Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.73 KB, 19 trang )

Nhóm 3
LỜI MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết công nghiệp hóa – hiện đại hóa là con đường tốt
nhất để giúp một đất nước phát triển kinh tế, thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu.
Từ đó làm nền tảng, cơ sở vật chất và kỹ thuật để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt đối với nước ta,kinh tế còn kém phát triển, công nghiệp chậm phát
triển, nông nghiệp còn lạc hậu thì sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa – hiện đại
hóa là biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa thì con người, nguồn
nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự thành công hay
thất bại, tính hiệu quả của quá trình này. Để đạt được sự phát triển, tính hiệu quả
của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa thì cần phải có những chính sách
phát triển con người, nâng cao chất lượng nguồn lao động, phân bổ, sử dụng
hợp lý. Ở nước ta nguồn nhân lực có nhiều ưu điểm, lợi thế song cũng có những
mặt hạn chế. Vấn đề sử dụng và đào tạo nguồn nhân lực lại chưa thực sự hợp lý.
Chính vì vậy việc phát huy và sử dụng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là một điều hết sức cần thiết và
cần có những sự quan tâm đúng mức.
Với đề tài thảo luận:
“Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
ở Việt Nam hiện nay”
Chúng tôi xin được phân tích vấn đề theo kết cấu như sau:
Chương I: Sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa và nguồn nhân lực trong
quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa thời kỳ đổi mới
Chương II: Thực trạng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện
đại hóa ở nước ta hiện nay
Chương III: Một số giải pháp, kiến nghị để phát huy nguồn nhân lực trong sự
nghiệp

công nghiệp



hóa-

hiện

đại hóa



Việt

Nam

hiện

nay.

Mặc dù đã cố gắng để hoàn thành bài thảo luận,tuy nhiên vẫn không thể tránh
khỏi những sai sót, kính mong thầy cô và các bạn góp ý để bài thảo luận được
hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
1


Nhóm 3

Chương 1: Sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa và nguồn nhân lực
trong quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa thời kỳ đổi mới
1.1 Công nghiệp hóa1.1.1 Đổi mới tư duy

hiện đại hóa thời ký đổi mới

về công nghiệp hóa- hiện đại hóa

Ở giai đoạn trước đổi mới, công nghiệp hóa được hiểu là trang bị kỹ thuật
hiện đại cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thay thế lao động thủ công thành một
nước cơ khí hóa, biến một ngước kém phát triển thành một nước có cơ cấu công
nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Từ những thực tiễn Việt Nam lúc bấy giờ, với những nhìn nhận, đánh giá
“nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12/1986) đã nghiêm khắc chỉ ra những sai
lầm trong nhận thức và chủ trương công nghiệp hóa thời kỳ 1960-1985, mà trực
tiếp là mười năm 1975-1985. Dựa vào đó, Hội nghị Trung ương lần thứ bảy
khóa VII (tháng 1/1994), đã có bước đột phá mới trong nhận thức về khái niệm
công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH): “Công nghiệp hóa-hiện đại hóa là
quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doing, dịch
vụ, quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng
một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển công nghiệp và tiến bộ khoa họccông nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Đại hội VIII của Đảng (tháng 6/1996) nhìn lại đất nước sau mười năm đổi
mới đã có nhận định quan trọng: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã
hội, nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề
cho công nghiệp hóa đã cơ bản hoàn thành cho phép nước ta chuyển sang thời
ký mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
1.1.2
a.

Mục tiêu, quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: cải biến nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở - vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu

kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững
chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
2


Nhóm 3
Để thực hiện được mục tiêu cơ bản trên, ở mỗi thời kyfphair đạt được những
mục tiêu cụ thể. Đại hội X xác định mục tiêu đẩy mạnh công nhiệp hóa, hiện đại
hóa gắn với phát triển kinh tế tri thứcđể sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng
kém phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
b.

Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước trong thời kỳ đổi mới được hội nghị lần thứ bảy ban chấp hành
trung ương khóa VII nêu ra và được phát triển, bổ sung qua các địa hội VIII,
IX, X của Đảng:
- Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững.
- Bốn là, coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo

tồn đa dạng sinh học.
1.2 Vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại
hóa ở Việt Nam hiện nay
Xuất phát từ thực tế của đất nước trước và sau đổi mới cũng như nắm bắt
được xu hướng đầu tư, phát triển của các nước trên thế giới, từ đại hội Đảng lần
thứ VI đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức ngày càng đầy đủ hơn
vai trò của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Con người luôn được
coi vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) của Đảng đã ghi rõ: “Con người là trung tâm của
chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển” 1. Đồng thời, trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, được thông qua tại Đại hội Đảng
3


Nhóm 3
lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phát
chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế
cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền
vững”. Nguồn lực con người được coi là nguồn lực quan trọng nhất, “quí báu
nhất, có vai trò quyết định, đặc biệt đối với nước ta, khi nguồn lực tài chính và
nguồn lực vật chất còn hạn hẹp”. Nó là yếu tố quyết định cho sự thành công của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
1.2.1Con người là nhân tố chủ chốt, sử dụng các nguồn lực khác phục vụ cho
quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên …đều chỉ tồn tại ở dạng
tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi kết hợp với
nguồn lực con người thông qua sự hoạt động ý thức của con người. Bởi lẽ con

người là nguồn duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết lợi dụng các nguồn
lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp cũng tác động
vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các nguồn lực khác chịu sự cải
tạo, khai thác của con người và nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích
của con người nếu con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các
yếu tố thì yếu tố con người quan trọng nhất. Chẳng hạn như vốn, tài nguyên là
những nguồn lực để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng chúng chỉ
trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết cho sự phát triển khi nằm trong tay
của người biết khai thác và sử dụng chúng. Thiếu sự hiện diện của con người thì
mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa.
1.2.2 Các nguồn lực khác là có hạn , có thể bị khai thác cạn kiệt còn nguồn lực
con người là vô tận.
Nguồn lực con người không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà
còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội nếu biết
chăm lo, bồi dưỡng hợp lý. Đó là cơ sở để làm cho năng lực và hoạt động thực
tiễn của con người phát triển như một quá trình vô tận. Nhờ vậy con người đã
từng bước làm chủ tự nhiên, sáng tạo, khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên
mới, nhiều công cụ sản xuất mới, đưa xã hội chuyển qua các nền văn minh từ
thấp đến cao.
1.2.3 Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng lớn
4


Nhóm 3
Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng lớn một khi nó được vật thể hóa
để trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển vũ bão của cuộc cách
mạng khoa học kĩ thuật công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các
nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế trí thức. ở những nước
này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và chiếm tỷ trọng cao.
Nguồn lợi mà học thu được từ lao động chất xám chiếm tới ½ tổng giá trị tài sản

quốc gia. Giờ đây sức mạnh trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc cách mạng con
người có thể tạo ra những máy móc “ bắt chước ” hay phỏng theo những đặc
tính trí tuệ của chính con người. Rõ rang bằng những kỹ thuật công nghệ hiện
đại do chính bàn tay khối óc con người mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến
sự biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình.
1.2.4. Kinh nghiệm thực tiễn về vai trò nguồn nhân lực trong chính nước ta
Từ sự nghiệp đổi mới của chính nước ta trong những năm qua cho thấy,
sự thành công của công nghiệp hóa- hiện đại hóa phụ thuộc chủ yếu vào hoạch
định đường lối chính sách, cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào
năng lực nhân thức và hoạt động thực tiễn của con người. Không có những nhà
chính khách, các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học công nghệ…thì
khó có thể có được những chính sách và chiến lược phát triển đúng đắn. Không
có những nhà kinh doanh tài ba thì cũng sẽ không có người sử dụng một cách
hiệu quả các nguồn vốn, tài nguyên, công nghệ.
Như vậy: Qua những phân tích trên chúng ta có thể thấy được rằng, nguồn
nhân lực là nguồn lực có vai trò quyết định sự thành công của quá trình công
nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Do vậy muốn công nghiệp hóa-hiện đại hóa
được thành công thì phải đổi mới, quan tâm đến các chính sách đầu tư cho các
ngành khoa học, văn hóa, giáo dục nhằm phát triển nguồn lực con người.
Chương II: Thực trạng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hóahiện đại hóa ở nước ta hiện nay
2.1 Những ưu điểm nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp
hóa hiện đại hóa hiện nay, vận dụng và phát huy
2.1.1 Những ưu điển của nguồn nhân lực ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp
hóa- hiện đại hóa hiện nay
a. Lực lượng lao động dồi dào :

5


Nhóm 3

Theo số liệu tính đến năm 2009 thì nước ta có khoảng 43,8 triệu người nằm
trong độ tuổi lao động tức chiếm khoảng 51,1 % dân số. Mỗi năm có thêm
khoảng 1,8 triệu người bước thêm vào độ tuổi lao động (từ 15 trở lên )trong khi
đó số người ra khỏi độ tuổi lao động (từ 60 trở lên ) chỉ là 0,35 triệu người , dự
tính trong các năm tới mức tăng dân số trong độ tuổi lao động là khoảng 2,5 %.
Việt Nam đang ở trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng “. Với một lực lượng lao
động dồi dào, giá rẻ như vậy sẽ là một lợi thế lớn, tiềm năng và thế mạnh lớn để
giúp cho phát triển kinh tế đối với một nước đang phát triển và đang tiến hành
công nghiệp hóa – hiện đại hóa như nước ta.
Với nguồn nhân lực dồi dào thì việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước
ta sẽ thuận lợi hơn rất nhiều, nhiều dự án đầu tư cần nguồn nhân lực lớn đã
được triển khai ở nước ta như : may mặc, da giày, chế biến thủy hải sản, cơ khí,
điện tử, điện lạnh.....giải quyết công ăn việc làm cho một lực lượng lớn lao động
xã hội.
b.Tỷ trọng lao động trẻ cao:
Tỷ trọng lao động trẻ cao, phần lớn có văn hóa phổ thông. Ở Việt Nam mỗi
năm dân số bước vào độ tuổi lao động là khá cao (khoảng 1,8 triệu người ), lực
lượng lao động trẻ dồi dào và có văn hóa phổ thông có nhiều lợi thế như là có
sức khỏe, năng động, có khả năng tiếp thu kiến thức nghề nghiệp dễ dàng, ngay
cả đối với các ngành mới, họ có khả năng thích ứng với môi trường mới nhanh
hơn và có nhiệt huyết với nghề nghiệp .Một nền kinh tế trẻ, năng động và phát
triển.
c. Lượng lao động Việt Nam ở nước ngoài :
Chúng ta đã và đang thực hiện việc xuất khẩu lao động sang các thị trường
truyền thống như Ma-lai-xi-a, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, các nước Trung
Đông và Bắc Phi; đồng thời cũng mở rộng thị trường ra các nước có nhiều tiềm
năng như các nước châu Âu, châu Úc, Bắc Mỹ… hằng năm thu về hàng triệu đô
la từ xuất khẩu lao động. Việc xuất khẩu lao động còn là cơ hội tốt để xây dựng
thương hiệu nguồn nhân lực của Việt Nam, tăng khả năng cạnh tranh trên thị
trường lao động

d. Tố chất của lao động Việt Nam
Người Việt Nam vốn có bản tính hiếu học, thông minh, cần cù lao động và đoàn
kết. Đó là cơ sở cho việc nắm bắt, tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng
những sáng tạo, những phát minh, sáng kiến khoa học của nhân loại phục vụ
6


Nhóm 3
cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tính cộng đồng, ý thức
trách nhiệm với cộng đồng được phát huy mạnh mẽ có thể hỗ trợ đắc lực không
chỉ cho việc truyền bá tay nghề, kinh nghiệm nghề nghiệp mà còn có thể giúp
nhau về vốn, tạo dựng và phát triển cơ nghiệp, giúp nhau về công ăn việc làm.
Đây là một trong những ưu điểm mạnh nhất của lao động Việt Nam.
2.1.2 Vận dụng, phát huy những ưu điểm của nguồn nhân lực ở Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa hiện nay
Nhận thấy rõ những mặt ưu điểm của nguồn nhân lực trong nước Đảng và nhà
nước ta cùng các cấp các nghành, các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực đã có những
động thái tích cực nhằm tạo điều kiện nhằm phát huy những thế mạnh của
nguồn nhân lực nước nhà:
*Xây dựng chính sách thu hút, khuyến khích nguồn nhân lực chất lượng cao
Lao động có trình độ cao là lao động có khả năng đáp ứng nhưng nhu cầu
phức tạp trong công việc từ đó tạo ra năng suất lao động và hiệu quả cao.Theo
tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thì nguồn lao động có chất lượng cao bao
gồm những người có trình độ đào tạo tốt nghiệp từ đại học trở lên hoặc những
người đang thực hiện công việc tương đương với trình độ đại học. Như vậy
nguồn nhân lực phải qua đào tạo về chuyên môn, sau đó tiếp tục được bồi
dưỡng, tích lũy kiến thức, kĩ năng khác trong hoạt động trí công phù hợp với vị
trí công tác.
Nội dung của chính sách thu hút nguồn lao động có trình độ cao
Chính sách thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao là tổng thể các chính sách

của trình phủ nhằm kêu gọi, tạo thuận lợi nhất về mọi mặt để những người có
trình độ cao đến làm việc cho mình.
Nhà nước đã đề ra những chính sách như: Chính sách xúc tiến thu hút,chính
sách đãi ngộ và tạo động lực lao động, chính sách sử dụng lao động hợp lý và
thiết thực, chính sách tạo dựng môi trường và điều kiện làm việc, chính sách tạo
cơ hội đào tạo và phát triển.
Ví dụ: Tỉnh Quảng Nam trong năm 2010 vừa qua đã thực hiện chính sách thu
hút nguồn nhân lực vào làm việc tại các cơ quan nhà nước và đạt được thành
tựu. Tính đến cuối năm 2010 tỉnh đã thu hút được 106 người trong đó có 1 tiến
sĩ, 53 thạc sĩ, 70 người tốt nghiệp đại học loại giỏi. Trong đó có 80 người về làm

7


Nhóm 3
việc trong các đơn vị sự nghiệp, chủ yếu là trường đại học cao đẳng, 26 người
làm việc trong các cơ quan hành chính.
-Nhà nước khuyến khích cá nhân, tổ chức tư nhân và nước ngoài tham gia phát
triển giáo dục và khoa học công nghệ : Việc phát triển giáo dục và khoa học
công nghệ góp một phần không nhỏ vào việc thúc đẩy phát huy những ưu điểm
của nguồn nhân lực Việt Nam. Với việc đầu tư phát triển giáo dục sẽ tạo ra
nguồn lực có chất lượng cao hơn, đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Thêm vào
đó, việc phát triển khoa học công nghệ thúc đẩy quá trình lao động nhanh hơn,
tạo ra sản phẩm chất lượng đồng thời là động lực cho người học lao động.
Chính sách xây dựng và phát triển hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội
trú, tạo nguồn, đào tạo học sinh dân tộc thiểu số
Thực hiện Luật Giáo dục, Chính sách ưu tiên cử tuyển học sinh, sinh viên vào
các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp
- Chính sách ưu tiên điểm đối với thí sinh thi tuyển đầu vào các trường đại học,
cao đẳng được quy định theo Quy chế Tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính

quy đặt ra là chính sách cộng thêm điểm.
-Chính sách hhỗ trợ sinh hoạt phí đối với học sinh dân tộc bán trú địa bàn các xã
đặc biệt khó khăn.
Nhưng bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều những bất cập, thiếu sót . Trước tình trạng
đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng chính sách giáo dục và đào tạo từ nay
đến năm 2020 với các trọng tâm:
- Tiếp tục củng cố cơ sở vật chất, phát triển hệ thống trường, lớp, cơ sở giáo
dục; Triển khai chương trình, nội dung, phương pháp dạy học phù hợp; Nâng
cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội; chức tốt các hình thức giáo dục nhằm giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc; Phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý, quan tâm
đời sống của đội ngũ giáo viên (trong đó có chính sách đặc thù cho các vùng
dân tộc và miền núi); Tăng tỷ lệ ngân sách cho giáo dục vùng dân tộc.
- Xây dựng và bổ sung chính sách phù hợp bao gồm: chính sách về tuyển sinh
đào tạo và sử dụng sau đào tạo; về đãi ngộ, phát triển, luân chuyển đội ngũ giáo
viên các cấp; về tài chính và huy động nguồn lực đầu tư; chú trọng ưu đãi cho
cán bộ công tác ở các sở, phòng giáo dục và đào tạo vùng đặc biệt khó khăn.
- Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quản lý.
- Vận động sâu rộng toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục và đào tạo (xã hội
hóa giáo dục đào tạo).
8


Nhóm 3
*Hoàn thiện chính sách giáo dục và đào tạo góp phần phát triển nguồn nhân
lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Tại Đại hội VI, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Trong
Báo cáo chính trị được thông qua tại Đại hội đã đề ra mục tiêu của giáo dục là:
“Hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ,
đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật, đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu

cầu phân công lao động của xã hội”. Đại hội này đã xác định sự nghiệp giáo
dục, nhất là giáo dục đại học và chuyên nghiệp phải trực tiếp góp phần vào việc
đổi mới công tác quản lý kinh tế và xã hội. Kế hoạch phát triển giáo dục phải
gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương và trong cả nước.
Đây chính là cơ sở, tiền đề để Đảng ta ngày càng hoàn thiện hệ thống quan
điểm, đồng thời là cơ sở để Nhà nước hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật
về phát triển giáo dục và đào tạo. Điều này đã được thể hiện cụ thể trong các
văn kiện Đại hội Đảng, các văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương và
trong các văn kiện của Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa VII, VIII, IX, X.
Tiếp tục các quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục và đào tạo, các văn kiện
trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định một cách toàn diện và cụ
thể hơn quan điểm và định hướng đổi mới giáo dục và đào tạo để phù hợp với
tiến trình phát triển của đất nước và khắc phục những tồn tại, yếu kém trong
thời gian vừa qua.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) đưa ra định hướng phát triển giáo dục và đào tạo
trong thời kỳ quá độ: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát
triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất
nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào
tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư
cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu
cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục
vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội
học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời”(3).
Theo đó, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011 - 2020) đã đề ra mục tiêu
về giáo dục và đào tạo là: giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đến năm 2020,
có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục, y tế đạt trình độ tiên tiến,
hiện đại; số sinh viên đạt 450 trên một vạn dân và phát triển nhanh nguồn nhân

lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo
dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và
hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ
giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt...
* Xây dựng những nghiên cứu dự báo về nhu cầu nguồn nhân lực

9


Nhóm 3
Dự báo về nguồn nhân lực là một nhiệm vụ cần thiết đối với mọi quốc gia, là
cơ sở của các dự báo khác, là nguồn tài liệu quan trọng trong việc hoạch định
các mục tiêu, giải pháp trong chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
đồng thời cũng là căn cứ để ban hành các chính sách quản lý kinh tế xã hội
trong những thời kỳ nhất định.
Những nghiên cứ nhằm dự báo về nhu cầu về nguồn nhân lực ở Việt Nam
trong những năm sắp tới đã và đang được các nhà kinh tế học tiến hành, nhằm
giúp cho việc đào tạo đúng theo nhu cầu của xã hội, giảm thiểu việc không cân
đối giữa việc đào tạo với nhu cầu của xã hội. Dự báo nguồn nhân lực có nhiều
nội dung có thể chia thành dự báo số lượng và chất lượng, dự báo cung – cầu
nguồn nhân lực. Kết quản những dự báo này sẽ dự báo nhu cầu nguồn nhân lực
vào năm 2020 và sẽ được công bố vào năm 2015. Dự báo cung – cầu nguồn
nhân lực cho biết sự thừa thiếu lao động trong các ngành, vùng, theo bằng cấp,
… để có thể có những chính sách nhằm chuyển dịch theo hướng hợp lý nhằm sử
dụng hợp lý nhất nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Ngoài ra, đây sẽ
là một căn cứ ước lượng tốt nhằm định hướng cho nhu cầu nghề nghiệp cũng
như giúp ích cho các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực về xu hướng đào tạo.
2.2 Những mặt hạn chế của nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay và nguyên
nhân
2.2.1 Những mặt hạn chế của nguồn nhân lực ở việt Nam hiện nay

Việt Nam được thế giới đánh giá là có lợi thế về dân số đông, đang trong thời
kì “dân số vàng” nên lực lược trong độ tuổi lao động khá dồi dào. Đây là nguồn
lực vô cùng quan trọng để đất nước ta thực hiện thành công Chiến lược phát
triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2012 đã được Đại hội Đảng XI thông qua
ngày 16/02/2011. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam vãn còn
thấp và cần phải được cải thiện càng sớm càng tốt.
-

Tình hình chung nguồn nhân lực nước ta hiện nay là: Sau 30 năm công
nghiệp hóa, vẫn còn khoảng 70% lao động cả nước trong lĩnh vực nông
nghiệp, tỉ lệ học sinh trên triệu dân, tỷ lệ số trường các loại trên triệu dân, tỷ
lệ tốt nghiệp đại học trên triệu dân, tỷ lệ có học vị tiến sĩ trên triệu dân của
nước ta đều cao hơn tất cả các nước có mức thu nhập bình quân đầu người
tương đương như Thái Lan, nhưng chất lượng đang có vấn đề. Điều tra của
Bộ giáo dục và đào taoh năm 2006 cho thấy cả nước có tới 63% số sinh viên
10


Nhóm 3
ra trường không có việc làm, 37% só còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào
tạo lại và có nhiều người không làm đúng nghề mà mình đã học, trong khi đó
nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh
tế quan trọng khác thiếu lực nguồn lực chuyên nghiệp. Khoảng 2/3 số người
có học vị tiến sĩ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm công tác
quản lý, số bàn báo cáo khoa học được công bố hằng năm chỉ bằng ¼ của
Thái Lan và bằng 0/00043% của thế giới, mặc dù số tiến sĩ của ta hàng năm
-

nhận bằng thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao gần gấp đội, …
Nguồn nhân lực nước ta đứng trước tình hình: trẻ (tình theo tuổi đời trung

bình – một ưu thế lớn), đông (một ưu thế lớn khác, nước có dân số đứng thứ
13 trên thế giới), nhưng tỷ lệ tính trên triệu dân của số người có nghề và có
trình độ chuyên môn rất thấp so với các nước trong nhóm ASEAN 6 và
Trung Quốc, số cán bộ kỹ trị và có trình độ quản lý cáo rất ít so với dân số

-

cũng như so với quy mô nền kinh tế.
Tác động sâu xa và lâu dài về mặt văn hóa của những tiêu cực trong lĩnh vực
giáo dục là nhiều giá trị cao quý bị mai một, với nhiều di chứng khó sửa: suy
nghĩ lệch lạc về cái học trở thành hiện tượng xã hội phổ biến, tư tưởng bằng
cấp, tình trạng chạy trường chạy điểm, bằng thật học giả, gian lận, nói dối,…
tràn lan, bệnh hình thức và thành tích chủ nghĩa để lại nhiều hậu quả trầm
trọng, tình trangh dạy và nhồi sọ cản trở đáng kể sự phát triển của mỗi cá
nhân cũng như của đất nước, … Tất cả những yếu kém này vừa đang cản trở
khả năng phấn đấu của từng cá nhân, vừa tiếp tục khoét sâu các mặt suy yếu
của xã hội, của đất nước. Đã thế, lại có khuynh hướng đổ hết mọi tội lỗi lên

-

cơ chế thị trường
Từ đó có thế rút ra mấy điểm về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam:
• Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được quan tâm
đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, chưa được
nâng cấp, còn đào tọa thì chưa đến nơi đến chốn, nhiều người chưa
được đào tạo.

11



Nhóm 3


Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn



giữa lượng và chất.
Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công
nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau



thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Có thể đánh giá tổng quát về nhân lực Việt Nam hiện nay là số lượng đông,
chất lượng không đông, thể hiện là tay nghề thấp, chưa có tác phong công
nghiệp, chưa có những tổng công trình sư, kĩ sư, nhà khoa học thật sự giỏi,
chưa có những chuyên gia giỏi, chưa có những nhà tư vấn, nhà tham mưu

giỏi.
2.2.2 Nguyên nhân:
Từ thực trạng về những hạn chế trên ta cần phải đi tìm nguyên nhân để nhằm
đưa ra những giải pháp để phát huy được nguồn nhân lực trong thời kỳ hiện nay
-

Nguồn nhân lực vẫn chưa phát huy những thành tựu giáo dục của nước ta đã
tích lũy được trước đổi mới cũng như những thành tựu của thế giới, không
khai thác lợi thế nước đi sau, thậm chí ít nhiều nhiều hoang tưởng, duy ý chí
hoặc nhân danh phát huy sang tạo đi tìm một con đường riêng, nhưng thực tế


-

là lạc lõng.
Tiêu cực và chủ nghĩa cơ hội đã làm sai lệch những ý tưởng, những mong
muốn tốt đẹp dành cho phát triển con người và nguồn nhân lực. Một số
nhóm người đã bóp méo nội dung phát triển theo khuynh hướng vào con
đường thương mại hóa, nhiều công việc thuộc giáo dục và đào tạo trở thành

-

hàng hóa và dịch vụ kiếm lợi nhuân.
Chúng ta không lường đúng những khó khăn, mâu thuẫn gay gắt giữa một
bên là khả năng rất giới hạn của nguồn lực và một bên là đòi hỏi lớn của phát
triển (cụ thể ở đây là phát triển con người và phát triển nguồn nhân lực của
một nước nghèo, đông dân, đang đứng trước yêu cầu chuyển đổi nhanh như
nước ta), không lường đúng những mặt phức tập và những khó khăn rất đa
dạng, sâu xa của lĩnh vực thiết yếu bậc nhất và rất nhạy cảm này trong đời
sống quốc gia, không nhân thức đúng những yếu kém lớn về năng lực tổ
12


Nhóm 3
chức và quản lý của bộ máy nhà nước. Duy ý chí và bệnh thành tích đầu độc
-

trầm trọng thêm tình trạng này.
Bao trùm lên tất cả là tác động của những yếu kém nằm trong những nguyên
nhân tổng hợp của thực trạng kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa của đất nước.

Phần III: Một số giải pháp, kiến nghị để phát huy nguồn nhân lực trong sự

nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở việt Nam hiện nay
3.1. Gắn kết chiến lược phát triển nhân lực và kinh tế
Trong vài năm gần đây, xu hướng đào tạo theo nhu cầu của xã hội nổi lên
với sự hợp tác của các doanh nghiệp và nhà trường trong công tác đào tạo nhân
lực. Cho thấy hướng chuyển biến tích cực trong tư duy giáo dục, tuy nhiên ở
tầm nhìn vĩ mô thì còn mang tính manh nhúm, các thông tin về nhu cầu nguồn
nhân lực quốc gia chưa đầy đủ. Mấu chốt là chúng ta phải thiết lập được mối
quan hệ chặt chẽ giữa các chiến lược phát triển nhân lực và kinh tế. Mối quan
hệ này thể hiện rõ ở chỗ, chiến lược kinh tế thể hiện rõ nhu cầu về nguồn nhân
lực, và đối với cá cơ quan lập chiến lược phát triển nhân lực phải coi đây là
thông tin đầu vào cơ bản để xây dựng phát triển nhân lực.

Sơ đồ chiến lược nhân lực với thông tin đầu vào từ các chiến lược kinh tế
Cần thiết phải thành lập một cơ quan lập kế hoạch phát triển nguồn nhân lực
quốc gia trực thuộc Chính phủ, để tạo sự liên kết ngang hàng giữa các Bộ,
ngành, địa phương với Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Các quốc gia trên thế giới như Singapore, Ấn Độ từ rất sớm đã xác định và thiết
lập được mối quan hệ giữa phát triển các chiến lược kinh tế và chiến lược nhân
lực. Đây được coi là một trong những nền tảng của sự thành công về mặt kinh
tế, khoa học kỹ thuật của các quốc gia này.
3.2

Về chính sách xã hội:

13


Nhóm 3
- Thực hiện chính sách xã hội hóa công tác phát triền nguồn nhân lực dưới
nhiều hình thức, đa dạng, phong phú nhằm huy động có hiệu quả nguồn lực tài

chính thuộc các thành phần kinh tế.
- Nhà nước tập trung đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị học tập, đào tạo nghề
đối với vùng sâu, vùng xa, vùng còn nhiều khó khăn nhằm đáp ứng yêu cầu cho
phát triển nguồn nhân lực của tỉnh, qua đó tạo điều kiện, môi trường thuận lợi
cho người lao động có thể tìm kiếm được việc làm phù hợp với năng lực, trình
độ của mình.
- Bên cạnh đó, Nhà nước cũng như các doanh nghiệp cần xây dựng chế độ đãi
ngộ xứng đáng đối với nguồn nhân lực theo mức độ cống hiến và khả năng phát
triển tương lai. Trước hết, chính sách tiền lương cần được xây dựng và thực hiện
một cách linh hoạt theo tiêu chí tài năng. Đồng thời, cần xây dựng chế độ chính
sách ưu đãi đối với nhân lực chất lượng cao để tạo động lực thu hút nhân tài
trong và ngoài nước vào làm việc tại các cơ quan nghiên cứu, cơ quan hoạch
định chính sách để họ có điều kiện phát huy cao nhất khả năng sáng tạo của
mình.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống khung khổ pháp lý phát triển và sử
dụng nhân lực phù hợp với cơ chế và thể chế kinh tế thị trường.
- Đổi mới căn bản và toàn diện chính sách về sử dụng nhân lực trong khu vực
nhà nước phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường, gồm từ khâu tuyển dụng, bố trí
công việc, trả công lao động, thăng tiến nghề nghiệp và không ngừng cải thiện
điều kiện, môi trường lao động để tạo động lực, kích thích, khuyến khích làm
việc sáng tạo và có hiệu quả cao. Xây dựng tiêu chuẩn và quy trình đánh giá
nhân lực dựa trên cơ sở năng lực thực tế, kết quả, hiệu suất, năng suất lao động
thực tế và đãi ngộ tương xứng với trình độ năng lực và kết quả công việc.
3.3 Xã hội hoá giáo dục đại học
Xã hội hoá giáo dục được hiểu trên phương diện rộng là toàn thể nhân dân,
toàn thể xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục. Xã hội hoá giáo dục là làm cho
hoạt động giáo dục trở thành hoạt động chung của toàn xã hội. Điều 1 Nghị định
73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 của Chính phủ ghi rõ: xã hội hoá hoạt động
giáo dục là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn
xã hội vào sự phát triển sự nghiệp giáo dục nhằm từng bước nâng cao mức

hưởng thụ về giáo dục trong sự phát triển về vật chất và tinh thần của nhân
dân.
14


Nhóm 3


Các trường chuyên nghiệp và đại học tập trung vào đào tạo nguồn nhân
lực đủ khả năng tiếp cận công nghệ tiên tiến như báo cáo chính trị đại hội
VIII đã chỉ ra. Phải mau chóng làm cho khoa học và công nghệ trở thành
nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.



Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu khoa học, phát triển khoa
học cả về cơ bản và ứng dụng. Bảo đảm tập trung đào tạo đội ngũ nhân
lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá với diện đại trà, đồng thời đặc biệt
chú ý tới mũi nhọn - có chính sách phát hiện bồi dưỡng và sử dụng người
tài mau chóng tăng cường đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao,
từ các nghệ nhân làm các nghề truyền thống đến các chuyên gia công
nghệ cao.



Giáo dục và đào tạo kết hợp chặt chẽ với khoa học kỹ thuật công nghệ
mới có thể đóng góp xứng đáng vào phát huy nguồn lực con người.




Tuy nhiên một yếu tố mà ngày nay con người cần phải hoàn thiện đó là:
cần coi trọng mặt đạo đức nhân cách của nguồn lực con người.

Muốn có nguồn lực con người đáp ứng được công cuộc đổi mới, giáo dục
nhà trường cùng với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội phải làm tốt việc phát
động một cao trào học tập trong toàn Đảng toàn dân, toàn quân nhằm đào tạo
nên những con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, là động lực của sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vậy mọi chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt việc chăm sóc, bồi
dưỡng và phát triển nhân tố con người.
- Bồi dưỡng tinh thần chủ động sáng tạo của sinh viên, Xây dựng đội ngũ
giáo viên và xác lập vị trí trung tâm của sinh viên trong trường
Bồi dưỡng ý thức tự chủ của sinh viên
Ý thức tự chủ của chính những sinh viên đang ngồi trên ghế giảng đường là
một yếu tố rất quan trọng quyết định nên chất lượng dầu ra nguồn nhân lực.
Trong mỗi đơn vị đào tạo, cần bồi dưỡng cho người học ý thức chủ động sang
tạo, luôn tìm tòi những cái mới, tạo động lực cho họ tìm hiểu về chuyên môn,
bản lĩnh quyết định tương lai nghề nghiệp của bản thân. Việc tổ chức cho sinh
viên hoạt động nghiên cứu khoa học một cách tích cực và sáng tạo có thể phát
15


Nhóm 3
huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi
dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.
-Xây dựng cơ sở vật chất
Tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, bảo đảm điều
kiện giảng dạy tốt nhất cho giáo viên. Mặc dù đã có quy định các trường phải sử
dụng bao nhiêu phần trăm nguồn thu từ học phí để đầu tư vào cơ sở vật chất

phục vụ giảng dạy, nhưng xem ra việc thực hiện và giám sát vẫn còn khá lỏng
lẻo nên cơ sở vật chất của nhiều trường hiện nay còn xa mới đạt chuẩn. Không
có cơ sở vật chất đủ chuẩn mực không thể gọi là trường, do vậy, muốn có một
trường đại học thì không thể coi nhẹ đầu tư cơ sở vật chất. Để có trường phải có
đất. Cần thực hiện chế độ ưu đãi trong việc sử dụng đất để xây trường như đã
quy định tại Điều 103 Luật Giáo dục. Đây là vấn đề cần được các nhà quản lý
lưu tâm hơn nữa cho quá trình thúc đẩy xã hội hoá giáo dục. Giảng đường chật
chội, thuê mượn, phòng thí nghiệm lạc hậu và thư viện nghèo nàn không thể là
nơi đào tạo có chất lượng, nhất là những ngành công nghệ tiên tiến.
- Xây dựng chương trình, giáo trình
Ngoài những yêu cầu chung, các trường đại học ngoài công lập được
thành lập và xây dựng đúng vào giai đoạn nền giáo dục đại học Việt Nam nói
riêng và thế giới nói chung đang phải đổi mới nhiều mặt. Để đáp ứng nhu cầu
đổi mới đó và đặc biệt, để nâng cao chất lượng đào tạo, vấn đề cần quan tâm
đầu tiên là phải khẩn trương đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp
đào tạo. Nội dung giáo dục phải bảo đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện
đại và có hệ thống; coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân; bảo tồn và
phát huy truyền thống tốt đẹp bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại; phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý của người học.
- Dân chủ hoá hoạt động ở trường ngoài công lập
Ngay từ năm 1998, Chính phủ đã ra Nghị định ban hành Quy chế thực hiện dân
chủ cơ sở cho phường, xã và cơ quan hành chính. Việc thực hiện dân chủ ở
trường học là vô cùng cần thiết do yêu cầu của quá trình thực hiện nhiệm vụ đào
tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Bộ Giáo dục và đào tạo từ đầu năm 2000 cũng
đã ban hành Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường. Trường
ngoài công lập là đơn vị sự nghiệp hoạt động theo chế độ sở hữu tập thể, vì vậy
trong bản Quy chế dân chủ cần nhấn mạnh đến dân chủ trực tiếp. Thông qua
dân chủ trực tiếp của cán bộ, giảng viên, nhân viên cơ hữu thì Hội đồng quản trị
16



Nhóm 3
sẽ vững mạnh vì thường xuyên nắm bắt được ý nguyện của người lao động để
thực hiện thật chuẩn mực những việc quản lý hàng ngày, và ngược lại, Hội đồng
quản trị vững mạnh, đoàn kết thì bảo đảm được đầy đủ các điều kiện thuận lợi
cho người lao động thực hiện quyền dân chủ trực tiếp. Phát huy dân chủ trực
tiếp là vấn đề có tầm chiến lược để trường ngoài công lập phát triển bền vững,
tạo lập được chỗ đứng xứng đáng trong hệ thống các trường đại học của nước
nhà.
- Hoàn thiện cơ chế giám sát của Nhà nước đối với đại học
Giám sát là “theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy
định không”. Trong hoạt động giám sát, theo dõi và kiểm tra là hai công việc
nối tiếp nhau. Trên cơ sở kết quả của giám sát, người ta sẽ thực hiện việc kiểm
định đào tạo. Kiểm định đào tạo là một quá trình xác nhận tình trạng một cơ sở
đào tạo hoặc một chương trình đào tạo sau khi đã kiểm tra nhằm công nhận cơ
sở hoặc chương trình đó về mức độ hoàn thành nhiệm vụ, tính toàn vẹn và chất
lượng đào tạo, làm cho cộng đồng giáo dục và công chúng tin cậy ở cơ sở đào
tạo và chương trình đó. Kiểm định đào tạo có chức năng quan trọng là khuyến
khích mọi cố gắng để hướng tới việc nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và
đào tạo.
Sự phát triển nhanh của các khu vực giáo dục đại học đòi hỏi Nhà nước
cần có một chính sách đối xử bình đẳng giữa khu vực công lập và ngoài công
lập, đồng thời phải quan tâm giám sát về chất lượng và tính hợp lý của các
chương trình đào tạo. Bộ Giáo dục và đào tạo phải xiết chặt công tác kiểm tra và
chỉ khi đạt được tiêu chuẩn về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất mới cho phép
tuyển sinh.
4, Kiến nghị với các cấp, ngành, cơ quan quản lý nguồn nhân lực.
-Tăng cường các hoạt động dự báo cung - cầu nguồn nhân lực chất lượng cao
Dự báo nguồn nhân lực là nhiệm vụ có thể giao cho chính bản thân các cơ sở
đào tạo hoặc các cơ sở nghiên cứu dự báo tư nhân tiến hành. Tuy nhiên, vai trò

của nhà nước là không thể thiếu, đặc biệt khi cần phải xây dựng các trung tâm
dự báo có quy mô quốc gia hoặc quy mô khu vực. Thêm vào đó, Nhà nước cũng
cần phải có những cơ chế và quy định cụ thể để các trung tâm dự báo này có thể
tiếp cận được với các cơ sở cẩn thiết phục vụ cho việc dự báo.
-Giảm tỉ lệ gia tăng dân số, nhằm tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực
17


Nhóm 3
Gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản
trở tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, gây khó khăn lớn cho việc cải thiện đời
sống, hạn chế phát triển về trí tuệ, văn hóa và thể lực của người lao động. Khi
nền kinh tế đang ở trong giai đoạn phát triển, sự gia tăng về dân số sẽ dẫn tới
giảm chất lượng về đời sống, về đào tạo. Cơ cấu dân số hợp lý sẽ tạo điều kiện
cho việc phát triển đồng bộ về chất lượng cuộc sống, giáo dục đào tạo và đảm
bảo tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động hàng năm hợp lý, hình thành
nguồn nhân lực chất lượng cao, tiến tới cân bằng cung và cầu lao động.

KẾT LUẬN
Trong điều kiện nước ta hiện nay, để chiến lược phát triển theo hướng
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đi đến thắng lợi chúng phải lấy nguồn lực,
nguồn lực nội sinh- làm động lực cho sự phát triển lâu bền. Để bồi dưỡng và
18


Nhóm 3
phát huy nguồn lực con người Việt Nam với tư cách đó, chúng ta cần phải tạo ra
mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với tiến bộ xã hội, đảm bảo
công vụ và quyền lợi công dân, cải thiện nâng cao về chất lẫn tinh thần; giải

quyết hợp lý mối quan hệ giữa lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt, lợi ích quốc
gia, dân tộc và lợi ích tập thể, lợi ích cá nhân; không ngừng nâng cao trình độ
học vấn, văn hóa cho họ trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

19



×