về nuôi dưỡng, cung cấp dịch vụ tư
vấn, trợ giúp người khuyết tật tương ứng với từng loại cơ sở. Các cơ sở cũng phải
thực hiện cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất để đảm bảo tiếp cận với đối tượng người
khuyết tật.
Từ góc độ của bảo trợ xã hội, những quy định về cơ sở chăm sóc người
khuyết tật là cơ sở pháp lí quan trọng cho việc đảm bảo thực hiện quyền của người
khuyết tật. Bên cạnh các cơ sở công lập được đảm bảo hoạt động từ kinh phí của
nhà nước, pháp luật cho phép và khuyến khích thiết lập các cơ sở bảo trợ xã hội
ngoài công lập với những điều kiện nhất định hướng tới việc đảm bảo và nâng cao
hơn chất lượng cuộc sống, khắc phục những rào cản ý thức, tâm lý cho người
khuyết tật, giúp họ nhanh chóng hòa nhập cộng đồng.
III. Liên hệ thực tiễn thực hiện chế độ bảo trợ xã hội đối với người
khuyết tật:
Chính sách bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật là một trong những chính
sách xã hội thể hiện tính ưu việt của chế độ ta, là một trong những nội dung cơ bản
trong hệ thống an sinh xã hội hiện nay của nước ta. Thực hiện quan điểm, chủ
13


trương, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước về công tác bảo trợ xã hội,
trong những năm qua cùng với việc tham mưu tổ chức triển khai thực hiện đồng
bộ, có hiệu quả các chính sách trên lĩnh vực Người có công, lĩnh vực lao động thì ở
lĩnh vực xã hội, chính sách bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật cũng được tổ
chức thực hiện kịp thời, đồng bộ, đạt được những kết quả quan trọng, đời sống của
đối tượng và gia đình được cải thiện hơn trước, tạo được niềm vui, niềm tin và chỗ

dựa vững chắc cho đối tượng bảo trợ xã hội, từ đó khẳng định tính đúng đắn về chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Theo thống kê, Việt Nam hiện có trên 5,3 triệu người khuyết tật, chiếm
6,34% dân số. Người khuyết tật ở độ tuổi lao động từ 16-55 đối với nữ và từ 16-60
đối với nam, chiếm trên 69%. Một thực tế là hơn 80% người khuyết tật sống ở
nông thôn với các điều kiện về cơ sở hạ tầng, điều kiện sống, phương tiện sinh hoạt
chuyên dung còn nhiều thiếu thốn, do vậy họ gặp nhiều trở ngại về đi lại và giao
tiếp với cộng đồng, xã hội. Trình độ học vấn của người tàn tật cũng rất thấp, gần
36% không biết chữ, chỉ có 20,7% có trình độ tiểu học và 24,5% trung học cơ sở.
Đại bộ phận người khuyết tật không thể sống tự lập, khoảng 70% phải sống dựa
vào gia đình.
Cả nước có 58,18% số người tàn tật có việc làm, tự nuôi sống mình và tham
gia đóng góp cho xã hội bằng những công việc khác nhau. Tỷ lệ người tàn tật chưa
có việc làm là 30,43%. Vùng đồng bằng sông Hồng và Ðông Nam Bộ có số người
tàn tật chưa có việc làm chiếm tỷ lệ cao, tương ứng là 41,86% và 35,77%.
Có thể nói, người khuyết tật gặp khá nhiều khó khăn trong đời sống, sinh
hoạt, cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước cũng như của cộng đồng. Theo báo cáo
của Bộ lao động – Thương binh và Xã hội đến năm 2008, các địa phương đã thực
hiện trợ cấp xã hội hàng tháng cho 395.962 người khuyết tật nghèo và 8.599 hộ có
từ hai người khuyết tật trở lên, nuôi dưỡng tập trung 9.798 người khuyết tật trong
300 cơ sở bảo trợ xã hội. So với năm 1998, số người khuyết tật được hưởng các
chính sách giúp xã hội tăng gấp 4 lần. Các chế độ trợ giúp cũng đã được điều chỉnh
tăng từ 45.000 đồng/tháng năm 2000 lên 65.000 đồng/ tháng năm 2004 và 120.000
đồng năm 2007. Bên cạnh đó, số lượng các cơ sở bảo trợ xã hội tăng nhanh. Tính
đến tháng 12/2008, cả nước có khoảng 571 cơ sở bảo trợ xã hội.

14


Tuy nhà nước đã thực hiện tốt công tác, chế độ nuôi dưỡng người khuyết tật

trong cơ sở bảo trợ xã hội, cơ sở chăm sóc người khuyết tật, nhưng do cơ sở hạ
tầng kinh tế- xã hội của đất nước còn nhiều khó khăn, thiếu nguồn lực bao gồm cả
nhân lực và vật lực để thực hiện ( thiếu đội ngũ y bác sĩ cộng đồng, cơ sở y tế thấp
kém, thiếu giáo viên dạy hòa nhập cung như chuyên biệt, giáo viên dạy nghề; thiếu
cán bộ xã hội ở cơ sở, phương tiện giao thông,... 1 nên có một số lượng lớn đối
tượng người khuyết tật chưa được quan tâm chăm sóc, giúp hòa nhập cộng đồng
một cách tận tình, chu đáo. Về iệc giải quyết chế độ cấp thẻ BHYT cho đối tượng
người khuyết tật, UBND các phường, xã nên thực hiện kịp thời, không để người
dân đi lại nhiều lần, gây tốn kém tiền của và công sức, ảnh hưởng tới quyền lợi của
người khuyết tật.
Công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật như Luật
người khuyết tật 2010; Nghị định số 07/2000/NĐ-CP ngày 9/3/2000 về chính sách
cứu trợ xã hội, Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ
giúp đối tượng bảo trợ xã hội, Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/NĐ-CP… cần được tăng cường.
Điều đó cần đến vai trò chủ trì điều phối của ngành Lao Động Thương binh và Xã
hội từ trung ương đến địa phương ở nhiều nơi, sự phối hợp chặt chẽ và linh hoạt
giữa các ngành cũng như sự tích cực tham gia, góp ý của các cơ quan, tổ chức đoàn
thể nhằm đảm bảo quyền lợi cho người khuyết tật khi thực hiện chế độ bảo trợ xã
hội đối với nhóm đối tượng này.
Nhìn chung, tuy có một số bất cập, hạn chế trong việc thực hiện, nhưng có
thể kết luật chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật của Nhà nước ta hiện
nay là khá tốt, có nhiều tích cực.

KẾT LUẬN
Trên đây, là một số những vấn đề lí luận cũng như thực tiễn pháp lí về chế
độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật. Từ những yêu cầu của thực tế thì các
quyền của người khuyết tật đã được thể hiện thành pháp luật và đưa ra để mọi
người cùng thực hiện. Chế độ bảo trợ xã hội có vai trò quan trọng trong việc trợ
giúp người khuyết tật được đảm bảo mọi mặt trong cuộc sống. Không chỉ giúp họ

hòa nhập cồng mà còn thể hiện sự quan tâm của nhà nước, gia đình và cộng đồng
1 />
15


tới những người khuyết tật trong mọi linh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, cần
tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chế độ bảo trợ xã hội, nhằm cải thiện hơn
nữa cuộc sống của những người khuyết tật.

16



×