Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Quan niệm của I.Kant về lý tính trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.25 KB, 79 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

MAI VĂN THƢƠNG

QUAN NIỆM CỦA I. KAN VỀ LÝ TÍNH TRONG
TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

MAI VĂN THƢƠNG

QUAN NIỆM CỦA I. KAN VỀ LÝ TÍNH TRONG
TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Văn Chung

Hà Nội - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi được thực hiện
dưới sự hướng dẫn của TS. Phạm Văn Chung.
Kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và không trùng lặp với
các đề tài khác.
Hà nội, ngày

tháng 05 năm 2015

Tác giả luận văn

Mai Văn Thƣơng


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan
tâm, giúp đỡ và động viên của quý thầy cô, gia đình và bạn bè.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thầy giáo TS. Phạm
Văn Chung về những ý kiến đóng góp và sự chỉ dẫn tận tình của thầy trong
suốt thời gian tôi thực hiện luận văn này.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các Thầy giáo, Cô giáo
trong khoa Triết học trường Đại học Khoa học xã hội và Nhận văn đã cung
cấp cho tôi những tri thức quý báu trong suốt quá trình học tập cũng như đã
tạo điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình bạn bè, những
người đã luôn bên tôi động viên, khích lệ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015

Tác giả luận văn

Mai Văn Thƣơng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ CỦA TRIẾT HỌC I. KANT
VÀ TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH ............................... 9
1.1. Những tiền đề lịch sử của triết học I. Kant............................................ 9
1.2. I. Kant - Con ngƣời và tác phẩm .......................................................... 14
1.3. Nội dung chính của tác phẩm Phê phán lý tính thực hành ................. 22
CHƢƠNG 2. NỘI DUNG CHÍNH CỦA QUAN NIỆM CỦA I. KANT VỀ
LÝ TÍNH TRONG TÁC PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH .. 28
2.1. Quan niệm của I. Kant về lý tính và về lý tính thực hành nói chung ....... 28
2.1.1. Cách đặt vấn đề của I. Kant trong nghiên cứu lý tính và thực chất của
sự phê phán lý tính thuần túy .......................................................................... 28
2.1.2. Quan niệm của I. Kant về lý tính thực hành nói chung ........................ 33
2.2. Sự khám phá quan năng của lý tính thực hành trong Phê phán lý tính
thực hành ........................................................................................................ 41
2.2.1. Tự do, ý chí và tự do ý chí như là những yếu tố cơ bản cấu thành quan
năng lý tính thực hành..................................................................................... 41
2.2.2. Đạo đức như là yếu tố quan trọng tất nhiên cấu thành quan năng của lý
tính thực hành.................................................................................................. 47
2.3. Ý nghĩa của quan niệm của I. Kant về lý tính đối với nhận thức khoa
học ................................................................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 69



MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Trong tiến trình của lịch sử triết học thế giới, triết học cổ điển Đức
đóng vai trò quan trọng không chỉ bởi nó là một trong những tiền đề tạo nên
triết học Mác mà bản thân những di sản của các triết gia từ Kant đến Hêghen
còn có những giá trị to lớn đối với thời đại của các ông và đối với thời đại
ngày nay. Trong những di sản ấy triết học của I. Kant chiếm vị trí rất quan
trọng. Kant là người sáng lập ra triết học cổ điển Đức, là nhà tư tưởng vĩ đại
mà đến ngày nay những tác phẩm của ông vẫn còn được các nhà nghiên cứu
quan tâm tìm hiểu. Cũng giống như những nhà triết học cổ điển Đức khác
Kant đặc biệt đề cao vai trò của lý tính trong quá trình nhận thức của con
người. Với tư tưởng phê phán tất cả các quan niệm trước đó về lý tính Kant
đã đi sâu vào việc giải thích cụ thể kết cấu của lý tính, các phạm trù của lý
tính, cơ chế tác động giữa các phạm trù của lý tính… Đặc biệt hơn Kant đã
nhận thức được vai trò to lớn của đạo đức đối với lý tính cũng như sự quy
định của lý tính lên đạo đức. Vai trò to lớn mà triết học của Kant đem lại cho
sự phát triển của triết học ở chỗ là đã mở ra một giai đoạn mới trong quá trình
nhận thức của nhân loại. Kant đã thực hiện một cuộc đảo lộn Côpécních khi
đưa nhận thức của triết học trở về với chính bản thân con người. Bên cạnh đó,
không ai có thể phủ nhận công lao to lớn của Kant trong nỗ lực xây dựng một
phương pháp luận mới cho nghiên cứu khoa học. Kant cố gắng đưa ra một hệ
thống khái niệm, phạm trù nhằm bao quát được những quy luật của tự nhiên
nhưng ông đã gặp phải những nghịch lý không thể giải quyết, tuy vậy, nếu
không có những cố gắng ban đầu ấy thì cũng sẽ không có những phạm trù,
khái niệm cơ bản trong phép biện chứng của triết học Mác sau này.
Trong thời đại bùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật, của thời đại

hội nhập trên phạm vi toàn cầu như hiện nay, những lối sống, phương thức tư
duy của con người dường như bị chi phối bởi, hoặc là nền chính trị, hoặc là tư
1


tưởng của đa số chứ không phải của cá nhân. Nói cách khác, đó là sự mất tự
do của con người, của lý tính con người hay tự do, lý tính đang bị xem nhẹ, có
khi cá nhân con người không có chính kiến của riêng mình, những hành động
của họ cũng chỉ giới hạn như là từ những sự tác động bề ngoài chứ không
phải do những quy tắc bên trong họ quy định. Điều này dẫn đến tình trạng
tâm lý đám đông hay như thuật ngữ của triết học phương Tây hiện đại là “con
người đại chúng” ngày càng tăng lên. Những giá trị, những chuẩn mực đạo
đức của con người cũng bị chi phối theo xu hướng đó, theo đó chân lý phụ
thuộc vào đám đông chứ không hề phụ thuộc vào bản thân của sự vật hiện
tượng. Từ đây nảy sinh nhiều vấn đề lớn như thực chất hành động đạo đức
của con người là do đâu? Có tự do trong ý chí hành động của con người hay
không? Nếu có thì nó xuất phát từ đâu? Tự do đó bị quy định bởi cái gì, hoặc,
tự do hoàn toàn không bị quy định bởi điều gì cả? Hoạt động khoa học của
các nhà nghiên cứu cần dựa vào đâu để có tính đạo đức?.... Tìm hiểu quan
niệm của Kant về lý tính trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành sẽ cho
chúng ta những gợi mở quan trọng để trả lời cho những vấn đề trên.
Ngày nay với sự phát triển bùng nổ của tri thức khoa học, con người
đang đứng trước những nghịch lý, mâu thuẫn không dễ giải quyết. Dường như
cùng với sự gia tăng kiến thức, tri thức, những phương tiện công nghệ mới
con người càng xuống cấp về đạo đức, tỏ ra mất phương hướng trong nhiều
vấn đề đời sống như sinh thái môi trường, khoảng cách quá lớn giữa giàu và
nghèo, sự phát sinh những bệnh tật hiểm nghèo, chiến tranh, sự cạn kiệt của
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguy cơ dùng chính những thành tựu của
khoa học, công nghệ chống lại loài người… Trong bối cảnh ấy lương tâm của
nhà khoa học đang bị thách thức nghiêm trọng. Vì thế, nhận thức khoa học

nói chung, tư duy, lý tính nói riêng cần phải được xem xét đến những động
lực, cội nguồn, trong đó có cả cội nguồn đạo đức của nó.

2


Ở Việt Nam trước đây việc nghiên cứu tư tưởng của Kant thông qua
các tác phẩm của ông chủ yếu là dựa trên những kết quả nghiên cứu khác
nhau. Điều đó dẫn đến nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu nội dung tư
tưởng triết học của Kant. Tuy nhiên, ngày nay đã có nhiều công trình dịch
thuật của các dịch giả uy tín trong nước về các tác phẩm của Kant khiến cho
việc nghiên cứu Kant trở nên thuận lợi hơn. Những tác phẩm của Kant được
dịch trực tiếp từ tiếng Đức sang tiếng Việt cho phép việc tìm hiểu tư tưởng
triết học của Kant được chính xác hơn.
Từ những lý do nhận thức và thực tiễn trên tôi chọn đề tài “Quan niệm
của I. Kant về lý tính trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành” để làm luận
văn thạc sĩ triết học.
2.

Tình hình nghiên cứu

Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu liên quan đến quan niệm của
Kant về đạo đức, lý tính và mối quan hệ giữa đạo đức học và lý luận nhận
thức, trong đó phải kể đến công trình “Triết học cổ điển Đức: Những vấn đề
nhận thức luận và đạo đức học”. Đây là tác phẩm của nhiều tác giả đã được in
thành “Kỷ yếu hội thảo quốc tế” kỷ niệm 200 năm ngày mất của Kant. Có rất
nhiều bài viết liên quan đến vấn đề mà đề tài nghiên cứu. Về nhận thức luận
có các công trình “Nhận thức luận và đạo đức học trong triết học cổ điển
Đức” của Trịnh Tri Thức; “Phương thức tư duy chủ thể tính của I. Cantơ về
những gợi mở của nó đối với đương đại” của Âu Dương Khang; “Thực chất

“cái siêu việt” của lý tính trong lý luận nhận thức của I. Cantơ và tư tưởng của
ông về một nền triết học khoa học” của Phạm Văn Chung; “Tư tưởng của I.
Cantơ về sự thống nhất của lý luận nhận thức, đạo đức trong nhân học” của
Nguyễn Vũ Hảo; “Immanuen Kant và nhận thức luận hiện đại” của Đỗ Văn
Khang; “Lý luận nhận thức của I. Cantơ thời kỳ “phê phán” - giá trị và hạn
chế” của Trần Văn Phòng; “Nhận thức luận của Cantơ - Nhìn từ triết lý Đông
phương” của Lê Công Sự; “Quan niệm của Cantơ về bản chất và giới hạn của
3


nhận thức” của Dương Văn Thịnh; “Quan niệm của Cantơ về bản chất của
nhận thức và ý nghĩa của nó” của Vũ Văn Viên.
Về đạo đức học có các công trình như “Đạo đức học của Cantơ và ý
nghĩa hiện thời của nó” của Nguyễn Trọng Chuẩn; “Triết học đạo đức của
Cantơ và ảnh hưởng của nó đối với nền triết học phương Tây” của Ngô Thị
Mỹ Dung; “Tìm hiểu một số quan niệm đạo đức của I. Cantơ (Qua so sánh
với quan niệm đạo đức của Mạnh Tử)” của Đỗ Thị Hòa Hới; “Quan hệ giữa
cá thể và cộng đồng trong học thuyết đạo đức học của Cantơ” của Trịnh Duy
Huy; “Thế giới đạo đức trong triết học thực tiễn của Cantơ” của Nguyễn Kim
Lai; “Quan niệm của I. Cantơ về mối quan hệ giữa ý chí tự do và ý chí phục
tùng các quy tắc đạo đức” của Nguyễn Thế Nghĩa; “Quan hệ giữa đạo đức với
các lĩnh vực đời sống xã hội khác trong quan niệm đạo đức học của Cantơ”
của Nguyễn Văn Sanh; “Một số khía cạnh đạo đức trong triết học Cantơ” của
Lê Thị Thủy; “I. Cantơ và phạm trù nghĩa vụ đạo đức” của Võ Minh Tuấn.
Liên quan đến các chủ đề trên còn có công trình luận văn thạc sĩ triết
học đã công bố của Vũ Thị Thu Lan về “Mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo đức
học của I. Kant”, công trình luận văn tiến sĩ triết học của Vũ Thị Hải về “Một
số quan điểm đạo đức cơ bản của Arixtốt và I. Kant”. Trong các công trình
nghiên cứu trên đáng chú ý là công trình của Nguyễn Kim Lai về “Thế giới
đạo đức trong triết học thực tiễn của Cantơ”; công trình của Nguyễn Vũ Hảo

về “Tư tưởng của I. Cantơ về sự thống nhất của lý luận nhận thức, đạo đức
trong nhân học”; công trình của Nguyễn Thế Nghĩa về “Quan niệm của I.
Cantơ về mối quan hệ giữa ý chí tự do và ý chí phục tùng các quy tắc đạo
đức”; công trình của Trịnh Tri Thức về “Nhận thức luận và đạo đức học trong
triết học cổ điển đức”.
Trong luận văn có phần giới thiệu về tiền đề lịch sử ra đời triết học
Kant cũng như tiểu sử của ông. Về điểm này luận văn chủ yếu khai thác các
tài liệu như “101 triết gia” của Mai Sơn xuất bản năm 2007 do NXB Tri thức
4


và công ty văn hóa Phương Nam liên kết ấn hành; “Câu chuyện triết học” của
Will Durant do Trí Hải và Bửu Đích dịch được NXB Văn hóa thông tin ấn
hành năm 2008; Phần cuối trong tập 2 của “Phê phán lý tính thuần túy” của
Immanuen Kant do Bùi Văn Năm Sơn dịch và chú giải xuất bản năm 2014;
“Lịch sử triết học” do Nguyễn Hữu Vui chủ biên xuất bản năm 2008. Nói
chung ở đây chúng tôi không có những hiểu biết mới, riêng về cuộc đời, sự
nghiệp của Kant cũng như tiền đề cho sự ra đời tác phẩm Phê phán lý tính
thực hành. Điều này là hiển nhiên, vì những dữ kiện về Kant nói chung là cố
định và chắc chắn.
Các công nói trình trên có ưu điểm là đã phân tích và chỉ ra được như
thế nào là lý tính, đạo đức và những đặc điểm của chúng trong quan niệm của
Kant. Một số công trình đã đi sâu vào tìm hiểu cấu trúc và các khái niệm đặc
thù của lý tính trong triết học của Kant như “Thực chất “cái siêu việt” của lý
tính trong lý luận nhận thức của I. Cantơ và tư tưởng của ông về một nền triết
học khoa học” của Phạm Văn Chung. Một số công trình đã phần nào chỉ ra
được mối liên hệ giữa lý tính và đạo đức trong triết học Kant như “Nhận thức
luận và đạo đức học trong triết học cổ điển Đức” của Trịnh Tri Thức; “Thế
giới đạo đức trong triết học thực tiễn của Cantơ” của Nguyễn Kim Lai; “Tư
tưởng của I. Cantơ về sự thống nhất của lý luận nhận thức, đạo đức trong

nhân học” của Nguyễn Vũ Hảo; “Quan niệm của I. Cantơ về mối quan hệ
giữa ý chí tự do và ý chí phục tùng các quy tắc đạo đức” của Nguyễn Thế
Nghĩa. Tuy nhiên, các công trình đều chỉ chú ý khảo sát quan niệm của Kant
thông qua nhiều tác phẩm của ông nên chủ yếu mang tính khái quát chung
chứ chưa có tính chuyên sâu về một tác phẩm. Các công trình nghiên cứu
cũng chưa thể hiện được mối quan hệ sâu sắc giữa lý tính và đạo đức, nhất là
vấn đề trong mối quan hệ giữa lý tính và đạo đức, đạo đức có vai trò gì đối
với lý tính và ngược lại, cơ chế tác động của lý tính và đạo đức như thế nào,
nhìn chung chưa được giải đáp sâu sắc.
5


Các công trình nghiên cứu có đề cập đến tác phẩm Phê phán lý tính
thực hành như “Mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo đức học của I. Kant” của Vũ
Thị Thu Lan, “Một số quan điểm đạo đức cơ bản của Arixtốt và I. Kant” của
Vũ Thị Hải… thường chỉ chú trọng đến khía cạnh đạo đức học mà quên rằng
tác phẩm này là một trong bộ ba tác phẩm phê phán rất quan trọng của Kant
về lý tính.
Đồng thời, một vấn đề không kém phần quan trọng cần phải nói đến ở
đây là người ta có xu hướng nghiên cứu tác phẩm Phê phán lý tính thực hành
bằng cách đồng nhất nó, xem nó như một tác phẩm đạo đức học của Kant.
Ngay cả tên tác phẩm sau khi dịch và xuất bản đã được chú thích thêm ở dưới
là “Đạo đức học”. Điều đó dẫn đến tình trạng nghiên cứu tác phẩm này thiên
về đạo đức học như đã nói. Nhưng trên thực tế, đây là một trong bộ ba tác
phẩm quan trọng được Kant bàn sâu sắc về lý tính đặc biệt là “khám phá quan
năng lý tính”. Đối với Kant nghiên cứu lý tính chỉ có thể hiểu đúng, hiểu sâu
về lý tính khi đi sâu khám phá các quan năng của nó. Do đó, với tinh thần
trung thực trong nghiên cứu khoa học chúng tôi thừa nhận rằng luận văn này
có ý tưởng từ bài viết “Thực chất “cái siêu việt” của lý tính trong lý luận nhận
thức của I. Cantơ và tư tưởng của ông về một nền triết học khoa học” của tác

giả Phạm Văn Chung. Trước hết bài viết đã cho thấy tiền đề nảy sinh triết học
Kant là do Kant đã xem xét lại nền siêu hình học cũ với tinh thần phê phán.
Chính từ đó ông nhận thấy thực chất cái siêu việt của lý tính chính là năng lực
tổng hợp chứ không phải khả năng phân tích. Bài viết cho thấy việc khám phá
ra năng lực tổng hợp của lý tính thuần túy đã đồng thời đưa Kant tới chỗ
khẳng định tổng hợp là năng lực của bản thân lý tính thuần túy. Do đó, phê
phán bản thân lý tính với đầy đủ các quan năng của nó trở thành đối tượng
của siêu hình học và từ đây nảy sinh ra vấn đề cấp bách là phải xây dựng triết
học như là một khoa học. Chính nhờ những gợi mở quan trọng từ bài viết trên
đây mà những ý tưởng chính của luận văn đã được xây dựng. Vì vậy, thiết
6


nghĩ rằng việc nghiên cứu Phê phán lý tính thực hành về phương diện đạo
đức học vốn là điều rất hiển nhiên, nhưng nghiên cứu quan niệm của Kant
về lý tính bao hàm trong đó những vấn đề đạo đức học cũng là điều cần
phải làm.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn: Làm rõ hơn quan niệm của I. Kant về lý tính
trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành, từ đó chỉ ra ý nghĩa của nó đối với
nhận thức khoa học.
Nhiệm vụ của luận văn: Thứ nhất, tìm hiểu những nét cơ bản về hoàn
cảnh lịch sử cuộc đời và sự nghiệp của Kant cũng như về tác phẩm Phê phán
lý tính thực hành; thứ hai, chỉ ra nội dung cơ bản trong quan niệm của Kant
về lý tính trong Phê phán lý tính thực hành và ý nghĩa của nó đối với nhận
thức khoa học.
4.


Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp logich - lịch sử, phương pháp phân
tích, so sánh và tổng hợp, đồng thời kết hợp với các phương pháp, quan
điểm, nguyên tắc như lịch sử - cụ thể, nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn.
5.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng của luận văn: Quan niệm của Kant về lý tính trong tác phẩm
Phê phán lý tính thực hành.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Trong tác phẩm Phê phán lý tính
thực hành I. Kant đề cập đến rất nhiều vấn đề như đạo đức, tôn giáo, khoa
học, triết học… luận văn tập trung nghiên cứu quan niệm của I. Kant về lý
tính, cụ thể là việc Kant đào sâu vào quan năng lý tính thực hành.
6.

Đóng góp của luận văn

Luận văn góp thêm một cái nhìn, một cách hiểu về nội dung quan niệm
của Kant về lý tính trong tác phẩm Phê phán lý tính thực hành.
7


7.

Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn


Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong luận văn góp phần làm sáng
rõ hơn quan niệm của Kant về lý tính trong tác phẩm Phê phán lý tính thực
hành của ông, do đó góp phần làm phong phú hơn những hiểu biết về tư
tưởng của Kant
Quan trọng hơn cả là ý nghĩa của luận văn đối với công tác nghiên cứu
khoa học hiện nay. Các nhà khoa học cần đề cao vai trò của đạo đức, tự do
trong những hoạt động sáng tạo khoa học của mình. Một công trình khoa học
xuất sắc không chỉ thể hiện tính sâu sắc của lý tính mà phải thể hiện ra như là
sự kết tinh những quy tắc đạo đức nhất định và ý chí tự do.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các sinh viên, các học viên
có hướng nghiên cứu liên quan.
8.

Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm có phần mở đầu, phần nội dung chính (gồm có hai
chương, mỗi chương 3 tiết), phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.

8


CHƢƠNG 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ LỊCH SỬ CỦA TRIẾT HỌC I. KANT VÀ TÁC
PHẨM PHÊ PHÁN LÝ TÍNH THỰC HÀNH
1.1. Những tiền đề lịch sử của triết học I. Kant
Triết học cũng như bất kỳ các khoa học cụ thể khác đều phải xuất phát
từ mảnh đất hiện thực, lấy hiện thực của cuộc sống con người và xã hội làm
cơ sở cho sự nghiên cứu của mình. Một giá trị khoa học đích thực phải lấy
con người làm trung tâm, phải phục vụ cho con người. Trong lịch sử phát
triển của triết học những học thuyết triết học nào biết hóa thân vào thực tiễn

xã hội, biến nhận thức thành hành động làm thay đổi tư duy con người thường
là những học thuyết tích cực và ưu việt. Như vậy, triết học sản sinh ra từ hiện
thực xã hội nên muốn hiểu về tư tưởng của một triết gia hay một trường phái
triết học thì nhất thiết phải tìm hiểu hiện thực xã hội mà từ đó học thuyết triết
học ấy xuất hiện. Đây thậm chí còn là điểm quan trọng bậc nhất khi bắt tay
vào nghiên cứu tư tưởng của một triết gia cụ thể, và việc tìm hiểu những điều
kiện và tiền đề cho sự ra đời triết học Kant cũng không phải là ngoại lệ.
I. Kant sinh năm 1724, mất năm 1804 trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản
sau khi xuất hiện đã được thiết lập một cách chắc chắn ở những nước Tây Âu.
Nước Đức với sự chìm đắm quá lâu ở chế độ phong kiến với tính chất tự cấp
tự túc đã không thể đáp ứng nổi với những nhu cầu ngày càng gia tăng của
con người. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản thật sự đã phá vỡ
những kìm kẹp bấy lâu của những con người cá nhân. Sự sáng tạo, phát triển
vượt bậc trong lưu thông hàng hóa cộng với sức sản xuất lần đầu tiên có sự
giúp đỡ của máy móc đã đem lại một nền sản xuất phát triển chưa từng có
trong lịch sử loài người. Toàn bộ số lượng sản phẩm mà con người làm ra từ
trước tới nay cũng chỉ bằng sức sản xuất trong giai đoạn này. Chế độ tư bản
9


chủ nghĩa đã có màn ra mắt không thể ấn tượng hơn với xã hội loài người, nó
chứng minh và khẳng định rằng nó là chế độ ưu việt hơn hẳn so với toàn bộ
các chế độ xã hội trước đó mà con người từng trải qua (ít nhất là trên phương
diện kinh tế). Cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh và cách mạng tư sản Pháp
cùng với những thành tựu văn hóa kinh tế ở thời kỳ này đã chứng minh cho
khả năng và sức mạnh của con người là vô cùng to lớn. Con người cá nhân ra
đời và một thời đại mới cũng ra đời, thời đại của nền văn minh công nghiệp
đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
Trong khi chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện và được thiết lập ở các nước
Tây Âu như Anh, Pháp, Ý… và làm thay đổi hầu như toàn bộ đời sống vật

chất, văn hóa, tinh thần của các nước này thì nước Đức đến đầu thế kỷ XIX
vẫn là một quốc gia lạc hậu về kinh tế. Tới thời điểm này, nước Đức vẫn là
một quốc gia phong kiến. Chính quyền của vua Phridrich Vinhem là thể chế
quân chủ vì vậy mà bộ máy này ra sức níu giữ quyền lực của mình bằng
những luật lệ hà khắc. Chính quyền Phổ lúc bấy giờ dùng mọi biện pháp để
ngăn cấm đất nước chuyển mình sang chế độ tư bản. Việc cố gắng duy trì thể
chế quân chủ phong kiến thối nát của chính quyền vua Vinhem đã gây ra hệ
quả nghiêm trọng cho sự phát triển của nước Đức so với các nước Châu Âu
thời bấy giờ. Công nghiệp Đức đình trệ, kinh tế chậm phát triển, nông nghiệp
sa sút. Sự thối nát và bảo thủ của kiến trúc thượng tầng nước Đức bấy giờ gây
nên một sự phẫn nộ vô cùng to lớn cho toàn thể nhân dân Đức. Sự mâu thuẫn
bị dồn nén của những người lao động Đức với chính quyền quân chủ Phổ báo
hiệu một sự thay đổi to lớn sắp sửa diễn ra.
Đứng chân trên một hiện thực xã hội như nước Đức lúc bấy giờ, thật
khó có thể tin rằng nền văn hóa nghệ thuật và tư tưởng của nước Đức lại vô
cùng phát triển. Mặc dù nền kinh tế bị lạc hậu, nền chính trị bảo thủ và thối
nát nhưng nước Đức thời kỳ này đã đạt được những sự phát triển chưa từng
thấy về triết học, văn học, nghệ thuật. Nước Đức đã sản sinh ra các nhà tư
10


tưởng nổi tiếng như Hécđơ, Gớt, Sinlơ, Kant... Đây không chỉ là các nhà triết
học nổi tiếng mà còn là các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng. Sinh ra trong giai đoạn
mà bối cảnh nước Đức đang đi đến sự khủng hoảng tột độ, các nhà tư tưởng
thời kỳ này đem lại cho những tác phẩm triết học, văn học của mình một khát
khao của tầng lớp tư sản muốn vươn lên khỏi sự kìm kẹp của của hệ thống
chính trị quân chủ và nền kinh tế phong kiến lạc hậu. Thêm vào đó, những
nhà tư tưởng thời kỳ này cũng tiếp thu và phát triển những học thuyết, tư
tưởng của nền văn hóa truyền thống.
Tư tưởng mọc trên mảnh đất hiện thực, phản ánh hiện thực xã hội. Hiện

thực xã hội là cái gốc của mọi nền văn hóa. Tuy vậy, điều đó không có nghĩa
là tư tưởng lúc nào cũng đi sau thực tiễn xã hội, ngược lại, tư tưởng nhiều khi
phải đi trước thực tiễn xã hội để làm vai trò người dẫn đường cho những bước
phát triển tiếp theo của xã hội. Nếu không có sự đi trước của tư tưởng thì thực
tiễn xã hội phải tự tìm đường đi cho mình. Một thực tiễn mò mẫm như vậy ắt
sẽ không thể đưa đến sự phát triển nhanh chóng được. Vì vậy tư tưởng tuy
xuất phát từ mảnh đất hiện thực nhưng cần phải vượt lên trên và đi trước hiện
thực. Điều đó lý giải một phần tại sao nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đầu
thế kỷ XIX với những sự khủng hoảng của nền kinh tế và chính trị nhưng lại
chứng kiến một thời kỳ nở rộ chưa từng thấy về tư tưởng. Các nhà tư tưởng
của nước Đức bấy giờ nói chung đều thể hiện một tinh thần phẫn nộ chống lại
sự trì trệ và thối nát của xã hội. Tư tưởng của họ là ý chí và nguyện vọng của
tầng lớp tư sản. Những tư tưởng khai sáng Pháp và cuộc cách mạng tư sản
Pháp (1789 – 1794) tác động mạnh mẽ đến các tầng lớp nhân dân Đức thức
tỉnh họ đấu tranh vì một trật tự xã hội mới tốt đẹp hơn.
Khoa học tự nhiên là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến tư
tưởng triết học của các triết gia Đức trong giai đoạn bấy giờ. Những tiến bộ
vượt bậc của các ngành khoa học kỹ thuật, đặc biệt là khoa học tự nhiên đã
đánh đổ những thành trì của phương pháp tư duy siêu hình thế kỷ XV –
11


XVIII. Sự thống trị của phương pháp tư duy siêu hình trong tư tưởng của các
triết gia Tây Âu trong suốt nhiều thế kỷ đã không thể đứng vững được nữa.
Các phát minh khoa học như sự bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, học
thuyết tế bào… đã đòi hỏi một phương pháp tư duy biện chứng đối lập lại với
tư duy siêu hình trước đây. Bên cạnh đó, sự phát minh ra điện và cách sử
dụng điện là bước nhảy vọt trong lịch sử văn minh loài người. Các ngành
công nghiệp đã không chỉ dừng lại ở việc sản xuất với sự giúp đỡ của máy hơi
nước nữa mà giờ đây còn có các máy móc chạy bằng điện năng. Điều đó làm

thay đổi căn bản nền sản xuất, chuyển từ sản xuất công trường thủ công tiến
tới công nghiệp cơ khí mà sau nay sẽ là nền đại công nghiệp. Sức sản xuất vì
vậy mà càng được tăng lên một cách nhanh chóng. Sự phát hiện ra điện năng
cũng chính là những yếu tố khoa học đầu tiên chứng thực về thuyết bảo toàn
và biến hóa năng lượng và vật chất của vũ trụ. Các khoa học cụ thể như sinh
vật học, hóa học cũng có những phát minh mới làm lung lay đến tận gốc rễ
phương pháp tư duy siêu hình trước đây. Tất cả những yếu tố ấy đòi hỏi con
người phải có những phương pháp tư duy mới để có thể lý giải và nắm bắt
được bản chất thực sự của sự sống.
Sự phát triển của khoa học tự nhiên thực sự đã có vai trò to lớn đối với
tư duy triết học. Những thành tựu của khoa học tự nhiên đã chứng minh rằng
những hiểu biết của con người về thế giới trong những giai đoạn trước đây là
không đầy đủ, thậm chí còn là sai lầm. Con người đang sống trong một thế
giới với đầy đủ những sự phức tạp và tinh vi của nó, những hiện tượng, những
sự vật tưởng như đơn độc lại có mối quan hệ với nhau, thế giới tưởng như là
đã được định đoạt lại hóa ra vẫn nằm trong quá trình phát triển vô tận…. Vì
vậy mà phương pháp tư duy siêu hình của thế kỷ trước của triết học đem đến
cho nhận thức khoa học để chỉ đường cho khoa học là phiến diện và lạc hậu.
Đương nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận hoàn toàn những đóng góp
mà phương pháp tư duy siêu hình đem lại. Việc nghiên cứu khoa học cụ thể
12


về một đối tượng như là những sự vật hiện tượng cụ thể yêu cầu phải tách biệt
một cách tạm thời đối tượng ấy với các đối tượng khác, như vậy chúng ta mới
tìm ra được bản chất thực sự của đối tượng đang nghiên cứu, như vậy chúng
ta mới biết được đối tượng này khác đối tượng khác ở điểm nào. Và về
phương diện này, phương pháp tư duy siêu hình lại tỏ ra khá ưu việt. Nhờ
phương pháp này mà những khoa học cụ thể đã có những sự nghiên cứu
chuyên sâu, bức tranh thế giới tuy mới chỉ là những mảnh ghép nhưng đã đạt

được sự rõ ràng nhất định. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp tư duy siêu
hình cũng như phương pháp nghiên cứu của các khoa học cụ thể chính là việc
sau khi đi sâu tìm hiểu một cách độc lập trong lĩnh vực của mình lại dừng lại
ở đây và xem đây là chân lý của khoa học, là bức tranh toàn thể của thế giới,
là chân lý và bản chất của sự sống. Muốn nhận thức rõ bản chất thực sự của
thế giới thì không thể dừng lại ở việc nghiên cứu đơn độc một lĩnh vực dù cho
vấn đề trong lĩnh vực ấy đã được làm sáng rõ. Phải có nhận thức mang tính
tổng hợp, nghĩa là xem xét sự vật hiện tượng trong những mối liên hệ phổ
biến và trong sự vận động phát triển. Điều này đòi hỏi những nhà nghiên cứu
khoa học cụ thể phải có tư duy biện chứng, phải nghiên cứu có tính chất hệ
thống. Các sự vật hiện tượng đã được làm rõ bản chất thì không dừng lại ở đó
mà phải tìm hiểu những mối liên hệ của nó, để nắm rõ sự vận động phát triển
trong những giai đoạn tiếp theo. Phương pháp tư duy siêu hình đã có những
đóng góp quan trọng trong sự phát triển của nhận thức khoa học nói riêng và
trong nhận thức của loài người nói chung. Nhưng trong giai đoạn thế kỷ
XVIII - XIX nó đã không còn phù hợp nữa. Thực tiễn xã hội và nhu cầu phát
triển của con người đòi hỏi phải thay thế phương pháp tư duy siêu hình bằng
một phương pháp tư duy mới hợp lý hơn. Phương pháp có thể đáp ứng những
yêu sách của thực tiễn bấy giờ chính là phương pháp tư duy biện chứng.
Tóm lại, bối cảnh nước Đức cuối thế kỷ XVIII sang đầu thế kỷ XIX đã
yêu cầu các nhà triết học phải giải quyết nhiều vấn đề cấp thiết. Siêu hình học
13


trong thế kỷ trước với các đại biểu như Đêcáctơ, Xpinôza, Lépnít… tuy đã có
những đóng góp to lớn trong việc phát triển tư duy lý luận và hệ thống hóa tri
thức con người trong giai đoạn trước đó nhưng giờ đây đã lạc hậu và tỏ ra
không còn đáp ứng được nhu cầu phát triển của thực tiễn và tư tưởng Tây Âu
thế kỷ XVIII. Điều này đã được khẳng định khi mà hàng loạt các khoa học đã
đủ sức phát triển và tách ra khỏi cái nôi triết học của mình để trở thành những

lĩnh vực nghiên cứu độc lập. Vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII đã xuất
hiện nhiều xu hướng xét lại siêu hình học và các giá trị tư tưởng truyền thống.
Trong khi đó triết học tây Âu Phục hưng và Cận đại, kể cả triết học Khai sáng
Pháp thế kỷ XVIII mặc dù đã từng là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản trong
thời kỳ bình minh nhưng vẫn chưa thể thoát ra khỏi quan niệm cơ học về thế
giới. Nhìn chung, siêu hình học trong giai đoạn này đã bất lực trong việc lý
giải bản chất của thực tiễn xã hội.
Thực tiễn xã hội đòi hỏi phải có cách nhìn mới về các hiện tượng tự
nhiên về tiến trình lịch sử của nhân loại. Siêu hình học giai đoạn cổ điển Đức
mà người khởi xướng là Kant phải làm rõ nhận thức và hoạt động của con
người. Vấn đề lớn lao là con người với vị trí là trung tâm của thế giới, là mục
đích tự thân và cao cả nhất với lý tính của mình liệu có vai trò và tác động
như thế nào đến thế giới đã được đặt ra. Triết học cổ điển Đức nói chung và
triết học Kant nói riêng ra đời nhằm giải đáp vấn đề lớn lao ấy.
1.2. I. Kant - Con ngƣời và tác phẩm
Immanuel Kant sinh ngày 22 tháng 4 năm 1724 tại Kenixbec trong một
gia đình làm nghề đóng giầy và cương ngựa ở phía Đông Phổ. Ông là một
trong những nhà triết học nổi tiếng nhất trong lịch sử triết học phương Tây và
là người khởi xướng ra nền triết học cổ điển Đức. Triết học Kant đã trở thành
nền móng cho rất nhiều các trào lưu triết học phương Tây hiện đại sau này.
Những hạn chế trong tư tưởng của ông không làm lu mờ những thành tựu mà
ông đã đóng góp vào sự phát triển tư tưởng loài người.
14


Kant là một con người rất đặc biệt, có rất nhiều những câu truyện kể
thú vị về cuộc đời của ông. Ông sinh ra ở Kenixbec, ông sống và làm việc
trong suốt cuộc đời của mình ở tại thành phố quê hương. Năm 1740 ông theo
học tại trường đại học Kenixbec. Cha của Kant là chỗ dựa duy nhất về mặt tài
chính của cả gia đình còn mẹ ông lại là người có ảnh hướng tích cực đến

những tư tưởng của Kant sau này. Sau khi cha ông qua đời, Kant đã mất đi
chỗ dựa về mặt tài chính, vì vậy mà năm 1746 Kant đã phải dời trường đại
học để làm gia sư ở nhiều gia đình khác nhau để kiếm sống. Nhờ vậy, đây
cũng là thời gian cho ông tiếp xúc với nhiều nhà khoa học tự nhiên. Đây cũng
là cơ sở cho triết học tiền phê phán của ông (triết học tiền phê phán Kant
nghiên cứu về các lĩnh vực khoa học tự nhiên).
Năm 1755 Kant nhận học vị tiến sĩ triết học. Năm 1770 Kant nhận chức
giáo sư về logich học và siêu hình học. Trong suốt khoảng thời gian trước đó
ông đã phải kiếm sống bằng việc dạy học với khoản tiền lương rất thấp. Kant
đã từ chối hai trường đại học danh tiếng Erlangen và Jena để ở lại giảng dạy
tại trường đại học Kenixbec. Kant còn là viện sĩ viện hàn lâm khoa học
Berlin. Tính cách của ông khác với nhiều người, ông sống cả cuộc đời ở thành
phố quê hương mình. Mặc dù nhà gần biển nhưng chưa bao giờ người ta thấy
Kant đi dạo trên bãi biển. Ông mất ngày 12 tháng 2 năm 1804.
Thời niên thiếu của Kant chịu ảnh hưởng lớn bởi mẹ ông. Mẹ của ông
là người sùng bái đạo tin lành chi phái Luther, mặc dù vậy Kant không mặn
mà lắm với Kitô giáo, có chăng ông chỉ đề cao đạo Kitô trong đạo đức học
của mình. Nước Đức thời bấy giờ chịu nhiều ảnh hưởng của đạo Kitô, nhà thờ
có quyền lực lớn không chỉ về mặt tư tưởng mà còn cả về chính trị. Đó là lí
do tại sao triết học của Kant gặp sự phản đối gay gắt ngay tại nước Đức. Năm
1794 nhà vua Đức đã kết án triết học tôn giáo của ông đồng thời cấm lưu
truyền những tư tưởng triết học của Kant. Tất cả các trường đại học ở Đức
đều không được truyền bá tư tưởng của ông. Tuy nhiên, mọi việc cấm đoán
15


đối với triết học Kant đều không làm lu mờ những giá trị mà ông đã đóng góp
cho sự phát triển của tư tưởng nhân loại.
Kant thật sự nổi tiếng khi ông viết tác phẩm “Phê phán lý tính thuần
túy” năm 1781 ở Riga. Triết học của Kant còn được biết đến với tên gọi là

triết học “Phê phán”. Sở dĩ như vậy là vì những tác phẩm tiêu biểu của ông
đều lấy tiêu đề là “Phê phán” như “Phê phán lý tính thuần túy” (1781), “Phê
phán lý tính thực hành” (1788), “Phê phán năng lực phán đoán” (1790).
Những tác phẩm này đều đóng vai trò làm nền tảng cho hệ thống triết học
của ông. Bên cạnh những tác phẩm tiêu biểu trên Kant còn có rất nhiều các
công trình khoa học nổi tiếng khác như “Lịch sử đại cương về tự nhiên và lý
luận về bầu trời” (1755), “Cơ sở hướng tới siêu hình học đức hạnh” (1785),
“Tôn giáo trong phạm vi của riêng lý tính” (1793), “Siêu hình học của đức
hạnh” (1797).
Triết học của Kant được chia thành hai thời kỳ chính là thời kỳ tiền phê
phán (1746 – 1770) và thời kỳ phê phán (từ năm 1770 trở đi). Triết học của
Kant thời kỳ tiền phê phán chủ yếu nghiên cứu các vấn đề về toán học và
khoa học tự nhiên trong đó ông có những phát minh quan trọng và nổi tiếng.
Triết học thời kỳ phê phán rất phức tạp và khó hiểu nhưng lại là thời kỳ Kant
có nhiều đóng góp to lớn cho kho tàng triết học cổ điển Đức nói riêng và triết
học thế giới nói chung.
Triết học thời kỳ tiền phê phán của Kant lúc đầu chịu nhiều ảnh hưởng
của các quan niệm duy tâm và thần học. Sau này khi nhận thức được những
hạn chế của chủ nghĩa duy tâm trong việc nhận thức thế giới ông đã chuyển
sang các quan niệm duy vật. Tuy vậy đây lại là những học thuyết duy vật máy
móc siêu hình. Các đại biểu nổi tiếng cho chủ nghĩa duy vật máy móc thời kỳ
này là Niutơn, Đêcáctơ. Kant nhận thấy rằng ngay cả chủ nghĩa duy vật máy
móc cũng không đem lại cho con người phương pháp đúng đắn để nhận thức

16


thế giới. Chính vì vậy ông đã từ bỏ những quan niệm của chủ nghĩa duy vật
này để đi đến chỗ xây dựng thế giới quan độc lập của mình.
Do chịu ảnh hưởng từ hai học thuyết trên nên triết học Kant thời kỳ này

một mặt mang tính duy tâm, mặt khác ông thể hiện mình như là một nhà duy
vật khoa học tự nhiên. “Hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ xây dựng thế giới từ nó,
nghĩa là, hãy cho tôi vật chất, tôi sẽ chỉ cho các anh thấy, thế giới phải ra đời
từ vật chất như thế nào”. Luận điểm trên của Kant cho chúng ta thấy quan
điểm của ông về sự ra đời và phát triển của thế giới. Thế giới theo Kant được
tạo thành từ vật chất và luôn vận động phát triển không ngừng, các sự vật,
hiện tượng trên thế giới đều có mối liên hệ tương tác với nhau thông qua lực
hút và lực đẩy. Đây có thể được xem là những tư tưởng biện chứng duy vật về
nhận thức thế giới. Nhưng yếu tố tích cực này lại không được Kant tiếp tục
triển khai trong siêu hình học. Trong khi xây dựng học thuyết về đạo đức học
với tư cách là một quan năng của lý tính thuần túy Kant lại chịu nhiều ảnh
hưởng của tôn giáo. Với Kant Kitô giáo có nhiều đóng góp giá trị hơn cho đạo
đức học so với các học thuyết tư tưởng triết học trước đây.
Kant nghiên cứu lý tính ở một trình độ rất cao, đó là trình độ lý luận
với các phạm trù, các khái niệm và hệ thống của chúng. Tất cả được Kant
nhìn nhận trong một hệ thống như những chỉnh thế chứ không tách rời và cô
lập. Trong triết học tự nhiên cũng vậy, Kant quan niệm thế giới là một hệ
thống vô cùng tận. Thế giới cũng có quá trình phát sinh phát triển và diệt
vong. Thế giới ngày nay chính là kết quả của một quá trình lịch sử phát triển
lâu dài theo xu hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Quan niệm về lịch sử phát
triển của thế giới như vậy đã đánh thẳng vào Kitô giáo, nó gây một sự đả kích
to lớn đến nhà thờ vì vậy mà triết học Kant không hề dễ dàng được chấp nhận
ở quê hương của mình.
Với định hướng nghiên cứu tự nhiên đúng đắn cùng phương pháp khoa
học Kant đã đạt được nhiều thành tựu về khoa học tự nhiên trong giai đoạn
17


này. Ông là người đầu tiên khám phá ra ảnh hưởng của lực hấp dẫn giữa trái
đất và mặt trăng với các hiện tượng thủy triều. Về khoa học tự nhiên Kant có

những cái nhìn rất đúng đắn và khoa học. Không chỉ thế giới mà chúng ta
đang sinh sống là có quy luật mà cả vũ trụ cũng phải chấp nhận quá trình sinh
diệt của tự nhiên. Trong tác phẩm “Lịch sử tự nhiên đại cương và thuyết bầu
trời” (1755) Kant đã đi đến chỗ lý giải nguồn gốc về sự hình thành và phát
triển của vũ trụ. Theo ông, tất cả các hành tinh và vũ trụ của chúng ta không
phải tự nhiên đã tồn tại như hiện nay. Kant cho rằng, ban đầu tất cả mọi thứ
đều trong trạng thái hỗn hợp, nhờ lực hút mà các hạt vật chất đã tụ lại tạo
thành các đám mây lớn. Sau đó, cũng do lực hút và lực đẩy trong lòng các
đám mây đã xuất hiện các luồng gió xoáy làm cho các hạt vật chất được kết
hợp lại tạo thành hình cầu. Các hành tinh khác nhau được hình thành nhờ vào
lực ma sát, tùy thuộc vào lực ma sát mạnh hay nhẹ mà các hành tinh có độ
nóng khác nhau. Riêng mặt trời có độ ma sát lớn nhất nên có độ nóng lớn hơn
tất cả các hành tinh khác. Do sự tác động của lực đẩy mà các hạt vật chất
không thể kết hợp lại tất cả thành một khối được mà tạo thành nhiều hành tinh
khác nhau. Kant cho rằng những hành tinh nào ở gần mặt trời hơn thì nặng
hơn, còn những hành tinh ở xa mặt trời thì nhẹ hơn. Nhân của các hành tinh
luôn luôn nặng hơn vỏ của chúng. Thế giới theo Kant là một thể thống nhất
hoàn chỉnh nên nó có thể tự mình bù đắp lại những thiệt hại nếu những thiệt
hại có xảy ra.
Quan niệm của Kant về thế giới cũng như sự hình thành và phát triển
của vũ trụ lấy cơ sở từ định luật vạn vật hấp dẫn của Niutơn. Đương nhiên
học thuyết của Kant là quá sơ sài và thiếu chứng cứ khoa học, nhưng nếu xét
trong bối cảnh nước Đức lúc bấy giờ thì quan niệm của Kant lại là tiến bộ
hơn hẳn so với các quan niệm trước đó. Những quan điểm của Kant sau này
sẽ được lý giải rõ ràng và chính xác hơn nhờ sự phát triển của ngành thiên
văn học.
18


Với quan niệm của mình về vũ trụ, Kant đã tạo ra một cuộc lật đổ thực

sự đối với những quan niệm duy tâm tôn giáo về thế giới, đồng thời cũng bác
bỏ luôn quan niệm siêu hình. Không chỉ trái đất mà cả vũ trụ của chúng ta là
kết quả của toàn bộ quá trình phát triển và tiến hóa lâu dài, điều này đánh tan
quan niệm siêu hình khi cho rằng thế giới một khi đã sinh ra thì sẽ mãi tốn
tại như thế từ xưa đến nay. Thế giới được sản sinh ra từ các hạt vật chất do
lực hút và lực đẩy chứ hoàn toàn không phải do một đấng sáng tạo nào sản
sinh ra cả. Học thuyết của Kant là vô cũng cách mạng trong bối cảnh nước
Đức đang lâm vào khủng hoảng kinh tế và chính trị. Những lý giải của ông
về tự nhiên đã là những bước khởi đầu cho quan niệm về sự phát triển biện
chứng của tự nhiên.
Nhưng sự hạn chế của xã hội Phổ lạc hậu cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ
XVIII đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến quan niệm của Kant về con người và
khả năng nhận thức của con người đối với thế giới. Kant nhận thấy sự hạn chế
của phương pháp nhận thức cơ học đơn thuần trong việc nghiên cứu các quá
trình sinh học. Do sự hạn chế của khoa học thời bấy giờ mà Kant đi đến quan
niệm bất khả tri, tức là ông phủ nhận khả năng nhận thức của con người. Kant
cho rằng con người cùng lắm cũng chỉ có thể nhận thức được hiện tượng, tức
là chỉ nhận thức được sự vật ở mức độ bề ngoài, còn vật tự thân, hay bản chất
đích thực của sự vật thì con người không thể nhận thức được.
Nhìn chung triết học Kant thời kỳ tiền phê phán thể hiện sự trăn trở của
một nhà tư tưởng đầy nhiệt huyết muốn xây dựng một cách nhìn mới về thế
giới đáp ứng nhu cầu của thời đại bấy giờ. Mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng
những khám phá của Kant cũng để lại nhiều giá trị đặc sắc. Những quan niệm
về tự nhiên, về sự phát sinh phát triển của vũ trụ thời kỳ này sẽ có ảnh hưởng
lớn tới triết học của Kant thời kỳ phê phán.
Thời kỳ phê phán của triết học Kant được bắt đầu từ năm 1770 với
nhiều tác phẩm nổi tiếng như “Phê phán lý tính thuần túy”, “Phê phán lý tính
19



thực hành”, “Phê phán năng lực phán đoán”… Trong thời kỳ này Kant chủ
yếu nghiên cứu về các vấn đề siêu hình học với nhiệm vụ tự đặt ra cho mình
là nghiên cứu có tính phê phán lý tính của con người. Do ảnh hưởng của các
biến động xã hội ở Pháp trước cách mạng tư sản (1789 – 1794), cũng như bởi
các quan niệm của Lépnít, Vônphơ và đặc biệt là của Hium, Kant cố gắng xác
định lại một cách có tính phê phán các quan niệm từ trước tới nay về các khả
năng nhận thức của con người nói chung và về lý tính nói riêng. Với Kant,
nhiệm vụ đầu tiên của siêu hình học là phải nghiên cứu con người. Nghiên
cứu con người, khả năng nhận thức của con người là mục đích cao cả của triết
học. Thời kỳ phê phán của Kant là thời kỳ ông có nhiều đóng góp nhất cho
nền triết học thế giới. Những quan điểm của Kant thời kỳ này là cơ sở cho rất
nhiều các học thuyết triết học, đạo đức học sau này.
Kant là một nhà triết học nhưng ông đồng thời cũng là nhà khoa học tự
nhiên. Ông nói: “Hai điều tràn ngập tâm tư với sự ngưỡng mộ và kính sợ luôn
luôn mới mẻ và gia tăng mỗi khi nghĩ đến đó là bầu trời đầy sao trên đầu tôi
và quy luật luân lý ở trong tôi” [20, tr. 278]. Cả hai lĩnh vực mà Kant hoạt
động đều tạo nên những thành quả rất đáng ngưỡng mộ. Nếu xét trong bối
cảnh nước Đức bấy giờ thì những quan niệm của Kant về khoa học tự nhiên
và triết học là vượt trội hơn hẳn so với các quan niệm trước đây. Nếu quan
niệm về tự nhiên đã đánh đổ về cơ bản thuyết duy tâm và duy vật siêu hình
trong việc nhận thức thế giới thì đạo đức học của Kant với sự kế thừa tư
tưởng về “ý chí chung” của Rútxô dẫn tới quan niệm về sự tự do của ý chí là
cơ sở cho nền đạo đức học duy mục đích mà về sau này sẽ còn tiếp tục được
phát triển.
Các tác phẩm của Kant thời kỳ phê phán rất khó đọc. Tác phẩm đầu
tiên trong bộ ba tác phẩm phê phán của Kant đó là “Phê phán lý tính thuần
túy” (1781). Tác phẩm này “làm việc chủ yếu với những đối tượng của quan
năng đơn thuần nhận thức, và một sự phê phán lý tính về phương diện sử
20



×