Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ tại công ty cổ phần á long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (483.01 KB, 101 trang )

ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO đã mở ra nhiều cơ
hội mới để phát triển cho các Doanh nghiệp Việt Nam nhưng song song với nó cũng là
những thách thức được đặt ra từ chính nền kinh tế thị trường. Muốn vượt qua thách
thức, Doanh nghiệp (DN) bắt buộc phải thay đổi để phù hợp và làm quen, không chỉ
dừng lại ở việc áp dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa
sản phẩm mà còn phải sử dụng các phương pháp để kiếm soát các hoạt động diễn ra
trong Công ty nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Trong đó không
thể không nhắc tới kiểm toán nội bộ (KTNB) là một bộ phận quan trọng trong hệ
thống kiểm soát nội bộ của Công ty, có chức năng kiểm tra, đánh giá tính phù hợp,
hiệu quả, sự tuân thủ pháp luật, quy trình, cơ chế, chuẩn mực kế toán. Tại các nước
phát triển, KTNB đã ra đời từ khá lâu và ngày càng khẳng định được vai trò không thể
thiếu của mình trong DN và Công ty. Tuy nhiên cụm từ “ Kiểm toán nội bộ” mới được
sử dụng ở Việt Nam trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây và đến nay khái niệm KTNB
vẫn còn chưa quen thuộc với nhiều nhà quản lý và chưa được các DN ở Việt Nam hiểu
hết được ý nghĩa, sử dụng có hiệu quả và chú trọng đúng mức.
Hiện nay, tại Công ty Cổ phần Á Long, đã tổ chức và thực hiện nhiệm vụ của
kiểm toán viên nội bộ (KTVNB). Tuy nhiên, do mới thành lập được một thời gian
ngắn nên việc triển khai công tác, xây dựng quy trình, quy định về kiểm toán nội bộ
còn nhiều thiếu sót và bất cập như chưa phân định rõ được chức năng, nhiệm vụ của
kiểm toán viên, việc phân quyền truy cập hệ thống chỉ mang tính hình thức…nên công
tác KTNB còn nhiều hạn chế.
Đề tài “Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ tại Công ty Cổ phần Á Long”
được em nghiên cứu nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác KTNB tại Công ty
Cổ phần Á Long.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài



Trần Thị Thu

1


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

Trên cơ sở lý luận về KTNB và tình hình tổ chức KTNB thực tế tại Công ty Cổ
phần Á Long em xin đưa ra một số giải pháp, góp ý để hoàn thiện tổ chức KTNB tại
đây.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Lý luận về tổ chức KTNB và thực tế tổ chức KTNB tại
Công ty Cổ phần Á Long. Qua đó vận dụng những lý luận đã nghiên cứu nhằm đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức KTNB tại Công ty.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Tổ chức KTNB tại Công ty Cổ Phần Á Long từ
khi thành lập ngày 01/2/2011 đến 26/4/2012, với dẫn chứng cụ thể tại một số đơn vị
trực thuộc đã được KTNB.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử kết hợp với
phương pháp thu thập bằng chứng thực tế, các phương pháp toán học, thống kê để
đánh giá tổ chức KTNB tại Công ty Cổ phần Á Long.
5. Những đóng góp của đề tài
Về mặt lý luận: Luận văn đã hệ thống hóa những vấn đề của tổ chức KTNB
trong Doanh nghiệp nói chung.
Về mặt thực tiễn: Trên cơ sở những tồn tại trong công tác tổ chức KTNB của
Công ty Cổ phần Á Long đề xuất những giải pháp ngắn hạn và dài hạn nhằm hoàn
thiện tổ chức KTNB tại Công ty Cổ phần Á Long, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý và

hoạt động sản xuất kinh doanh.
6. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về tổ chức KTNB trong DN
Chương 2: Thực trạng tổ chức KTNB tại Công ty Cổ phần Á Long
Chương 3: Nguyên tắc và giải pháp hoàn thiện tổ chức KTNB tại Công ty Cổ
phần Á Long

Trần Thị Thu

2


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG
CÔNG TY CỔ PHẦN Á LONG
1.1. Khái niệm kiểm toán nội bộ
1.1.1. Bối cảnh lịch sử của kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ xuất hiện là kết quả nảy sinh từ nhu cầu của công tác quản
lý trong tổ chức, đơn vị nhằm thẩm tra, đánh giá những nghiệp vụ phát sinh trong
đơn vị. Khi những nghiệp vụ này ngày càng nhiều và phức tạp thì nhu cầu kia sẽ
phát triển thành đòi hỏi phải thành lập nên nên một bộ phận có chức năng KTNB
chịu trách nhiệm kiểm tra, đánh giá và báo cáo lại cho người có thẩm quyền rằng
tài sản của đơn vị được sử dụng đúng hay không, các quy tắc, quy chế trong đơn vị
có được tuân thủ hay không, sổ sách tài chính có được ghi chép đầy đủ hay
không…Ngoài ra bộ phận này còn có trách nhiệm phát hiện ra sai phạm, gian lận.
KTNB còn được coi là sự mở rộng mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động của KTV

bên ngoài.
1.1.2.. Sơ lược các giai đoạn phát triển của kiểm toán nội bộ trên thế giới
KTNB ra đời vào năm 1941 ở Mỹ và sau đó phát triển ra khắp các nước trên
thế giới. Hoạt động KTNB trên thế giới đã chuyển từ việc chỉ kiểm tra chi tiết ở
cấp độ thấp một số lượng khổng lồ các nghiệp vụ sang việc kiểm tra phục vụ cho
chiến lược quản trị rủi ro.
Giai đoạn đầu từ năm 1941-1950: đây là giai đoạn tập chung vào việc kiểm
tra tài khoản kế toán. Một nhóm được thành lập trong bộ phận kế toán để kiểm tra
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh về tính chính xác trong việc ghi chép. Kết quả của
những cuộc kiểm tra trên là số lượng các sai sót bị che dấu rất nhiều nhưng càng
nhiều lỗi được phát hiện thì lại cho thấy công việc kiểm toán ngày càng hiệu quả.
Giai đoạn từ năm 1950- 1960 : Là giai đoạn thực hiện chức năng đánh giá.
KTNB đã dần thay đổi từ việc chỉ quan tâm tới lĩnh vực tài chính, họ đã bắt đầu
thực hiện việc đánh giá hoạt động của các nhân viên với các quy chế về tài chính
và về hoạt động của công ty như là hoạt động kiểm tra việc thanh toán cho khách

Trần Thị Thu

3


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

vãng lai hay bồi thường cho nhân viên gặp tai nạn lao động, hoạt động quản lý
kho, mua sắm dụng cụ văn phòng phẩm, quy tắc của các loại phiếu thu, chi…Kểm
toán viên làm việc thông qua một chương trình kiểm tra chi tiết để xác định xem
các thủ tục, quy định có được thực hiện không.
Giai đoạn từ năm 1960- 1970 : Hay có thể gọi là giai đoạn kiểm tra các thủ

tục, với sự phát triển đáng ngạc nhiên vào khoảng giữa những năm 1960 đặc biệt ở
những đơn vị yêu cầu phải xem xét xem việc thực hiện các thủ tục có được tôn
trọng hay không. Đội ngũ kiểm toán viên phải xem xét các chứng từ, tài khoản và
tìm ra phương pháp để cải thiện những sai sót được phát hiện. Có ý kiến từ những
kiểm toán viên có tầm nhìn xa rằng những sai sót trên có thể là hậu quả của việc
thiếu minh bạch trong thiết lập các quy định hay hậu quả trong cách điều hành
quản lý. Việc các kiểm toán viên giúp đỡ và tư vấn cho nhà quản lý đã đánh dấu
một bước ngoặt quan trọng cho sự nhìn nhận vai trò quan trọng của kiểm toán viên
nội bộ hơn là vai trò của người chuyên tìm kiếm các sai phạm.
Giai đoạn từ năm 1970-1980 : đây là giai đoạn điển hình cho công việc
đánh giá sự kiểm soát. Trong giai đoạn này trọng tâm của KTNB đã được mở rộng
ra một cách đáng kể cùng với sự thay đổi trong khái niệm kiểm soát. Cụ thể là các
vấn đề xoay quanh các hoạt động nội bộ được đưa ra bàn bạc để đảm bảo mọi nhân
viên có thể nắm bắt được mục tiêu, hoạt động, và khả năng thành công của đơn vị,
tất cả những nhân tố được cung cấp để thực hiện được mong muốn trên thì được
xem là kiểm soát. KTVNB đã không chỉ còn nằm trong giới hạn của công việc kế
toán nữa mà bắt đầu cung cấp các kiến nghị, đề xuất để việc kiểm soát có thể thực
hiện đúng.
Giai đoạn 1980-1990 : Là giai đoạn của việc hình thành báo cáo về hệ
thống kiểm soát nội bộ. Xuất hiện dưới hình thức KTV đưa ra các quan điểm độc
lập về hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị. Các sự thay đổi hay vượt khỏi tổ chức
ở các mức độ đều có thể được báo cáo lên cho hội đồng quản trị và ban kiểm soát.
KTVNB giờ đây còn có nhiệm vụ đưa ra quan điểm kiểm soát ở cấp cao hơn được

Trần Thị Thu

4


ĐH Quốc tế Bắc Hà


Ngành : Kế toán – Kiểm toán

kỳ vọng là sẽ áp dụng như một cách đánh giá về môi trường kiểm soát, từ việc
kiểm tra các nghiệp vụ chi tiết tới việc chuyển giao những nhận xét quan trọng về
tình hình kiểm soát.
Giai đoạn 1990-2000 : là giai đoạn hình thành việc đánh giá việc quản trị
rủi ro một cách rõ nét. Những năm 90 của thế kỷ 20 đã chứng kiến sự bùng nổ về
quản trị rủi ro nhằm ngăn chặn hoặc sụp đổ của các tổ chức bởi những sai lầm về
quản trị hay những sự kiện mang lại tác động xấu cho hoạt động kinh doanh. Ban
giám đốc ở tất cả các loại hình kinh doanh và dịch vụ đã được củng cố để nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc phải có những hệ thống sắc bén để quản trị rủi ro.
Rất nhiều tổ chức, đơn vị đã nhìn vào kiểm toán nội bộ để triển khai chiến lược
quản trị rủi ro, đưa ra các đề nghị nhằm đẩy mạnh hệ thống này. Kiểm toán viên
nội bộ bị đòi hỏi phải đánh giá sự thích hợp của các chiến lược quản trị rủi ro và
báo cáo các phương pháp để cơ cấu, thực hiện để có thể cải thiện được việc xác
định, phòng chống và ngăn ngừa rủi ro xảy ra cùng với việc xây dựng hệ thống
kiểm soát nội bộ thích hợp hơn.
Giai đoạn 2000-2001 : Khi các KTVNB đã hoạt động dựa trên hệ thống
tiêu chuẩn, nhằm vươn tới sự phát triển xa hơn trong việc quản trị rủi ro doanh
nghiệp lại đòi hỏi các kiểm toán viên phải có kỹ năng trong việc nhận dạng, đánh
giá rủi ro và tiên phong thực hiện việc quản trị rủi ro gắn liền với quy trình trong
chiến lược kinh doanh.
Giai đoạn 2001-2002: nhu cầu báo cáo kết quả của tất cả các cuộc kiểm
toán cho cấp cao trong tổ chức được chú trọng. KTVNB cùng với quan điểm mới
có thể hòa hợp với chương trình làm việc của quản trị cấp cao và trực tiếp ảnh
hưởng đến những vấn đề hợp tác nghiêm túc giữa hai bên.
Giai đoạn 2002-2003: IIA định nghĩa về vai trò của kiểm toán nội bộ trong
việc cộng thêm giá trị cho một tổ chức như sau:
“Các tổ chức tồn tại để tạo ra giá trị và lợi nhuận cho chủ, cho những cổ đông và

cho khách hàng của mình. Khái niệm này cung cấp nguyên nhân cho sự tổn tại của các tổ

Trần Thị Thu

5


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

chức. Giá trị được cung cấp qua sự phát triển của hàng hóa, dịch vụ và sử dụng các
nguồn lực cho việc tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ. Trong quá trình thu thập dữ liệu để
nhận dạng và đánh giá rủi ro, những kiểm toán viên nội bộ phát triển rất đáng kể sự hiểu
biết sâu sắc về các hoạt động và các cơ hội cho việc cải thiện cái có thể là lợi nhuận vô
cùng của các doanh nghiệp. Thông tin có giá trị này có thể dưới dạng tư vấn, lời khuyên,
truyền đạt bằng văn bản hay thông qua tất cả những sản phẩm khác mà những sản phẩm
này có thể được truyền đạt tới sự quản trị thích hợp và điều hành con người.”
Giai đoạn từ 2004 đến nay: Nhiệm vụ của KTNB không chỉ tập trung vào việc tạo
nên thành công ở mục tiêu riêng cho những người được hưởng lợi như cổ đông mà ở
thành công chung còn dành cho tất cả các đối tượng được tác động bằng cách nào đó bởi
kết quả hoạt động kinh doanh của tổ chức đó.
Từ năm 1997 hoạt động KTNB mới trở thành một loại hình kiểm toán chính thức ở
Việt Nam. Tuy hoạt động KTNB còn khá mới mẻ nhưng đã đạt được một số kết quả tốt.
Từ đó, cho thấy KTNB ngày càng có vai trò quan trọng và trở thành một bộ phận không
thể thiếu được trong hệ thống kiểm soát nội bộ của nhiều Công ty.
1.1.3. Định nghĩa kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là một loại hình kiểm toán khi được phân chia theo tiêu chí bộ
máy tổ chức. Có nhiều khái niệm khác nhau về KTNB.
Theo “Chuẩn mực nghề nghiệp kiểm toán nội bộ” của Hoa Kỳ đã được Viện kiểm

toán nội bộ Hoa Kỳ thông qua tháng 6 năm 1978 thì:
“Kiểm toán nội bộ là một chức năng xác minh độc lập được thiết lập trong một tổ
chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức, được coi là một dịch vụ đối với
tổ chức đó. Mục tiêu của kiểm toán nội bộ là giúp các thành viên của tổ chức thực thi có
hiệu quả trách nhiệm của mình. Nhằm mục tiêu này, kiểm toán nội bộ cung cấp cho các
thành viên những công việc phân tích, xác minh, kiến nghị, ý kiến tư vấn và thông tin
thuộc về các hoạt động đã được thẩm tra”.
Theo Liên đoàn Kế toán quốc tế IFAC:

Trần Thị Thu

6


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

“ Kiểm toán nội bộ là một hoạt động đánh giá được lập ra trong một đơn vị kế
toán như là một loại dịch vụ cho đơn vị đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát
tính thích hợp và hiệu quả của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ”.
Theo định nghĩa của Hiệp hội KTV nội bộ (IIA):
“KTNB là một hoạt động đảm bảo và tư vấn mang tính độc lập, khách quan được
thiết lập nhằm tăng thêm giá trị và cải thiện cho các hoạt động của tổ chức. KTNB giúp
cho tổ chức hoàn thành mục tiêu trong việc đưa ra một cách tiếp cận có hệ thống và kỷ
cương nhằm đánh giá và cải thiện tính hữu hiệu trong quản trị rủi ro kiểm soát và giám
sát”.
Như vậy có thể nói KTNB là hoạt động kiểm tra, rà soát, đánh giá một cách độc
lập, khách quan đối với hệ thống kiểm tra, kiểm soát của DN; đánh giá độc lập về tính
thích hợp và sự tuân thủ các chính sách, thủ tục, quy trình đã được thiết lập trong DN,

thông qua đó đưa ra các kiến nghị, tư vấn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
các hệ thống, các quy trình, quy định, góp phần đảm bảo DN hoạt động an toàn, hiệu quả
và đúng pháp luật. Tất cả các hoạt động này được thực hiện bởi một bộ phận do chính DN
tổ chức.
1.1.3.1. Chức năng ,nhiệm vụ và đối tượng của KTNB
Thông tin do KTNB cung cấp là căn cứ, cơ sở quan trọng cho Công ty đưa ra các
quyết định quản lý. Hoạt động của kiểm toán nội bộ được coi là hoạt động cần thiết của
các Công ty trong nền kinh tế thị trường hiện nay nhằm kiểm soát hiệu quả, hiệu năng,
thông tin kinh tế tài chính, phát hiện những khâu yếu, ngăn ngừa sai sót, gian lận trong
quản lý tài sản của doanh nghiệp.
Đối tượng phục vụ chủ yếu của KTNB là chủ doanh nghiệp, ban quản lý doanh
nghiệp và người lao động. Kiểm toán hoạt động có 3 chức năng đó là kiểm tra, đánh giá
và tư vấn.
Mục tiêu chính của KTNB trong khuôn khổ xem xét định kỳ là kiểm tra các thủ tục
có đủ an toàn và các thông tin tài chính có trung thực, tin cậy hay không, các nghiệp vụ có
hợp thức, tổ chức hoạt động có hiệu quả, cơ cấu có rõ ràng hay không…Điều đó cho thấy

Trần Thị Thu

7


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

kiểm toán nội bộ không chỉ giới hạn trong bộ phận kế toán và tài chính của doanh nghiệp,
hoạt động KTNB không chỉ đơn thuần là kiểm toán báo cáo tài chính mà còn bao gồm cả
kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ.
a, Chức năng của KTNB

Chức năng của KTNB bao gồm: Kiểm tra, xác nhận, đánh giá sự đầy đủ, hữu hiệu
trong hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức, chất lượng hoạt động trong quá trình thực
hiện các nghiệp vụ phát sinh, và đưa ra ý kiến tư vấn cho nhà quản lý.
• Kiểm tra tính phù hợp, sự tin cậy và tính chính xác của các thông tin tài chính
và phi tài chính thuộc tất cả các hệ thống và hoạt động của DN.
• Kiểm tra sự vận hành hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ trong DN.
• Kiểm tra sự tuân thủ pháp luật, các chính sách, quy chế, nguyên tắc, chế độ
nghị quyết, nghị định của Nhà nước và DN.
• Kiểm tra tính hiệu quả, hiệu lực của các hoạt động SXKD và việc sử dụng hợp
lý các nguồn lực tại DN.
b, Nhiệm vụ của KTNB
KTNB có nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá tính phù hợp, hiệu năng và hiệu quả của hệ
thống kiểm soát nội bộ. Trong DN, hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm chính sách, các
thủ tục kiểm soát được Lãnh đạo DN và người quản lý sử dụng trong quản lý và điều
hành các hoạt động SXKD. Có 4 nhân tố hình thành nên hệ thống kiểm soát nội bộ đó là:
môi trường kiểm soát, hệ thống kế toán, các thủ tục và quy trình kiểm soát, kiểm toán nội
bộ. KTNB kiểm tra, đánh giá tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát
nội bộ thông qua việc soát xét hệ thống này nhằm phát hiện, ngăn chặn, hạn chế và xử lý
kịp thời các sai sót, gian lận có thể xảy ra trong quá trình quản lý và kinh doanh của DN.


KTNB kiểm tra, xác nhận chất lượng và độ tin cậy của các thông tin. Các

thông tin tài chính và phi tài chính phát sinh từ mọi hoạt động và hành vi quản lý của
DN. Với việc kiểm tra của KTNB lãnh đạo DN và các đối tượng quan tâm đến kết quả
hoạt động của DN có thể đánh giá được tình hình thực tế của DN từ đó đưa ra các
quyết định cho việc quản lý và hoạt động.

Trần Thị Thu


8


ĐH Quốc tế Bắc Hà



Ngành : Kế toán – Kiểm toán

KTNB kiểm tra sự tuân thủ các chính sách, quy chế, quy định, kế hoạch và

thủ tục hiện hành. KTNB kiểm tra toàn bộ các bước trong quá trình hoạt động, kinh
doanh của DN để đánh giá mức độ tuân thủ của DN đối với các quy chế, thủ tục, chính
sách, nghị quyết của Nhà nước và DN mà DN cần tuân theo. Từ đó đánh giá và tham
mưu cho lãnh đạo DN về tính hợp lý và lợi thế của các quy chế và thủ tục kiểm soát
với các chính sách, các kế hoạch hoạt động giúp nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả trong
các quyết định của nhà quản lý DN đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN.


KTNB kiểm tra các phương thức đảm bảo an toàn cho tài sản của DN. Để

đảm bảo an toàn cho tài sản của DN, KTNB thường kiểm tra sự hiện diện của các tài
sản đó qua việc kiểm kê tài sản thực tế, kiểm tra hệ thống quản lý công nợ, hệ thống
kho bãi, hệ thống phòng cháy chữa cháy…Thông qua việc kiểm tra, KTNB có thể đưa
ra các đề xuất với lãnh đạo DN để hoàn thiện các quy chế kiểm soát, kịp thời có các
giải pháp thực tế để đảm bảo an toàn cho tài sản của DN.


KTNB đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ và hiệu quả hoạt động của các


nguồn lực bằng việc kiểm tra các bộ phận trong DB, KTNB đánh giá việc thực hiện
các nhiệm vụ được giao của các bộ phận cá nhân xem nó có phù hợp và được hoàn
thành đúng kế hoạch hay không…Bên cạnh đó còn kiểm tra xem các nguồn lực có
được sử dụng có hiệu quả hay không từ đó KTNB đưa ra những ý kiến tham mưu cho
ban lãnh đạo DN để có những điều chỉnh và quyết định kịp thời, chính xác.
Từ những nhiệm vụ trên có thể thấy KTNB có vai trò rất quan trọng trong công tác
quản lý của DN. KTNB giúp DN phát hiện sớm các sai phạm, ngăn chặn và sử lý các
hành vi mang tính tiêu cực trong công tác điều hành, quản lý, góp phần nâng cao hiệu quả
sử dụng tài sản và nguồn lực tại DN, nâng cao hiệu quả hoạt động và hiệu năng của quản
lý, góp phần hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ của DN.
c, Đối tượng của KTNB
Hoạt động KTNB nhằm mục đích xác minh và bày tỏ ý kiến về tình hình tài chính
kế toán và hiệu quả các hoạt động trong DN, do vậy đối tượng của KTNB là thực trạng tài
chính cùng hiệu quả, hiệu năng của các nghiệp vụ, hay các dự án cụ thể trong DN. Trong

Trần Thị Thu

9


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

đó, thực trạng hoạt động tài chính được coi là đối tượng chung của KTNB, còn tài liệu kế
toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính, hiệu quả và hiệu năng là các đối tượng cụ
thể của KTNB.
Hoạt động tài chính là hoạt động dùng tiền để giải quyết các mối quan hệ kinh tế
trong đầu tư, trong kinh doanh, trong phân phối và thanh toán nhằm đạt được lợi ích kinh
tế xác định. Hoạt động tài chính phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản sau: phải có kế

hoạch; phải đảm bảo tiết kiệm và có lợi; phải đảm bảo tuân thủ pháp luật và thể lệ tài
chính. Trong quan hệ với tính xác định của thông tin thu thập được, thực trạng của hoạt
động tài chính gồm hai phần: một phần được phản ánh trong tài liệu kế toán và phần còn
lại chưa được phản ánh trong tài liệu này. KTVNB sẽ sử dụng các phương pháp kiểm toán
thích hợp để xác minh và đưa ra những đánh giá về thực trạng hoạt động tài chính của
DN.
Tài liệu kế toán, trước hết là các bảng khai tài chính, là đối tượng trực tiếp và
thường xuyên của mọi cuộc kiểm toán. Trong cơ chế thị trường, tài liệu kế toán không chỉ
là cơ sở để tổng kết các chỉ tiêu ở phạm vi rộng hơn, cũng không chỉ để kiểm tra, lưu trữ
tài liệu và bảo vệ tài sản mà còn là cơ sở cho mọi người quan tâm ra các quyết định về
quản lý, về đầu tư, về thanh toán, phân phối… đồng thời nhu cầu về chất lượng của tài
liệu kế toán cũng tăng lên. Do vậy, đối tượng của kiểm toán thuộc phạm vi tài liệu kế toán
bao gồm: tính hiện thực của các thông tin kế toán; tính hợp pháp của các biểu mẫu, của
trình tự lập và luận chuyển các tài liệu này; tính hợp lý của các đối tượng kế toán phù hợp
với nội dung của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh; tính pháp lý trong việc thực hiện các
luật pháp, chuẩn mực và chế độ kinh tế tài chính.
Thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính: trong DN, tài sản biểu hiện dưới nhiều
hình thái vật chất khác nhau với yêu cầu về quy cách, phẩm chất, bảo quản, bảo dưỡng…
khác nhau, lại được lưu trữ trên nhiều kho, bãi khác nhau do những người khác nhau quản
lý. Cùng với sự phát triển của hoạt động SXKD, quy mô tài sản thay đổi thì sự cách biệt
giữa người sở hữu với người bảo quản và sử dụng tài sản tăng lên, khả năng có sự cách
biệt giữa tài sản với sự phản ánh của nó trong thông tin kế toán. Điều này đòi hỏi phải đặt

Trần Thị Thu

10


ĐH Quốc tế Bắc Hà


Ngành : Kế toán – Kiểm toán

thực trạng tài sản vào đối tượng của kiểm toán. Do tài sản của DN thường xuyên vận
động, quá trình vận động này được cấu thành bởi các nghiệp vụ cụ thể nên khi tiến hành
kiểm toán thì kiểm toán các phần hành cơ bản sau: các nghiệp vụ về tiền mặt (thu, chi, tồn
quỹ); về thanh toán (các khoản vay, nợ, phải thu, phải trả); về tài sản cố định (đầu tư, xây
dựng, mua sắm); về hàng hoá (bảo quản, sử dụng); về kinh doanh (mua, bán, sản xuất); về
tài chính (tạo vốn, phân phối lợi nhuận)… Tuỳ theo điều kiện và nhu cầu cụ thể mà KTV
nội bộ có thể lược bỏ, tách riêng hay sáp nhập các loại nghiệp vụ cơ bản trên để có được
những phần hành kiểm toán phù hợp.
Hiệu quả và hiệu năng: Theo quan điểm truyền thống, toàn bộ đối tượng của kiểm
toán là tài liệu kế toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính. Nhưng theo quan điểm
hiện đại, đối tượng kiểm toán còn bao gồm cả hiệu quả và hiệu năng. Đây là đối tượng
mới của kiểm toán, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế của quản lý trong điều kiện quy mô
kinh doanh ngày càng mở rộng mà nguồn lực ngày càng giới hạn, cạnh tranh ngày càng
gay gắt, để tiết kiệm chi phí, thắng thế trong cạnh tranh… vấn đề hiệu quả, hiệu năng đã
được đặt ra cho từng nghiệp vụ hay hoạt động cụ thể trong DN.
1.1.3.2. Phân loại KTNB
a, Phân loại KTNB theo đối tượng cụ thể
Phân theo đối tượng cụ thể, kiểm toán nói chung, KTNB nói riêng được phân
thành: kiểm toán BCTC, kiểm toán nghiệp vụ và kiểm toán liên kết.
Kiểm toán BCTC: Kiểm toán BCTC do KTNB thực hiện là việc kiểm tra, xác nhận
BCTC và báo cáo quản trị đã lập so với những chuẩn mực chung của kế toán đã được
chấp nhận, các quy định và thủ tục quản lý của từng khâu công việc, của từng biện pháp
trong hệ thống kiểm soát nội bộ của DN để kết luận về tính trung thực của thông tin trong
các BCTC cùng tính pháp lý của biểu mẫu chứa đựng các thông tin đó.
Công việc kiểm toán BCTC bao gồm: Kiểm tra xác nhận tính trung thực, khách
quan, đầy đủ và tin cậy của các số liệu, tài liệu của BCTC của DN và các đơn vị thành
viên; Kiểm tra việc tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán, chế độ chính sách tài
chính, kế toán, thuế trong quá trình hạch toán và lập báo cáo. Thông qua KTNB phát hiện


Trần Thị Thu

11


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

những tồn tại, yếu kém, sơ hở, gian lận trong quản lý, trong bảo vệ tài sản của các bộ
phận, các đơn vị đẻ tư vấn cho ban lãnh đạo các biện pháp khắc phục; Kiểm tra, đánh giá
độ tin cậy của các thông tin do kế toán cung cấp thông qua BCTC, đưa ra những kiến
nghị, tư vấn cho lãnh đạo DN về công tác kế toán tài chính, công tác quản lý và điều hành
có hiệu quả.
Kiểm toán hoạt động:: là việc thẩm tra các trình tự và các phương pháp tác nghiệp
ở các bộ phận hoặc đơn vị kiểm toán theo hướng hiệu quả, hiệu lực và tính kinh tế. Các
tác nghiệp không chỉ giới hạn ở lĩnh vực tài chính kế toán mà còn mở rộng sang các lĩnh
vực khác: đánh giá cơ cấu tổ chức, phương pháp sản xuất, nghiệp vụ sử dụng máy tính,
marketing và mọi lĩnh vực quản lý khác nếu cần và có thể thực hiện được.
Kiểm toán hoạt động là nhận định thành tích và hiệu quả, với ba mặt sau: Nhận
định về thành tích và hiệu quả của hệ thống thông tin và phương pháp điều hành; Nhận
định về kết quả sử dụng các nguồn lực; Nhận định về tính chủ động trong xây dựng dự án
và sự tương xứng về điều hành, phát triển. Kết quả của kiểm toán hoạt động không chỉ
củng cố được nền nếp tài chính kế toán mà còn nâng cao được hiệu năng và hiệu quả của
hoạt động quản lý. Trong tổ chức, quá trình cũng như kết quả kiểm toán của kiểm toán
hoạt động khó xác định thành những tiêu chuẩn, biểu mẫu như kiểm toán BCTC. Hơn
nữa, hiệu năng, hiệu quả của nghiệp vụ khó đánh giá khách quan nên trong kiểm toán
hoạt động, KTV thường đưa ra các gợi ý hơn là những tường trình về hiệu quả đã đạt
được để cố vấn cho công tác quản lý của DN.

Kiểm toán liên kết: Kiểm toán liên kết là sự sáp nhập hai loại kiểm toán tài chính
và kiểm toán nghiệp vụ nhằm xác minh tính trung thực của các thông tin tài chính cùng
với xác định mức an toàn của các nghiệp vụ tài chính và chất lượng của hệ thống kiểm
soát nội bộ, đồng thời hướng vào những thành tích và hiệu quả trong đó xem xét việc thiết
lập hệ thống thông tin và quản lý cũng như việc điều hành hướng tới tối ưu hoá việc sử
dụng các nguồn lực. Tuy nhiên, hình thức kiểm toán liên kết thường được ứng dụng tại
các đơn vị công cộng hơn là tại các DN hoạt động SXKD. Trong DN hoạt động SXKD,

Trần Thị Thu

12


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

KTNB thường thực hiện hai loại hình kiểm toán là kiểm toán tài chính và kiểm toán hoạt
động.
b, Phân loại KTNB theo phạm vi kiểm toán
Theo phạm vi kiểm toán thì KTNB có kiểm toán toàn diện và kiểm toán chuyên
đề.
Kiểm toán toàn diện là hoạt động kiểm toán nhằm vào toàn bộ hoạt động kế toán
tài chính, SXKD… của DN với mục đích xem xét sự chính xác của tài liệu, số liệu kế
toán, sự phù hợp của các biểu mẫu trong BCTC đồng thời tìm hiểu tình hình hoạt động,
tình hình quản lý kinh doanh của DN.
Kiểm toán chuyên đề là hoạt động kiểm toán chỉ tập trung vào một số nghiệp vụ
nhất định như: kiểm toán doanh thu, kiểm toán chi phí, lợi nhuận…
c, Phân loại KTNB theo thời điểm kiểm toán
Theo quan hệ về thời điểm kiểm toán với thời điểm thực hiện nghiệp vụ thì KTNB

cũng phân thành kiểm toán kiểm toán phòng ngừa và kiểm toán sau hoạt động.
Kiểm toán phòng ngừa bao gồm các biện pháp phòng ngừa được áp dụng trước khi
một nghiệp vụ phát sinh nhằm đảm bảo cho bộ máy nghiệp vụ hoạt động chuẩn xác và
hợp thức, loại trừ các sai phạm trước hoặc ngay khi chúng xuất hiện.
Kiểm toán sau hoạt động là loại kiểm toán được thực hiện sau khi nghiệp vụ kế
toán đã phát sinh nhằm xem xét mức độ trung thực, chính xác của các nghiệp vụ hoàn
thành đồng thời phát hiện các vi phạm, gian lận.
Hai loại hình kiểm toán trên rất khác nhau nhưng lại hỗ trợ nhau rất hiệu quả: nhờ
kiểm toán sau hoạt động, bộ phận KTNB sẽ rút ra bản chất sai phạm, gian lận có thể xảy
ra từ đó xây dựng các biện pháp cho kiểm toán phòng ngừa, nhờ kiểm toán phòng ngừa,
KTV nội bộ sẽ theo dõi được chặt chẽ hơn các sai phạm phát hiện trong kiểm toán sau
hoạt động.
Nói chung, theo nhiều tiêu thức khác nhau, sẽ có nhiều loại hình KTNB khác nhau,
vấn đề đặt ra là các KTV nội bộ phải xác định lựa chọn hoặc kêt hợp các loại hình kiểm
toán khác nhau để thực hiện nhằm đạt hiệu quả cao trong cuộc KTNB.

Trần Thị Thu

13


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

d, Phân loại KTNB theo chu kỳ kiểm toán
Theo tính chu kỳ của kiểm toán thì KTNB được chia thành kiểm toán thường
xuyên, kiểm toán định kỳ và kiểm toán bất thường.
Kiểm toán thường xuyên là việc thực hiện thẩm tra, theo dõi soát xét liên tục các
hoạt động kế toán, hoạt động quản lý, kinh doanh một cách thường xuyên để đảm bảo

phát hiện nhanh chóng, kịp thời các sai phạm, từ đó có các biện pháp ngăn chặn, phòng
ngừa hữu hiệu.
Kiểm toán định kỳ là việc thực hiện kiểm toán theo một thời gian nhất định như
kiểm toán BCTC hàng tháng, quý hoặc năm, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về
tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của DN.
Kiểm toán bất thường là việc thực hiện các cuộc kiểm toán không dự định, theo
yêu cầu của ban lãnh đạo DN khi trong DN có những vấn đề nảy sinh cần phải được kiểm
tra ngay.
1.2. Tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong Doanh nghiệp
1.2.1. Nguyên tắc tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ
Tổ chức bộ máy KTNB phải đảm bảo được nguyên tắc tổ chức chung cơ bản là tập
trung và dân chủ. Các mối liên hệ bên trong và bên ngoài khác nhau phù hợp với nguyên
tắc chung của lý thuyết tổ chức và phù hợp với quy luật của phép biện chứng về liên hệ
đều được nằm trong tổ chức bộ máy. Tổ chức bộ máy KTNB còn phải xây dựng đội ngũ
KTVNB đủ về số lượng và chất lượng, đồng thời phù hợp với từng đặc thù của Doanh
nghiệp. Đây là yếu tố rất quan trọng quyết định đến sự tồn tại cũng như chất lượng hoạt
động bộ máy kiểm toán nội bộ.
Mục tiêu của tổ chức bộ máy KTNB là tạo ra mối quan hệ theo trật tự xác định. Đó
là xác định sự khác nhau do quan hệ giữa các mục tiêu kiểm toán khác nhau hoặc với các
khách thể kiểm toán khác nhau.
1.2.2. Tiêu chuẩn thiết lập bộ máy kiểm toán nội bộ

Trần Thị Thu

14


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán


Để thiết lập bộ máy kiểm toán nội bộ mang lại hiệu quả thì phải xem xét đến tiêu
chuẩn về quy mô, phạm vi hoạt động và phân cấp quản lý của tổ chức muốn thiết lập bộ
máy kiểm toán nội bộ
Tiêu chuẩn về quy mô: Trong thực tế, rất ít các DN nhỏ và vừa có bộ KTNB, trong
khi các DN có quy mô lớn lại rất cần đến bộ phận này để nâng cao chất lượng của hệ
thống kiểm soát nội bộ tại DN. Quy mô của DN được xem xét trên các số liệu về tài sản,
số vốn hoạt động, số lượng nhân viên, doanh thu…DN có quy mô càng lớn thì đòi hỏi bộ
máy KTNB phải làm việc càng nhiều, khối lượng công việc và độ phức tạp cũng tăng qua
từng nghiệp vụ nên số lượng nhân viên trong bộ máy kiểm toán nội bộ cũng nhiều thêm.
Tùy thuộc vào các yêu cầu khách quan như đặc điểm kinh tế, các quy định pháp lý của
Nhà nước, các yêu cầu về chất lượng kiểm toán viên, mô hình tổ chức hoạt động mà xác
định ra số nhân viên phù hợp trong bộ máy.
Tiêu chuẩn về phạm vi hoạt động: phạm vi hoạt động hay sự chia cắt về mặt địa lý
là một trong những nhân tố không thể thiếu khi xem xét tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ
trong DN. Ví dụ như Tập đoàn Kinh Đô có trụ sở chính ở Thành phố Hồ Chí Minh nhưng
các nhà máy, văn phòng, công ty con lại ở nhiều địa điểm khác nhau như Hưng Yên hay
Bình Dương…Với các DN có đặc điểm này thì việc bố trí tổ chức bộ máy KTNB luôn đòi
hỏi đến tính hợp lý trong việc kiểm toán các đơn vị trực thuộc làm sao đảm bảo được chất
lượng, hiệu quả và tiết kiệm của các cuộc kiểm toán. Nhiều doanh nghiệp để thuận tiện
cho công tác kiểm toán và tiết kiệm chi phí DN sẽ tổ chức bộ máy kế toán theo kiểu phân
tán với việc xây dựng đội ngũ kiểm toán viên ngay tại đơn vị trực thuộc để phụ trách công
tác kiểm toán ở các khu vực được phân công.
Tiêu chuẩn về phân cấp quản lý: Mức độ phân cấp quản lý trong DN ảnh hưởng
rất lớn tới quyết định tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ tại DN. Do quyền quyết định đều
nằm trong tay nhà quản lý, phân cấp quản lý chỉ có thể thực hiện được khi các mục tiêu,
thủ tục và hệ thống hành chính rõ ràng, thông qua một số phương pháp kiểm tra dựa trên
tiêu chuẩn kết quả và hiệu năng. Trong nhiều trường hợp sẽ xuất hiện các rủi ro, sai sót
thông tin quản lý trong hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Mức độ của các rủi


Trần Thị Thu

15


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

ro này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như rủi ro trong việc hiểu sai các quy chế
của DN… rủi ro trong việc không tuân thủ chính sách do doanh nghiệp quy định…Ngoài
ra lĩnh vực hoạt động của DN, năng lực của nhân viên cũng ảnh hưởng rất lớn trong việc
góp phần tạo ra rủi ro. Rủi ro sai sót thông tin tài chính có thể phát sinh khi doanh nghiệp
hoạt động trong nhiều lĩnh vực ở các ngành nghề khác nhau, doanh nghiệp có quy mô lớn
và phân tán với số lượng nhân viên lớn thì việc tất cả nhân viên đều đạt được yêu cầu về
năng lực nghề nghiệp là rất khó nên dễ phát sinh ra rủi ro do trình độ yếu kém của một số
cán bộ công nhân viên trong DN. Để đảm bảo sự tuân thủ về mặt luật pháp cũng như các
quy định của DN thì cần có bộ phận KTNB.
Tóm lại, khi xem xét và đưa tới quyết định tổ chức bộ phận KTNB trong doanh
nghiệp thì luôn phải xem xét, đánh giá một cách tổng hợp, kỹ lượng dựa trên các yếu tố
quy mô, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, năng lực của nhân viên…
1.2.3. Quan điểm về tổ chức KTNB và mô hình tổ chức.
Bộ máy KTNB muốn thực hiện được chức năng và nhiệm vụ một cách hiệu quả
nhất thì nó phải trực thuộc cấp cao nhất trong doanh nghiệp. Mô hình chuẩn được áp dụng
ở nhiều nước phát triển, KTNB làm việc cho ban kiểm soát và ban kiểm soát độc lập với
hội đồng quản trị
Mô hình 1.1: Mô hình chuẩn
Hội đồng quản trị

Tổng giám đốc


Ban kiểm soát

Kiểm toán nội bộ

Nhưng hiện nay có ít nhất 3 quan điểm khác nhau về vấn đề này đó là:

Trần Thị Thu

16


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

Tại Việt Nam ở nhiều Công ty chức năng của ban kiểm soát khá mờ nhạt, có công
ty chỉ dựng lên ban kiểm soát để cho đủ ban bệ và tuân thủ quy định của pháp luật nên
dẫn đến mô hình biến tấu thứ nhất:
Mô hình 1.2: Mô hình biến tấu thứ nhất
Ban kiểm soát

Hội đồng quản trị

Tổng giám đốc

Kiểm toán nội bộ

Mô hình này được áp dụng khi Tổng giám đốc là người do Hội đồng quản trị thuê
về điều hành. KTNB làm việc cho Hội đồng quản trị, báo cáo trực tiếp cho Hội đồng quản

trị.
Trong mô hình trên Tổng giám đốc không giữ số lượng cổ phiếu chi phối, Hội
đồng quản trị tách ra khỏi chức năng điều hành. Tuy nhiên tại Việt Nam Hội đồng quản
trị vừa làm chức năng định hướng vừa làm chức năng điều hành, quyền lực nằm trong tay
Tổng giám đốc, chủ tịch hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc. KTNB làm việc trực tiếp
dưới sự điều hành của Tổng giám đốc nên có mô hình biến tấu thứ 2.
Mô hình biến tấu thứ 3 thường được áp dụng cho Công ty có mô hình mẹ con, tập
đoàn tách khỏi chức năng kinh doanh mà chỉ quản lý các công ty con. Hiện tại được khá
nhiều tập đoàn lớn ở Việt Nam áp dụng.

Trần Thị Thu

17


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

Mô hình 1.3: Mô hình biến tấu thứ 2
Ban kiểm soát

Hội đồng quản trị

Tổng giám đốc

Bộ phận chuyên
môn

Kiểm toán nội

bộ

Mô hình 1.4: Mô hình biến tấu thứ 3
Ban kiểm soát

Hội đồng quản trị

Tổng giám đốc

Giám đốc các công
ty con

Các bộ phận
chuyên môn

Giám đốc tài chính

Kiểm toán nội
bộ

Như vậy tuỳ từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà vị trí của KTNB trong Công ty,
Tổng công ty, Tập đoàn sẽ khác nhau, khi đó mô tả công việc đối với KTVNB cũng khác

Trần Thị Thu

18


ĐH Quốc tế Bắc Hà


Ngành : Kế toán – Kiểm toán

nhau. Tuy nhiên các quy trình kiểm toán nội bộ vẫn có điểm chung. Bên cạnh đó là ba
quan điểm cổ điển về phương thức tổ chức mô hình KTNBB tại doanh nghiệp như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng bộ phận KTNB nên đặt trực tiếp tại phòng kế toán
dưới sự chỉ đạo của kế toán trưởng. Lý do tại sao? Do từ trước đến nay phòng kế toán
luôn kèm theo chức năng kiểm tra kế toán, kế toán trưởng thường đóng vai trò là kiểm
toán nội bộ và kiểm soát viên. Quan điểm này có những yếu điểm đó là không đảm bảo
được tính độc lập của bộ phận kiểm toán nên kết quả thu được từ kiểm toán là hạn chế về
mặt khách quan. Bên cạnh đó nội dung của KTNB sẽ chỉ gói gọn ở trong việc kiểm toán
tài chính và kế toán quản trị, điều này thực sự không phù hợp với mục tiêu của KTNB
hiện tại đó là hướng tới hiệu năng và hiệu quả của hoạt động.
Quan điểm thứ hai cho rằng bộ phận KTNB ở các Tổng công ty có hội đồng quản
trị nên đặt trực thuộc Hội đồng quản trị để trực tiếp chịu sự chỉ đạo của Ban kiểm soát để
đảm bảo tính độc lập và kết quả kiểm toán mang tính khách quan hơn. Quan điểm này thì
chỉ đảm bảo được về độ độc lập nhưng lại chưa xem xét đến những hạn chế của hội đồng
quản trị và ban kiểm soát vì họ hầu như không trực tiếp tham gia quản lý điều hành trực
tiếp các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà các ý kiến tham vấn nhằm
hoàn thiện hệ thống kiểm soát phải được thực hiện kịp thời mới đảm bảo có được hiệu
quả cao. Điều này rất khó thực hiện khi Hội đồng quản trị chủ yếu chỉ đưa ra các quyết
định về cơ chế hoạt động của doanh nghiệp.
Quan điểm thứ ba cho rằng bộ phận KTNB phải đặt trực thuộc ban TGĐ của
doanh nghiệp. Theo quan điểm này, KTNB là bộ phận quan trọng của doanh nghiệp, nên
đặt tại ban điều hành doanh nghiệp, tiếp cận liên tục với mọi hoạt động của doanh nghiệp,
đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ tốt hơn, phát hiện ra các sai sót có thể đưa các ý kiến
tham vấn kịp thời cho nhà quản lý để hạn chế, khắc phục các sai sót đó. Quan điểm này
cũng khẳng định rằng để đạt được mục tiêu, vai trò của kiểm toán nội bộ nhất thiết phải
đặt kiểm toán nội bộ trực thuộc cấp lãnh đạo cao nhất điều hành hoạt động của doanh
nghiệp. Quan điểm này phù hợp với thực tiễn hiện nay hơn hai quan điểm còn lại nhưng


Trần Thị Thu

19


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

người đứng đầu bộ phận KTNB phải được quyền tự do báo cáo kết quả kiểm toán với Ban
kiểm soát của HĐQT mới có kết quả cao nhất.
Mô hình tổ chức
Tùy thuộc vào quy mô cũng như độ phân tán chia cắt về địa lý, định chế tài chính
mà doanh nghiệp đi đến lựa chọn bộ hình kiểm toán nội bộ thích hợp. Hiện tại có 3 mô
hình cơ bản đó là mô hình tập trung, mô hình phân tán và mô hình kết hợp.
Mô hình tập trung: là cách tổ chức theo đó doanh nghiệp sẽ đặt ban KTNB tập
trung tại văn phòng, trụ sở chính của mình. Phòng/ban KTNB sẽ phụ trách toàn bộ hoạt
động KTNB trong toàn doanh nghiệp và chịu sự điều hành trực tiếp từ TGĐ.
Ưu điểm của mô hình này là gọn nhẹ, mang tính tập trung cao. Mô hình này có
hiệu quả cao nhất đối với các doanh nghiệp có quy mô lớn nhưng các đơn vị trực thuộc,
bộ phận trực thuộc lại tập trung trên một địa bàn nhất định hoặc tương đôi gần nhau,
không khó khăn trong việc đi lại, tiết kiệm chi phí, thời gian khi tiến hành hoạt động kiểm
toán. Nhưng mô hình trên lại không phù hợp với các doanh nghiệp có quy mô lớn và các
đơn vị trực thuộc phân bố không tập trung về mặt địa lý hoặc bị chia cắt xa hơn do bộ
máy KTNB được tổ chức tập trung tại trụ sở chính của DN thì khó khăn cho các kiểm
toán viên trong việc di chuyển từ trụ sở chính tới các đơn vị ở xa, bên cạnh đó các kiểm
toán viên cũng khó có thể theo dõi sát tình hình thực tế của đơn vị trực thuộc do không
phải lúc nào cũng đi đến mọi nơi để kiểm toán được. Ngoài ra còn có rủi ro, sai sót trong
việc cung cấp thông tin từ các đơn vị trực thuộc là không thể tránh khỏi. Tổ chức theo mô
hình này DN phải bỏ ra chi phí không nhỏ cho việc ăn ở, đi lại cho kiểm toán viên khi họ

đi công tác ở đơn vị trực thuộc.
Mô hình phân tán: mô hình này được đưa ra để khắc phục những hạn chế của mô
hình tổ chức tập trung ở trên. Theo cách tổ chức của mô hình này thì các KTVNB sẽ được
phân công phụ trách một hoặc một số đơn vị có vị trí gần nhau về địa lý, đảm bảo thuận
tiện cho việc đi lại. Mô hình này có ưu điểm là tiết kiệm được chi phí công tác cho các
KTV, và nâng cao được chất lượng của các cuộc kiểm toán do KTV có điều kiện bám sát
tình hình thực tế từ đó có điều kiện thuận lợi để kiểm tra và đánh giá các mặt của hoạt

Trần Thị Thu

20


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

động sản xuất kinh doanh của từng đơn vị, kịp thời phát hiện ra sai sót và đưa ra ý kiến
tham vấn để sửa đổi kịp thời. Nhược điểm của mô hình này là khó khăn trong việc quản
lý điều hành phòng/ ban KTNB do các nhân viên ở khá xa nhau. Việc tổ chức quản lý bộ
máy KTNB không tốt có thể khiến các kiểm toán viên nội bộ hoạt động sai, mất phương
hướng trong chỉ đạo gây ra kết quả tiêu cực. Các kiểm toán viên ở xa hay gặp khó khăn
trong việc tiếp cận thông tin được đưa ra từ trưởng phòng/ ban kiểm toán hoặc nhà quản
lý cũng như sự hỗ trợ chuyên môn từ các đồng nghiệp, hoặc các chuyên gia khi họ phải
làm việc một cách độc lập.
Mô hình kết hợp: là mô hình kết hợp được cả hai mô hình nêu trên (mô hình tập
trung và mô hình phân tán). Đây là cách tổ chức mà bộ máy KTNB vừa được tổ chức tập
trung tại trụ sở chính của DN vừa được tổ chức phân tán tới các đơn vị trực thuộc. Điểm
nổi bật là các kiểm toán viên không phải hoạt động toàn thời gian tại các đơn vị trực
thuộc mà vẫn có thời gian làm việc tại trung tâm. Bên cạnh đó các kiểm toán viên có thể

hoán đổi vị trí cho nhau để phát huy tối đa tính khách quan. Nhưng nhược điểm của hình
thức này vẫn là tốn một lượng chi phí công tác, KTV sau một thời gian làm việc được
hoán đổi có thể chưa kịp bắt nhập với môi trường làm việc của đơn vị trực thuộc khác…
Dù DN tổ chức bộ máy KTNB theo mô hình nào, DN cũng phải đảm bảo cho bộ
phận KTNB có một vị trí độc lập, hoạt động khách quan, chỉ chịu sự điều hành của lãnh
đạo cao nhất trong DN.
1.2.4. Cơ cấu bộ máy kiểm toán nội bộ
Bộ phận KTNB có thể tổ chức thành một phòng/ ban KTNB. Người đứng đầu bộ
phận này được gọi là trưởng phòng / ban KTNB hoặc kiểm toán trưởng. Tiếp đến là phó
phòng/ban KTNB (nếu có), nhóm trưởng KTNB và KTVNB. Số lượng KTVNB phụ
thuộc vào quy mô kinh doanh, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, địa bàn hoạt động,
số lượng các đơn vị thành viên, tính chất phức tập của công việc số lượng nhân viên, yêu
cầu quản lý và trình độ năng lực của các KTVNB. Bộ phận KTNB phải được tổ chức độc
lập với các bộ phận quản lý và điều hành kinh doanh trong DN (kể cả phòng kế toán – tài
chính), chịu sự chỉ đạo trực tiếp của TGĐ DN. Theo yêu cầu của bộ phận KTNB, TGĐ

Trần Thị Thu

21


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

DN có thể chọn chuyên gia thuộc lĩnh vực chuyên môn đặc biệt trong doanh nghiệp hoặc
thuê chuyên gia bên ngoài tư vấn (nếu cần) tham gia vào nhiệm vụ tư vấn để KTV đưa ra
được các xác định đối với một số nội dung hoặc toàn bộ cuộc kiểm toán.
1.2.5. Xây dựng quy chế kiểm toán nội bộ
Bộ phận KTNB thường xuyên yêu cầu được xác định trách nhiệm và quyền hạn

một cách rõ ràng bằng một bảng quy chế. Quy chế thường nêu ra các vấn đề sau:
• Mục đích và phạm vi của KTNB
• Quyền hạn và trách nhiệm của KTVNB (đưa ra rõ ràng về quyền tiếp cận với các
loại hồ sơ, tài liệu nào, nhân viên nào…)
• Xác định rõ KTVNB không có quyền hạn và trách nhiệm trong các hoạt động mà
họ tiến hành kiểm toán nhằm đảm bảo tính độc lập, khách quan của cuộc kiểm
toán. Mà cụ thể đó là:
Bộ phận KTNB có nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Lập kế hoạch KTNB hàng năm và thực hiện các hoạt động KTNB theo kế hoạch,
các chính sách, quy trình và thủ tục KTNB đã được phê duyệt, đảm bảo chất lượng và
hiệu quả kiểm toán.
- Kiểm tra, rà soát, đánh giá một cách độc lập, khách quan đối với tất cả các đơn
vị, bộ phận, các hoạt động của DN. Thông báo kịp thời cho lãnh đạo Dn biết những vấn
đề có thể ảnh hưởng xấu tới hoạt động của DN và đưa ra những khuyến nghị thiết thực
nhằm ngăn ngừa, khắc phục những vấn đề này.
- Đánh giá và kiến nghị các biện pháp sửa chữa, khắc phục sai sót, xử lý những vi
phạm, đề xuất các biện pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm
tra, kiểm soát nội bộ trong DN.
- Lập báo cáo KTNB, thông báo và đệ trình kịp thời các kết quả KTNB cho các
bên có liên quan theo đúng các chính sách, quy trình, quy định của DN và pháp luật.
- Đảm bảo chất lượng của công tác KTNB.
- Tuyển dụng, đào tạo và bố trí sử dụng có hiệu quả các KTV nội bộ, phát huy
năng lực và trình độ của các KTV nội bộ phục vụ cho công việc đạt hiệu quả.

Trần Thị Thu

22


ĐH Quốc tế Bắc Hà


Ngành : Kế toán – Kiểm toán

Quyền hạn của bộ phận KTNB trong DN:
- Được trang bị đầy đủ các nguồn lực cần thiết, chủ động thực hiện các nhiệm vụ
của mình theo kế hoạch đã được phê duyệt.
- Được cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu, hồ sơ cần thiết cho công
tác KTNB.
- Được tiếp cận, xem xét tất cả các quy trình nghiệp vụ, các tài sản và tiếp cận,
phỏng vấn tất cả các cán bộ, nhân viên trong DN khi thực hiện KTNB.
- Được giám sát, đánh giá, theo dõi các hoạt động sửa chữa, khắc phục, hoàn thiện
của các đơn vị, bộ phận đối với các vấn đề mà KTVNB đã ghi nhận và có khuyến nghị.
Trách nhiệm của bộ phận KTNB:
- Bảo mật tài liệu, thông tin theo đúng quy định pháp luật hiện hành.
- Chịu trách nhiệm trước lãnh đạo DN về kết quả công việc KTNB, về những đánh
giá, kết luận, kiến nghị, đề xuất trong các báo cáo KTNB.
- Theo dõi kết quả thực hiện các kiến nghị sau KTNB của các đơn vị, bộ phận
trong DN.
1.2.6. Tiêu chuẩn của kiểm toán viên nội bộ
Theo Quyết định 832/TC- QĐ-CĐKT- ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ của Bộ
tài chính thì người được bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ làm KTVNB phải có đủ các
tiêu chuẩn sau:
• Có phẩm chất trung thực, khách quan, chưa có tiền án và chưa bị kỷ luật từ mức
cảnh cáo trở lên do sai phạm trong quản lý kinh tế, tài chính, kế toán.
• Đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán hoặc quản trị kinh
doanh.
• Đã công tác thực tế trong lĩnh vực quản lý tài chính, kế toán từ 5 năm trở lên trong
đó có ít nhất 3 năm làm việc tại doanh nghiệp nơi được giao nhiệm vụ kiểm toán
viên.
• Đã qua huấn luyện nghiệp vụ kiểm toán, KTNB theo nội dung chương trình thống

nhất của Bộ tài chính và được cấp chứng chỉ.

Trần Thị Thu

23


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

Đây là những tiêu chuẩn chung nhất khi bổ nhiệm một người không học trong lĩnh
vực kiểm toán vào làm KTVNB. Ngoài ra KTVNB còn phải biết ứng xử khéo léo khi tiếp
xúc với các cá nhân khác và khi đưa ra ý kiến một cách có hiệu quả về các vấn đề như:
mục tiêu kiểm toán, đánh giá, kiến nghị. Luôn luôn học hỏi và rèn luyện kỹ năng và kiến
thức của mình qua việc không ngừng học tập cả ở trong lĩnh vực chuyên môn và các lĩnh
vực có liên quan tới công việc của họ. Đồng thời rèn luyện tính thận trọng nghề nghiệp
đúng mực, thích ứng với sự phức tạp của nhiệm vụ kiểm toán cần thực hiện, xem xét và
đối chiếu trong phạm vi hợp lý cho phép.
1.3. Tổ chức công tác KTNB tại doanh nghiệp
1.3.1. Lập kế hoạch kiểm toán
Lập kế hoạch KTNB là bước công việc đầu tiên của tổ chức công tác KTNB nhằm
tạo ra tất cả tiền đề và điều kiện cụ thể trước khi thực hành KTNB. Đây là công việc có ý
nghĩa quyết định chất lượng KTNB.
Lập kế hoạch KTNB là việc xây dựng nội dung, thời gian, phạm vi và phương
pháp KTNB trong điều kiện sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính, số lượng và chất lượng
KTV nội bộ để công việc KTNB tiến hành có hiệu quả, đúng thời hạn. Lập kế hoạch
KTNB gồm các bước sau: Lập kế hoạch KTNB năm, thu thập thông tin về bộ phận được
KTNB, lập kế hoạch chi tiết cho từng cuộc KTNB và thiết kế chương trình KTNB.
Bước 1: Lập kế hoạch KTNB năm

Kế hoạch KTNB năm bao gồm các định hướng cơ bản, nội dung trọng tâm và
phương pháp tiếp cận chung của các cuộc KTNB trong năm. Bản kế hoạch này được lập
trên cơ sở đánh giá các thông tin tổng quát về tình hình hoạt động và môi trường kinh
doanh của các bộ phận, các nghiệp vụ trong DN. Bộ phận hay nghiệp vụ nào có mức độ
rủi ro cao hơn sẽ được đưa vào lịch KTNB năm. Bản kế hoạch KTNB năm giúp KTV nội
bộ dự tínhvà tổng hợp được khối lượng công việc cần thực hiện, thời gian hoàn thành và
nhân lực cần thiết đối với các cuộc KTNB trong năm, nó là cơ sở để lập kế hoạch KTNB
chi tiết, là cơ sở chỉ đạo thực hiện và soát xét kết quả các cuộc KTNB trong năm. Kế

Trần Thị Thu

24


ĐH Quốc tế Bắc Hà

Ngành : Kế toán – Kiểm toán

hoạch KTNB năm do người phụ trách bộ phận KTNB lập và trình ban lãnh đạo DN
duyệt. Để lập kế hoạch KTNB năm cần phải:
- Xác định mục tiêu KTNB: là xác định những vấn đề cần đạt được sau khi công
việc KTNB trong năm hoàn thành. Để xác định được mục tiêu của KTNB cần phải nghiên
cứu các yếu tố: Yêu cầu quản lý, năng lực của nhân viên, nguồn lực và thời gian sẵn có,
tính chất cấp bách của công việc, các cách tiếp cận. Mục tiêu được xây dựng không phải
cho mọi hoàn cảnh, khi có những điều kiện thay đổi, các mục tiêu cần phải được đánh giá
lại với những chỉnh sửa thích hợp.
- Xác định nội dung KTNB của năm: là các công việc lớn mà KTNB cần phải thực
hiện theo từng loại hình KTNB của năm.
- Xác định phạm vi KTNB của năm: là giới hạn về không gian và thời gian của đối
tượng kiểm toán.Công việc KTNB phải thực hiện theo trọng tâm của từng nội dung

KTNB như xác định số lượng các đơn vị thành viên, các bộ phận, nghiệp vụ cần phải
KTNB, xác định thời kỳ KTNB đối với từng đối tượng. Phạm vi kiểm toán phải chỉ rõ đối
tượng cụ thể của kiểm toán là gì, các bảng khai tài chính, tất cả các loại nghiệp vụ hay chỉ
một vài nghiệp vụ cụ thể, sự tuân thủ pháp luật…
- Xác định nguồn lực cần thiết để thực hiện cuộc KTNB: Căn cứ vào mục tiêu và
phạm vi cuộc kiểm toán, người phụ trách bộ phận kiểm toán nội bộ phải xác định những
nguồn lực cần thiết để thực hiện cuộc kiểm toán. Nguồn lực bao gồm nhân lực, ngân sách
tài chính, phương tiện, công cụ cần huy động. Xác định số lượng và cơ cấu KTV nội bộ
tham gia thực hiện cuộc KTNB theo nguyên tắc độc lập, khách quan, phù hợp với sở
trường và năng lực của KTV nội bộ. Chuẩn bị điều kiện vật chất cơ bản phục vụ công tác
KTNB như kinh phí, các phương tiễn hỗ trợ công tác KTNB, giấy tờ liên hệ công tác, tài
liệu làm căn cứ pháp lý cho cuộc KTNB…
Bước 2: Thu thập thông tin về bộ phận, đơn vị được KTNB
Trong kế hoạch KTNB năm, mục tiêu và phạm vi KTNB đã được xác định. Để xây
dựng kế hoạch chi tiết và thiết kế chương trình KTNB, KTV nội bộ cần phải tiến hành thu
thập thông tin về bộ phận, đơn vị được KTNB, bao gồm:

Trần Thị Thu

25


×