Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Thuyết minh về tà áo dài việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.65 KB, 24 trang )

Thuyết minh về tà áo dài Việt Nam.
Mong các bạn có thể giúp mình !

Trích:
Nguyên văn bởi huck

Chú ý:Viết chữ có dấu.
Thân!

Thảo luận 2
I/Mở bài
-Nêu lên đối tượng:Chiếc áo dài VN
VD: Trên thê giới, mỗi Quốc gia đều có một trang phục của riêng mình.Từ xưa đến nay,
chiếc áo dài đã trở thành trang fục truyền thống của phụ nữ VN...

II/Thân Bài
1.Nguồn gốc, xuất xứ
+Ko ai biết chính xác áo dài có từ bao giờ
+Bắt nguồn từ áo tứ thân TQuốc
+Căn cứ vào sử liệu, văn chương, điêu khắc, hội hoa, sân khấu dân gian.....chúng ta đã
thấy hình ảnh tà áo dài qua nhiều giai đoạn lịch sử
- Tiền thân của áo dài VN là chiếc áo giao lãnh , hơi giống áo từ thân , sau đó qua lao
động, sản xuất chiếc áo giao lãnh mới được chính sửa để phù hợp vs đặc thù lao động
-> áo tứ thân & ngũ thân .

- Người có công khai sáng là định hình chiếc áo dài VN là chúa Nguyễn Phúc Khoát .
Chiếc áo dài đầu tiên được thiết kế tại thời điểm này là sự kết hợp giữa váy của người
Chăm và chiếc váy sườn xám của người trung hoa....==> áo dài đã có từ rất lâu.
2.Hiện tại
+tuy đã xuất hiện rất nhiều nhữg mẫu mã thời trang, nhưng chiếc áo dài vẫn giữ được
tầm quan trọng của nó, và trở thành bộ lêx phục của các bà các cô mặc trog các dịp lễ




đặc biệt..
+đã được tổ chức Unesco công nhận là 1 di sản Văn hoá phi vật thể, là biểu tượng của
người fụ nữ VN.
3.Hình dáng
-Cấu tạo
*Áo dài từ cổ xuống đến chân
*Cổ áo may theo kiểu cổ Tàu, cũng có khi là cổ thuyền, cổ tròn theo sở thik của người
mặc. Khi mặc, cổ áo ôm khít lấy cổ, tạo vẻ kín đáo.
*Khuy áo thường dùng = khuy bấm, từ cổ chéo sang vai rồi kéo xuống ngang hông.
*Thân áo gồm 2 phần: Thân trước và thân sau, dài suốt từ trên xuống gần mắt cá
chân.
*áo được may = vải 1 màu thì thân trước thân sau sẽ được trang trí hoa văn cho áo
thêm rực rỡ.
*thân áo may sát vào form người, khi mặc, áo ôm sát vào vòng eo, làm nổi bật những
đường cong gợi cảm của người fụ nữ.
*tay áo dài ko có cầu vai, may liền, kéo dài từ cổ áo--> cổ tay.
*tà áo xẻ dài từ trên xuống, giúp người mặc đi lại dễ dàng, thướt tha, uyển chuyển.
*áo dài thường mặc với quần đồng màu hoặc màu trắng = lụa, satanh, phi bóng....với
trang fục đó, người fụ nữ sẽ trở nên đài các, quý fái hơn.
-Thợ may áo dài phải là người có tay nghề cao, thợ khéo tay sẽ khiến áo dài khi mặc
vào ôm sát form người.
-Áo dài gắn liền tên tuổi của những nhà may nổi tiếng như Thuý An, Hồng Nhung, Mỹ
Hào, ....., đặc biệt là áo dài Huế màu tím nhẹ nhàng...
-Chất liệu vải phong phú, đa dạng, nhưng đều có đặc điểm là mềm, nhẹ, thoáng mát.
Thường là nhiễu, voan, nhất là lụa tơ tằm...
-Màu sắc sặc sỡ như đỏ hồng, cũng có khi nhẹ nhàng, thanh khiết như trắng, xanh
nhạt...Tuỳ theo sở thích, độ tuổi. Thướng các bà, các chị chọn tiết dê đỏ thẫm...
3.Áo dài trong mắt người dân VN và bạn bè quốc tế

-Từ xưa đến nay, áo dài luôn được tôn trọng, nâng niu....
-phụ nữ nước ngoài rất thích áo dài
4.Tương lai của tà áo dài


III.Kết bài
Cảm nghĩ về tà áo dài, ...
__________________
xã hội bất công nuôi ta lớn
giang hồ hiểm ác dạy ta khôn
[SIZE=4][COLOR=#0000ff][COLOR=DarkGreen]
Thảo luận 3
"tà áo em bay bay trên phố nhẹ nhàng"
đó là lời hát ngân nga trong âm địu vu vương đưa tâm hồn ta về với dân tộc we^
hương,với chiếc áo dài vn thúơt tha duyên dáng.
áo dài là 1 trang phục truyền thống rất riêng của đất nc vn,áo thường đc may = chất
liệu mỏng.chuyện kể rằng xưa những loại gấm tơ tầm đc dệt lên = bàn tay chăm chỉ
của ng` nông dân cần mẫn trồng dâu nuôi tầm lấy kén nhã tơ rồi đổi cho ng` TQ.những
chiếc áo dài của các cô gái hàng châu duyên dáng đã làm ngưỡng mộ các thương gia
vn.sự sáng tạo ra chiếc áo dài truyền thống thay thế cho những chiếc áo tứ thân váy
xòe của TK XIX là bước nhảy vọt về trang phục và văn hóa của ng` vn.
gọi là áo dài theo cấu tạo của áo,thân áo gồm 2 mảnh bó sát eo của ng` phụ nữ rồi từ
đáy lưng hong 2 thân áo tả bay xuống tận gót chân tạo nên những bước đi duyên
dáng ,mềm mại uyển chuyển hơn cho ng` con gái.
tấm áo lụa mỏng thướt tha với nhiều màu sắc kính đáo trang nhã lướt trên đg fo^ trở
thành tâm điểm chú ý và là bông hoa sáng tôn lên vẻ yo kiều thanh lịch cho con ng` và
phong cảnh xung wanh.chiếc quần may theo kiểu quần tà ống rộng,2 tà đc kết đồng
màu hay satanh trắng năng đỡ tà áo dài và làm tăng sự mềm mại thướt tha cho bộ
trang phục mượt mà và duyên dáng,gợi vẻ đầm thấm đáng yo.
đã ngót 1 TK nay cô nữ sinh trường quốc học huế trong trang phục áo dài trắng trinh

nguyên như là biểu tượng cho vẻ đẹp thanh khiết cao quý của tâm hồn ng` thiếu nữ
đất việt.để đến bây h trang phục ấy trở thành đồng phục của nhiều nữ sinh trong các
trường THPT như muốn nói với mọi ng` với du khách quốc tế về văn hóa và bản sắc
dân tộc.tà áo trắng bay bay trên đường phố ,tiếng cười hồn nhiên trong trẻo của các cô
cậu hs vương lại phía sao mãnh hoa phượng ở giỏ xe rơi lác đác gợi cho ng` wa đg 1
cảm giác lăng lăng ,bân khuân nhớ về thuở học trò trong vắt ,những kỉ niệm thân
thương.
ngày tết hay lễ hội we hương ,đám cưới hay những buổi lên chùa của các bà các mẹ các


chị,chiếc áo dài nâu hồng đỏ hoa văn......là 1 trong cách biểu hiện tấm lòng thầm kính
gởi đến thiền 1 lòng siêu thoát ,tôn nghiêm.chiếc áo dài trùm gói,khăn mỏ quạ chít
chóe như hoa sen ,tay năng mâm quả kính cẩn lên cửa chùa miệng"mô phật,di
đà".........hình ảnh ấy đã đi vào bức họa tranh dân gian đông hồ là 1 biểu tượng độc
đáo của văn hóa vn
ngày nay, trong muôn vàn sự cách tân về trang phục ,áo đầm ,áo ngấn,áo thời
.........chiếc áo dài vn vẫn chiếm độc tôn về bản sắc dân tộc ,mang theo phong cách và
bản sắc ng` việt đến với 5 châu và trở thành 1 loại trang phục công sở ở nhiều nơi

Chúc bạn làm bài tốt.!

Nhưng lần sau bạn không nên spam kể cái để bạn nhá.
Thảo luận 4
mình tìm được một bài các bạn tham khảo nè
I.Dàn ý :
I/Mở bài
-Nêu lên đối tượng:Chiếc áo dài VN
VD: Trên thê giới, mỗi Quốc gia đều có một trang phục của riêng mình.Từ xưa đến nay,
chiếc áo dài đã trở thành trang fục truyền thống của phụ nữ VN...


II/Thân Bài
1.Nguồn gốc, xuất xứ
+Ko ai biết chính xác áo dài có từ bao giờ
+Bắt nguồn từ áo tứ thân TQuốc
+Căn cứ vào sử liệu, văn chương, điêu khắc, hội hoa, sân khấu dân gian.....chúng ta đã
thấy hình ảnh tà áo dài qua nhiều giai đoạn lịch sử
- Tiền thân của áo dài VN là chiếc áo giao lãnh , hơi giống áo từ thân , sau đó qua lao
động, sản xuất chiếc áo giao lãnh mới được chính sửa để phù hợp vs đặc thù lao động
-> áo tứ thân và ngũ thân .

- Người có công khai sáng là định hình chiếc áo dài VN là chúa Nguyễn Phúc Khoát .
Chiếc áo dài đầu tiên được thiết kế tại thời điểm này là sự kết hợp giữa váy của người
Chăm và chiếc váy sườn xám của người trung hoa....==> áo dài đã có từ rất lâu.


2.Hiện tại
+tuy đã xuất hiện rất nhiều nhữg mẫu mã thời trang, nhưng chiếc áo dài vẫn giữ được
tầm quan trọng của nó, và trở thành bộ lêx phục của các bà các cô mặc trog các dịp lễ
đặc biệt..
+đã được tổ chức Unesco công nhận là 1 di sản Văn hoá phi vật thể, là biểu tượng của
người fụ nữ VN.
3.Hình dáng
-Cấu tạo
*Áo dài từ cổ xuống đến chân
*Cổ áo may theo kiểu cổ Tàu, cũng có khi là cổ thuyền, cổ tròn theo sở thik của người
mặc. Khi mặc, cổ áo ôm khít lấy cổ, tạo vẻ kín đáo.
*Khuy áo thường dùng = khuy bấm, từ cổ chéo sang vai rồi kéo xuống ngang hông.
*Thân áo gồm 2 phần: Thân trước và thân sau, dài suốt từ trên xuống gần mắt cá
chân.
*áo được may = vải 1 màu thì thân trước thân sau sẽ được trang trí hoa văn cho áo

thêm rực rỡ.
*thân áo may sát vào form người, khi mặc, áo ôm sát vào vòng eo, làm nổi bật những
đường cong gợi cảm của người fụ nữ.
*tay áo dài ko có cầu vai, may liền, kéo dài từ cổ áo--> cổ tay.
*tà áo xẻ dài từ trên xuống, giúp người mặc đi lại dễ dàng, thướt tha, uyển chuyển.
*áo dài thường mặc với quần đồng màu hoặc màu trắng = lụa, satanh, phi bóng....với
trang fục đó, người fụ nữ sẽ trở nên đài các, quý fái hơn.
-Thợ may áo dài phải là người có tay nghề cao, thợ khéo tay sẽ khiến áo dài khi mặc
vào ôm sát form người.
-Áo dài gắn liền tên tuổi của những nhà may nổi tiếng như Thuý An, Hồng Nhung, Mỹ
Hào, ....., đặc biệt là áo dài Huế màu tím nhẹ nhàng...
-Chất liệu vải phong phú, đa dạng, nhưng đều có đặc điểm là mềm, nhẹ, thoáng mát.
Thường là nhiễu, voan, nhất là lụa tơ tằm...
-Màu sắc sặc sỡ như đỏ hồng, cũng có khi nhẹ nhàng, thanh khiết như trắng, xanh
nhạt...Tuỳ theo sở thích, độ tuổi. Thướng các bà, các chị chọn tiết dê đỏ thẫm...
3.Áo dài trong mắt người dân VN và bạn bè quốc tế
-Từ xưa đến nay, áo dài luôn được tôn trọng, nâng niu....
-phụ nữ nước ngoài rất thích áo dài


4.Tương lai của tà áo dài

III.Kết bài
Cảm nghĩ về tà áo dài, ...
Từ xưa đến nay, chiếc áo dài đã trở thành trang fục truyền thống của phụ nữ VN...". Xin
trả lời là từ Xưa là từ bao giờ, Cái áo dài VN theo kiểu ngày nay ta vẫn nói - mới chỉ
cách tân từ thời Pháp Thuộc thôi, chứ không phải từ Xưa đâu....

"Ko ai biết chính xác áo dài có từ bao giờ".... ở trên đã nói rõ, tác giả của áo dài VN như
ngày nay ta vẫn thấy, bạn có thể tìm được tên tuổi chính xác.


"Bắt nguồn từ áo tứ thân TQuốc".... Áo tứ thân là áo có gốc gác của Việt nam, cùng với
áo mớ ba mớ bẩy, chưa bao giờ áo tứ thân là của TQuốc cả.

"chúng ta đã thấy hình ảnh tà áo dài qua nhiều giai đoạn lịch sử".... xin nói rõ là chỉ
qua hai giai đoạn lịch sử là Pháp thuộc và DCCH mà thôi.

"Tiền thân của áo dài VN là chiếc áo giao lãnh , hơi giống áo từ thân , sau đó qua lao
động, sản xuất chiếc áo giao lãnh mới được chính sửa để phù hợp vs đặc thù lao động
-> áo tứ thân & ngũ thân .". Đây cũng là điều không đúng, Áo dài VN được thay đổi
theo diễn trình của cuộc sống và xã hội chứ không phải trải qua Lao động - sản xuất và
cũng không phải là loại áo bảo hộ lao động.

"Người có công khai sáng là định hình chiếc áo dài VN là chúa Nguyễn Phúc Khoát " đây
là điều không thể có được trong thời điểm phong kiến cực thịnh, không có vị chúa
Nguyễn nào ngồi khai sáng ra được bất kỳ chiếc áo dài nào.

"chiếc áo dài vẫn giữ được tầm quan trọng của nó, và trở thành bộ lêx phục của các bà
các cô mặc trog các dịp lễ đặc biệt..". Ôi, ngày nay chiếc áo dài không còn được ưa
thích mặc trong các lễ phục bằng Váy Ngắn đến bẹn...và ngay cả trong các nghi lễ quan
trọng nhất người ta vẫn dùng bộ lễ phục thời Hồng hoang ( như trong nghi lễ của FPT
mới đây hay cuộc thi hoa hậu Việt nam với trang phục áo tắm... ).


Ôi chao, chiếc áo dài VN còn nhiều gian truân lắm....

II.bài viết cho chiếc áo dài :
Không ai biết rõ chiếc áo dài nguyên thủy ra đời từ lúc nào và hình dáng ra sao vì
không có tài liệu ghi nhận. Y phục xa xưa nhất của người Việt, theo những hình khắc
trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay khoảng vài nghìn năm cho thấy hình phụ

nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Sử gia Đào Duy Anh viết, "Theo sách Sử ký chép
thì người Văn Lang xưa, tức là tổ tiên ta, mặc áo dài về bên tả (hình thức tả nhiệm). Sử
lại chép rằng ở thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu Chân dùng kiểu
quần áo theo người Tàu. Theo những lời sách đó chép thì ta có thể suy luận rằng trước
hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, mà sau bắt chước người Trung Quốc mới
mặc áo gài về tay phải"[1].

Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng
khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót,
váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả. Xưa các bà các cô búi tóc trên đỉnh đầu hoặc
quấn quanh đầu, đội mũ lông chim dài; về sau bỏ mũ lông chim để đội khăn, vấn khăn,
đội nón lá, nón thúng. Cổ nhân xưa đi chân đất, về sau mang guốc gỗ, dép, giày. Vì
phải làm việc đồng áng hoặc buôn bán, chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu
áo tứ thân (gồm bốn vạt nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải,
vạt nửa sau trái). Áo tứ thân được mặc ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc
gồng gánh nhưng vẫn không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ.

Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải, gánh
gồng tháo vát. Với những phụ nữ tỉnh thành nhàn hạ hơn, muốn có một kiểu áo dài
được cách tân thế nào đó để giảm chế nét dân dã lao động và gia tăng dáng dấp trang
trọng khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay
được thu bé lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước.
Áo ngũ thân che kín thân hình không để hở áo lót. Mỗi vạt có hai thân nối sống (vị chi
thành bốn) tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước chính là
thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có
bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường
theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học Đông phương


Khác với kimono của Nhật Bản hay hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa

truyền thống lại cũng vừa hiện đại. Trang phục dành cho nữ này không bị giới hạn chỉ
mặc tại một số nơi hay dịp mà có thể mặc mọi nơi, dùng làm trang phục công sở, đồng
phục đi học, mặc đi chơi hay mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà. Việc mặc
loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kỳ, "phụ tùng lệ bộ" cũng đơn giản: mặc
với một quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi hài, guốc, hay giày gì đều được; nếu cần
trang trọng (như trang phục cô dâu) thì thêm áo choàng và chiếc khăn đóng truyền
thống đội đầu, hoặc một chiếc miện Tây phương tùy thích. Đây chính là điểm đặc sắc
của thứ trang phục truyền thống có một không hai này.

Chiếc áo dài hình như có cách riêng để tôn đẹp mọi thân hình. Phần trên ôm sát thân
nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ chí trên vòng eo
khiến cho cử chỉ người mặc thật thoải mái, lại tạo dáng thướt tha, tôn bật nữ tính, vừa
kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bởi lụa mềm, lại cũng vừa hở hang. Nó cho thấy thấp
thoáng sống eo giữa hai tà vạt rất gợi cảm và quyến rũ.

Chiếc áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao: mỗi chiếc chỉ may riêng cho một
người, dành cho riêng người đó; không thể có một công nghệ "sản xuất đại trà" cho
chiếc áo dài. Người đi may được lấy số đo thật kỹ. Khi may xong phải qua một lần mặc
thử để vi chỉnh nữa mới hoàn thiện.

Theo nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn
đội đầu cũng là quốc phục của phái nam. Các bà các cô dùng mầu sắc óng ả dịu mát
trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm. Suy cứ này có cơ
sở vì từ chiếc áo dài ngũ thân trang trọng cho phụ nữ tỉnh thành chắc chắn phải tồn tại
bên cạnh đó một thứ áo trang trọng cho giới nam để cân xứng. Tuy nhiên theo sắc dụ
ban hành từ thời Chúa Nguyễn Vũ Vương thỉ sự quy định trang phục cho nam giới ít gò
bó và thoáng hơn, "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa
ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền
không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm
việc thì cũng được" (trích sắc dụ này). Từ thập niên 1930 trở đi mới xuất hiện áo dài nữ

phục hai vạt, vậy về lý, áo dài nam phục hai vạt cũng phải xuất hiện khoảng thời gian
đó.


Một giả thuyết khác cho rằng từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về quốc
phục đã xuất hiện lối ăn mặc theo cách Việt Nam ở phái nam cho khác biệt với lối ăn
mặc của người khách trú. Cơ sở chính của cách tạo ra khác biệt là lối cài nút về bên trái
thay vì bên phải giống như người Hoa kiều (theo sách Việt Nam Văn Hóa Sử, tác giả
Đào Duy Anh, đã chú dẫn trên phần đầu mục Lịch Sử Áo Dài). Sự khác biệt thứ hai là
trên chất liệu vải (thường bằng the mỏng, và mặc ra ngoài áo bà ba trắng, với phụ tùng
lệ bộ kèm theo là khăn đóng (tức khăn vành cho nam). Có thể ngay từ đầu, "quốc phục
sơ khai" của nam giới đã chỉ có hai vạt và được biến cách trên chiếc áo Tàu "nhà
Thanh": dài gần tới gối và có đường xẻ hai bên từ hông trở xuống. Đến thập kỷ 1930
khi xuất hiện áo nữ với hai tà dài thì được thay đổi chút ít cho gần gũi chiếc áo dài nữ
phục.

Vậy nếu nói đến quốc phục truyền thống thì chính chiếc áo dài nữ phục mới đậm nét
hơn, được quy định bởi những văn bản pháp quy (sắc dụ chúa Nguyễn Vũ Vương) và
chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn (chiếu chỉ quy định của vua Minh Mạng về trang phục
hoàn chỉnh cho áo dài nữ phục). Do đó khi nói đến áo dài Việt Nam, người trong lẫn
ngoài nước thường nghĩ đến chiếc áo dài nữ phục.

Áo dài nam phục Việt Nam lại không có số phận may mắn như áo dài nữ phục. Ngày
nay ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh một thanh niên, thậm chí một ông cụ già Việt Nam,
vận chiếc áo dài nam phục truyền thống. Áo dài nam phục chỉ còn xuất hiện tại những
lễ hội mang đậm nét truyền thống Việt Nam. Đặc biệt tại tuần lễ cấp cao APEC (2006)
được tổ chức tại Việt Nam, trong lễ công bố Tuyên bố chung, các nhà lãnh đạo các nền
kinh tế APEC đều mặc trang phục truyền thống của nước chủ nhà.
Thảo luận 5
Không có tài liệu ghi nhận xuất phát điểm của áo dài nguyên thuỷ.Y phục xa xưa nhất

của người Việt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay
khoảng vài nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Sử gia
Đào Duy Anh viết, "Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa, mặc áo dài về bên
tả.
thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu Chân dùng kiểu quần áo theo người
Tàu. trước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, về sau bắt chước người Trung


Quốc mới mặc áo gài về tay phải".
Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng
khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót,
váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả.
Vì phải làm việc chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm bốn vạt
nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo tứ
thân được mặc ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn
không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ.
Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải.
Áo dài được cách tân thế nào đó để giảm nét dân dã và gia tăng dáng dấp trang trọng
khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu
bé lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Mỗi vạt có
hai thân nối sống, tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước
chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ
áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ
thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học Đông phương.
Bộ áo tứ thân

"Bộ áo tứ thân đứng vững trên đất nước Việt Nam cả mấy ngàn năm trong khi bộ xiêm
y lượt thượt của người nữ Trung Hoa chỉ còn xuất hiện trong cung điện hoặc trong
những nhà quyền quý. Phụ nữ Trung Hoa dưới thời vua Võ Vương nhà Thanh năm 1774,
mặc kiểu áo xường xám không có... quần! Trong thời gian đó, truyền thống mặc váy

vẫn tồn tại ở Việt Nam cho đến thế kỷ mười bảy như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên
Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: ”... áo đàn bà
con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay đã có tục cũ...”
Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát được xem là người có công khai sáng và định hình chiếc
áo dài Việt Nam.
Chịu ảnh hưởng nặng của văn hóa Trung Hoa, cho đến thế kỷ 18 lối ăn mặc của người
Việt Nam vẫn thường hay bắt chước lối của người phương Bắc, đặc biệt dưới thời các
chúa Nguyễn khi xứ Đàng Trong do nhu cầu khai phá khẩn hoang, đón nhận hàng vạn
người Minh Hương (còn gọi là người Khách Trú hay đọc trại thành "cắc chú") bất mãn
với nhà Thanh sang định cư lập nghiệp, mặc dù người Việt cũng có lối ăn mặc riêng.
Trước làn sóng xâm nhập mới này, để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương Nguyễn


Phúc Khoát ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong phải
theo đó thi hành. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của
chiếc áo dài Việt Nam, như sau: "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng
ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu
kín liền, không được xẻ mở.
Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được
phép ..." (sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên). Trong Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quý Đôn viết
"Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang sử đầu cho chiếc áo dài như vậy".
Căn cứ theo những chứng liệu này, có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cố định
đã ra đời và chính thức được công nhận là quốc phục dưới triều chúa Nguyễn Vũ Vương
(1739-1765). Vào thời này, các văn bản tại Việt Nam dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm, áo
dài viết bằng chữ Nôm là 襖長.
Một vài tài liệu quy kết việc ra đời của chiếc áo dài quốc phục là do những tham vọng
riêng tư của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Do muốn xưng vương và tách rời Đàng Trong
thành quốc gia riêng, nên ban sắc dụ về ăn mặc như trên cho khác đi (trong quy định
này đã có chỉ thị phụ nữ phải mặc quần hai ống). Sau thấy quần hai ống khêu gợi quá,
Vương mới giao cho triều thần pha phối từ mẫu áo dài của người Chăm (giống như áo

dài phụ nữ Việt Nam ngày nay, nhưng không xẻ nách) và áo dài của phụ nữ Thượng Hải
(chiếc sườn xám) để "chế" ra cái áo dài của phụ nữ Việt Nam (Xem thêm Liên kết
ngoài, bài Sự Tích Áo Dài Việt Nam).
Chiếc áo dài đầu tiên giống như áo dài người Chàm và có xẻ nách và quan điểm trên
quá thiên nặng về tính chống phong kiến nên vô hình chung đề cao vai trò của Vũ
Vương như là "nhà thiết kế áo dài hiện đại đầu tiên".
Áo sườn xám
bộ áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia Long (1802-1819). Sở dĩ có sự ước
đoán này, vì mặc áo ngũ thân thì phải mặc quần chớ không thể mặc váy.
Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt
phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới xuất hiện câu ca dao than vãn:
Tháng Tám có chiếu vua ra (Bản chép khác: Chiếu vua Minh Mạng ban ra)
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!
Áo dài "Le Mur"
"Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của tên Cát Tường, một họa sĩ vào thập
niên 1930 đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ thân để biến nó chỉ


còn lại hai vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng
thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo
những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để
tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc
theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn. Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều biến cải
như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa áo Le Mur mặc cho
đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm
chiếc bóp đầm.
Áo dài Lê Phổ
Năm 1934, một họa sĩ khác là Lê Phổ bỏ bớt những nét lai căng, cứng cỏi của áo Le
Mur, đồng thời đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một
kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn.

Sự dung hợp này quá hài hòa, vẹn vẻ giữa cái mới và cái cũ, được giới nữ thời đó hoan
nghênh nhiệt liệt. Từ đây áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó, và
từ bấy đến nay dù trải bao thăng trầm, bao lần cách tân cách điệu, hình dạng chiếc áo
dài về cơ bản vẫn giữ nguyên.

Áo dài với tay raglan (giác lăng)
Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách
ráp tay raglan. Với cách ráp tay raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc
từ dưới nách đến lườn eo, khiến chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình
người phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ.
Áo dài miniraglan
Phiên bản này được áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản này, áo dài tay
miniraglan có tà chỉ dài tới gối, nhưng hai ống quần rộng lòa xòa phủ kín đôi chân,
đồng thời khi bước đi thấy thấp thoáng ẩn hiện mũi giầy dưới sóng lụa. Hai đặc điểm
này làm cho tà áo nữ sinh đậm chất hồn nhiên, dễ thương, và đã làm xao xuyến lòng
bao chàng trai.
Một biểu trưng mang đậm bản sắc Việt Nam
Khác với kimono của Nhật Bản hay hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa
truyền thống lại cũng vừa hiện đại. Chiếc áo dài có cách riêng để tôn đẹp mọi thân
hình. Phần trên ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần
rộng. Hai tà xẻ khiến cho cử chỉ người mặc thật thoải mái, lại tạo dáng thướt tha, tôn


bật nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bởi lụa mềm.
Chiếc áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao: mỗi chiếc chỉ sản xuất riêng cho
một người, dành cho riêng người đó; không thể có một công nghệ "sản xuất đại trà"
cho chiếc áo dài. Người đi may được lấy số đo thật kỹ. Khi may xong phải qua một lần
mặc thử để vi chỉnh nữa mới hoàn thiện
.
Áo dài nam phục

Theo nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn
đội đầu cũng Đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm. Tuy nhiên theo
sắc dụ ban hành từ thời Chúa Nguyễn Vũ Vương thỉ sự quy định trang phục cho nam
giới ít gò bó và thoáng hơn, "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn
tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu
kín liền không cho xẻ mớ.
Một giả thuyết khác cho rằng từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về quốc
phục đã xuất hiện lối ăn mặc theo cách Việt Nam ở phái nam cho khác biệt với lối ăn
mặc của người khách trú.
Sự khác biệt thứ hai là trên chất liệu vải (thường bằng the mỏng, và mặc ra ngoài áo
bà ba trắng, với phụ tùng lệ bộ kèm theo là khăn đóng (tức khăn vành cho nam). Có
thể ngay từ đầu, "quốc phục sơ khai" của nam giới đã chỉ có hai vạt và được biến cách
trên chiếc áo Tàu "nhà Thanh": dài gần tới gối và có đường xẻ hai bên từ hông trở
xuống. Đến thập kỷ 1930 khi xuất hiện áo nữ với hai tà dài thì được thay đổi chút ít cho
gần gũi chiếc áo dài nữ phục. ^^
Vậy nếu nói đến quốc phục truyền thống thì chính chiếc áo dài nữ phục mới đậm nét
hơn, được quy định bởi những văn bản pháp quy (sắc dụ chúa Nguyễn Vũ Vương) và
chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn (chiếu chỉ quy định của vua Minh Mạng về trang phục
hoàn chỉnh cho áo dài nữ phục). Áo dài nữ ngày càng được hoàn thiện và duy trì đến
ngày nay
Áo dài nam phục Việt Nam lại không có số phận may mắn như áo dài nữ phục. Ngày
nay ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh một thanh niên, thậm chí một ông cụ già Việt Nam,
vận chiếc áo dài nam phục truyền thống.
Áo dài nam phục chỉ còn xuất hiện tại những lễ hội mang đậm nét truyền thống Việt
Nam. Đặc biệt tại tuần lễ cấp cao APEC (2006) được tổ chức tại Việt Nam, trong lễ công
bố Tuyên bố chung, các nhà lãnh đạo các nền kinh tế APEC đều mặc trang phục truyền


thống của nước chủ nhà..


Một trong những vấn đề là việc xác định thế nào là Truyền thống Việt nam, thế nào là
Bản sắc văn hóa Việt nam. Tuy còn một vài nhận định chưa thống nhất, nhưng chắc
chắn, chiếc Áo Dài là một bản sắc Việt Nam, và nó cũng đã phải trải qua những thăng
trầm, biến đổi không ngừng và ngày càng phát huy vẻ đẹp cho phụ nữ Việt Nam.

Đó là Áo Dài- đồng phục của những cô học trò. Giờ học đã tan, các cô gái cùng với
những chiếc xe đạp, rúc rích hòa vào dòng chảy của người đi bộ, của xích lô và xe máy.
Trong cái đám đông đó, cô gái ngồi trước, cánh tay cong cong, điệu nghệ và duyên
dáng điều khiển chiếc xe đạp.
ϑNhững tà Áo Dài trong đủ sắc màu - đỏ, vàng, xanh lá cây, hay rực rỡ cánh hoa. Đám
con trai dõi mắt nhìn theo. Vì ánh mắt bị phân tán như vậy, mà lắm khi xe cộ đâm
nhau.
Áo Dài tô đậm thêm những ý tưởng về người con gái Việt nam hiền dịu, luôn sẵn mỉm
cười. Không có một bộ phim chiến tranh nào của Mỹ mà lại thiếu bóng dáng những cô
gái yêu kiều trong chiếc Áo Dài làm mê mẩn biết bao người lính.
Tất cả những phim phóng sự về Đông dương đều không thể bỏ qua hình ảnh những nữ
sinh với tà Áo Dài trắng, ít nhất cũng là trong đoạn dạo đầu.
Áo Dài là trang phục dân tộc của người phụ nữ Việt nam. Kiểu cách Áo Dài đã được một
nhà tạo mốt của Trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà nội phác thảo mãi vào những năm 30
của Thế kỷ 20.

Áo Dài hoàn toàn không phù hợp với lao động chân tay. Một thời gian dài trong chiến
tranh, áo dài ít xuất hiện trong ngày lao động bình thường.
Từ ngày mở cửa Việt nam cuối những năm 80, nữ sinh, nữ nhân viên ngân hàng, nữ
công chức bưu chính lại thong thả dạo chơi trong những cánh Áo Dài. Trong đám cưới,
Áo Dài cũng dần dần thay thế những lòa xòa của bộ áo cưới đăng-ten; và trong những


lễ hội thôn quê. Ngay cả phông biển các văn phòng du lịch nhà nước cũng phải dùng Áo
Dài trong quảng cáo.

Và những nhà cắt may luôn thử nghiệm ra những Modell mới. Mẫu hình thay đổi, phong
cách đổi thay. Xu thế thời thượng hiện nay, áo dài ca khúc khải hoàn như là một biểu
tượng cho nền văn hóa phong phú của Việt nam.
Thảo luận 6
ban_vn /showthread.php?t=126034
xem và góp ý nha ^^
bài viết mình còn nhiều khuyết điểm quá ^^

ah mà mấy anh chị lớp 9 học kì I vẫn học văn này ah?
__________________

[Hãy đăng kí thành viên hay đăng nhập để xem liên kết này.]
[Hãy đăng kí thành viên hay đăng nhập để xem liên kết này.]
[Hãy đăng kí thành viên hay đăng nhập để xem liên kết này.]
[Hãy đăng kí thành viên hay đăng nhập để xem liên kết này.]
Thảo luận 7
bài văn thuyết minh về chiếc cặp sách mình làm là thuyết minh cái ba lô được không
các bạn nhỉ
Ai giúp mình với nhé!!!!
Thảo luận 8
Trải qua năm tháng, áo dài đã dần trở thành một thứ trang phục đặc biệt của riêng
người Việt. Điểm qua một số thời kỳ được coi là "dấu ấn" trong quá trình hình thành và
phát triển chiếc áo dài.
Thời kỳ từ 1885-1915
Có giả thuyết cho rằng áo dài Việt Nam xuất xứ từ phương Bắc. Nhưng áo dài là loại
trang phục riêng của người Việt vì những khi lễ lạt, người xưa phải khoác ra ngoài áo
dài một cái áo lễ, thí dụ như áo tấc, áo dấu, áo tràng ngoài dân gian; hoặc áo bào, áo
mệnh phụ trong triều. Chỉ có các lễ phục này mới mang ảnh hưởng của phương Bắc.
Trong khi đó, từ đầu đến cuối quyển sách Trung Quốc Phục Trang Sử nổi tiếng, viết và
minh họa về y phục Trung Hoa từ đời Xuân Thu cho đến những năm đầu Dân Quốc

(1920), không thấy đả động gì đến bì bào (áo mặc sát vào da). Loại bì bào độc nhất ở


Trung Quốc, thường gọi là xường xám, có nghĩa là áo dài, chỉ xuất hiện từ Trùng Khánh
và Thượng Hải trong thập niên 1930.

Trong sách "Relation de la Nouvelle Mission des Péres de la Compagnie de Jesus au
Royaume de la Cochinchine", xuất bản tại Lille năm 1631, giáo sĩ Borri đã tả rõ về cách
ăn mặc của người Việt ở đầu thế kỷ 17: "Người ta mặc năm sáu cái áo dài, áo nọ phủ
lên áo kia, mỗi cái một màu... Phần dưới thắt lưng của mấy lớp áo ngoài được cắt thành
những dải dài. Khi đi lại, các dải này quyện vào nhau trông đẹp mắt... Đàn ông cũng
mặc năm, sáu lớp áo dài lụa... để tóc dài và vấn khăn như đàn bà".
Có lẽ giáo sĩ Borri đã hiểu lầm về số lớp áo được người Việt cổ xưa mặc mỗi khi ra
ngoài. Thật ra mấy lớp áo bên ngoài bị cắt thành các dải dài bên dưới thắt lưng mà giáo
sĩ Borri nhắc đến chỉ là cái xiêm cánh sen, hoặc có nơi gọi là quầy bơi chèo, mà người
xưa mặc trước ngực hay dưới thắt lưng bên ngoài áo dài. Xiêm này có ba hoặc bốn lớp
dải lụa may chồng lên nhau. Lớp dải trong cùng dài nhất, rồi các lớp bên ngoài ngắn
dần. Bức tượng Ngọc Nữ tạc từ thế kỷ 17 ở chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh, là minh
chứng rõ nhất cho cả áo dài, các giải cánh sen, lẫn cách vấn khăn mà giáo sĩ Borri đã
mục diện từ bốn thế kỷ trước đây.
Thế kỷ XIX - XX
Năm 1819, cách ăn mặc của người dân vẫn giống như giáo sĩ Borri đã thấy ở Thuận
Quảng từ hơn hai thế kỷ trước đó với quần lụa đen và áo may sát người dài đến mắt cá
chân.

Cho đến đầu thế kỷ 20, phần đông áo dài phụ nữ thành thị đều may theo thể năm thân,
hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo.
Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may nối phía dưới
khuỷu tay vì các loại vải ngày xưa chỉ dệt được rộng nhất là 40cm. Cổ, tay và thân trên
áo thường ôm sát người, rồi tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu và không chít eo. Gấu

áo may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80cm. Cổ áo chỉ cao khoảng 2 - 3cm.
Riêng ở miền Bắc khoảng năm 1910 - 1920, phụ nữ thích may thêm một cái khuyết
phụ độ 3cm bên phải cổ áo, và cài khuy cổ lệch ra đấy. Cổ áo như thế sẽ hở ra cho
quyến rũ hơn và cũng để khoe chuỗi hột trang sức quấn nhiều vòng quanh cổ.Phần
nhiều áo dài ngày xưa đều may kép, tức là may có lớp lót. Lớp áo trong cùng thấm mồ
hôi, vì thế được may đơn bằng vải mầu trắng để không sợ bị thôi mầu, dễ giặt. Một áo


kép mặc kèm với một áo lót đơn ở trong đã thành một bộ áo mớ ba. Quần may rộng
vừa phải, với đũng thấp.

Thuở đó, phần đông phụ nữ từ Nam ra Bắc đều mặc quần đen với áo dài, trong khi phụ
nữ Huế lại chuộng quần trắng. Đặc biệt là giới thượng lưu ở Huế hay mặc loại quần chít
ba, nghĩa là dọc hai bên mép ngoài quần được may với ba lần gấp, để khi đi lại quần sẽ
xòe rộng thêm.

Trong các thập niên 1930 và 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, gấu áo
dài thường được may trên mắt cá khoảng 20cm, thường được mặc với quần trắng hoặc
đen.
Những cách tân đầu tiên
Một vài nhà tạo mẫu áo dài bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn này, nhưng gần như họ
chỉ bỏ được phần nối giữa sống áo, vì vải phương Tây dệt được khổ rộng hơn. Tay áo
vẫn may nối. Nổi nhất lúc ấy là nhà may Cát Tường ở phố Hàng Da, Hà Nội. Năm 1939
nhà tạo mẫu này tung ra một kiểu áo dài được ông Âu hóa. Áo Le Mur vẫn giữ nguyên
phần áo dài may không nối sống bên dưới. Nhưng cổ áo khoét hình trái tim. Có khi áo
được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ. Vai áo may bồng, tay nối ở vai. Khuy áo
may dọc trên vai và sườn bên phải. Nhưng kiểu áo này chỉ tồn tại đến khoảng năm
1943.

Đến khoảng năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may có eo. Các thợ may lúc đó đã

khôn khéo cắt áo lượn theo thân người.
Thân áo sau rộng hơn thân áo trước, nhất là ở phần mông, để áo ôm theo thân dáng
mà không cần chít eo. Vạt áo cắt hẹp hơn. Thân áo trong được cắt ngắn dần từ giai
đoạn này. Cổ áo bắt đầu cao lên, trong khi gấu được hạ thấp xuống.

Áo dài được thay đổi nhiều nhất trong thập kỷ 60. Vì nịt ngực ngày càng phổ biến hơn,
nên áo dài bắt đầu được may chít eo, nhiều khi rất chật, để tôn ngực. Eo áo cắt cao lên
hở cạp quần. Gấu áo lúc này cắt thẳng ngang và may dài gần đến mắt cá chân. Năm
1960, vì muốn thấy cổ phụ nữ dài thêm, bà Trần Lệ Xuân đặt ra loại áo dài cổ thuyền.
Nhiều người sau đó còn may áo dài với cổ khoét tròn. Đến gần cuối thập kỷ 60, áo dài
mini trở thành thời thượng. Vạt áo may hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối. áo may rộng


hơn, không chít eo nữa, nhưng vẫn giữ đường lượn theo thân thể. Cổ áo thấp xuống còn
3cm. Tay áo cũng được may rộng ra. Đặc biệt trong khoảng thời gian này, vai áo dài
bắt đầu được cắt lối raglan để ngực và tay áo ôm hơn, nhăn ít, mà lại đỡ tốn vải. Tay áo
được nối với thân từ chéo vai. Quần may rất dài với gấu rộng đến 60cm và nhiều khi
được lót hai ba lớp.
Năm 1975, đất nước thống nhất, điều kiện vật chất còn nhiều khó khăn nên áo dài có
phần đơn giản hơn. Nhưng đến những năm 90, áo dài đã trở lại, cầu kỳ hơn, thanh nhã
hơn và bắt đầu được bạn bè quốc tế nghĩ tới như là một biểu tượng của người phụ nữ
Việt Nam. Năm 1989, báo Phụ Nữ tổ chức cuộc thi Hoa Hậu Áo dài đầu tiên. Sáu năm
sau, tà áo dài xanh thướt tha đã đưa Việt Nam tới danh hiệu "Trang phục truyền thống
đẹp nhất" tại Tokyo, Nhật Bản.
Các nhà thiết kế đương đại thường "thí nghiệm" với các loại vải mới , các motif lạ mắt,
các hoa văn của người dân tộc thiểu số hoặc thay đổi đường may nét cắt bằng cách mở
rộng cổ, bớt tay áo hoặc thay tà trước bằng những chất liệu mềm mại hơn. Chiếc quần
trắng ngày nào là mốt giờ đã nhường chỗ cho quần đồng màu hoặc ngược hẳn với áo.
Ngày nay, áo dài vừa là đồng phục duyên dáng của nữ sinh cấp 3:


Là hình ảnh của người tiếp viên hàng không Vietnam Airlines, lại vừa là trang phục lễ
Tết, hội hè:
Nhiều nhà tạo mẫu áo cưới có xu hướng kết hợp giữa áo cưới hiện đại với chiếc áo dài
dân tộc. Với hai chất liệu tơ tằm và voan, chiếc áo dài cưới dân tộc được cách điệu vừa
tạo nét duyên dáng cho cô dâu vừa tạo vẻ mềm mại, mỏng manh. Cách điệu lớn nhất
của chiếc áo dài cưới được thể hiện ở vạt áo (vạt mỏng, mềm hơn) và nơi cổ áo. Nhìn
chung kiểu dáng chính của chiếc áo dài cưới là chiếc áo dài dân tộc nhẹ nhàng nhưng
cầu kỳ hơn một chút nơi tà áo, cổ áo và gấu quần.
Thi hoa hậu, thi người đẹp không thể thiếu áo dài:
Năm 2007, Hoa hậu Trái đất đến từ Chile, Hoa hậu Phillippines và Singapore rạng rỡ
khoe sắc với tà áo dài, chiếc nón lá Việt tại TP.Hồ Chí Minh. Các người đẹp mang đến
thông điệp về một môi trường sống xanh, sạch và bền vững.
Cho dù bị ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa từ phương Đông đến phương Tây, áo dài
vẫn mang nét riêng của mình để không thể bị lẫn lộn với kiểu dáng khác.
Thế giới chỉ từng biết Việt Nam qua chiến tranh. Nhưng khi hàng triệu người Việt rời
quê hương để định cư tại khắp bốn phương đã mang theo di sản văn hóa Việt từ ẩm


thực đến đạo lý phong tục tập quán và trong đó có chiếc áo dài truyền thống. Trên
khắp thế giới, áo dài "tung bay tà áo quê hương" là không thể thiếu trong các lễ hội của
người Việt như Tết, Quốc Khánh, 8-3 và càng được phổ biến rộng hơn khi các nhà tạo
mẫu biến chiếc áo hai tà thành thời trang.

__________________
Hạnh phúc hay nỗi đau đến cuối cùng cũng chỉ là nước mắt

Thảo luận 9
Áo dài Việt Nam
LỊCH SỬ ÁO DÀI
Không có tài liệu ghi nhận xuất phát điểm của áo dài nguyên thuỷ.Y phục xa xưa nhất

của người Việt, theo những hình khắc trên mặt chiếc trống đồng Ngọc Lũ cách nay
khoảng vài nghìn năm cho thấy hình phụ nữ mặc trang phục với hai tà áo xẻ. Sử gia
Đào Duy Anh viết, "Theo sách Sử ký chép thì người Văn Lang xưa, mặc áo dài về bên
tả.
thế kỷ thứ nhất, Nhâm Diên dạy cho dân quận Cửu Chân dùng kiểu quần áo theo người
Tàu. trước hồi Bắc thuộc thì người Việt gài áo về tay trái, về sau bắt chước người Trung
Quốc mới mặc áo gài về tay phải".
Kiểu sơ khai của chiếc áo dài xưa nhất là áo giao lãnh, tương tự như áo tứ thân nhưng
khi mặc thì hai thân trước để giao nhau mà không buộc lại. Áo mặc phủ ngoài yếm lót,
váy tơ đen, thắt lưng mầu buông thả.
Vì phải làm việc chiếc áo giao lãnh được thu gọn lại thành kiểu áo tứ thân (gồm bốn vạt
nửa: vạt nửa trước phải, vạt nửa trước trái, vạt nửa sau phải, vạt nửa sau trái). Áo tứ
thân được mặc ra ngoài váy xắn quai cồng để tiện cho việc gồng gánh nhưng vẫn
không làm mất đi vẻ đẹp của người phụ nữ.


Áo tứ thân thích hợp cho người phụ nữ miền quê quanh năm cần cù bươn chải.
Áo dài được cách tân thế nào đó để giảm nét dân dã và gia tăng dáng dấp trang trọng
khuê các. Thế là ra đời áo ngũ thân với biến cải ở chỗ vạt nửa trước phải nay được thu
bé lại trở thành vạt con; thêm một vạt thứ năm be bé nằm ở dưới vạt trước. Mỗi vạt có
hai thân nối sống, tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, và vạt con nằm dưới vạt trước
chính là thân thứ năm tượng trưng cho người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ
áo có bâu đệm, và khép kín nhờ năm chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ
thường theo quan điểm Nho giáo và ngũ hành theo triết học Đông phương.
Bộ áo tứ thân

"Bộ áo tứ thân đứng vững trên đất nước Việt Nam cả mấy ngàn năm trong khi bộ xiêm
y lượt thượt của người nữ Trung Hoa chỉ còn xuất hiện trong cung điện hoặc trong
những nhà quyền quý. Phụ nữ Trung Hoa dưới thời vua Võ Vương nhà Thanh năm 1774,
mặc kiểu áo xường xám không có... quần! Trong thời gian đó, truyền thống mặc váy

vẫn tồn tại ở Việt Nam cho đến thế kỷ mười bảy như đã ghi trong sách Lê Triều Thiên
Chính đời vua Lê Huyền Tông, tháng 3 năm 1665 với sắc lệnh nhắc nhở: ”... áo đàn bà
con gái không có thắt lưng, quần không có hai ống từ xưa đến nay đã có tục cũ...”
Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát được xem là người có công khai sáng và định hình chiếc
áo dài Việt Nam.
Chịu ảnh hưởng nặng của văn hóa Trung Hoa, cho đến thế kỷ 18 lối ăn mặc của người
Việt Nam vẫn thường hay bắt chước lối của người phương Bắc, đặc biệt dưới thời các
chúa Nguyễn khi xứ Đàng Trong do nhu cầu khai phá khẩn hoang, đón nhận hàng vạn
người Minh Hương (còn gọi là người Khách Trú hay đọc trại thành "cắc chú") bất mãn
với nhà Thanh sang định cư lập nghiệp, mặc dù người Việt cũng có lối ăn mặc riêng.
Trước làn sóng xâm nhập mới này, để gìn giữ bản sắc văn hóa riêng, Vũ Vương Nguyễn
Phúc Khoát ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong phải
theo đó thi hành. Trong sắc dụ đó, người ta thấy lần đầu tiên sự định hình cơ bản của
chiếc áo dài Việt Nam, như sau: "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng
ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu
kín liền, không được xẻ mở.
Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được
phép ..." (sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên). Trong Phủ Biên Tạp Lục, Lê Quý Đôn viết
"Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã viết những trang sử đầu cho chiếc áo dài như vậy".


Căn cứ theo những chứng liệu này, có thể khẳng định chiếc áo dài với hình thức cố định
đã ra đời và chính thức được công nhận là quốc phục dưới triều chúa Nguyễn Vũ Vương
(1739-1765). Vào thời này, các văn bản tại Việt Nam dùng chữ Hán hoặc chữ Nôm, áo
dài viết bằng chữ Nôm là 襖長.
Một vài tài liệu quy kết việc ra đời của chiếc áo dài quốc phục là do những tham vọng
riêng tư của chúa Nguyễn Phúc Khoát. Do muốn xưng vương và tách rời Đàng Trong
thành quốc gia riêng, nên ban sắc dụ về ăn mặc như trên cho khác đi (trong quy định
này đã có chỉ thị phụ nữ phải mặc quần hai ống). Sau thấy quần hai ống khêu gợi quá,
Vương mới giao cho triều thần pha phối từ mẫu áo dài của người Chăm (giống như áo

dài phụ nữ Việt Nam ngày nay, nhưng không xẻ nách) và áo dài của phụ nữ Thượng Hải
(chiếc sườn xám) để "chế" ra cái áo dài của phụ nữ Việt Nam (Xem thêm Liên kết
ngoài, bài Sự Tích Áo Dài Việt Nam).
Chiếc áo dài đầu tiên giống như áo dài người Chàm và có xẻ nách và quan điểm trên
quá thiên nặng về tính chống phong kiến nên vô hình chung đề cao vai trò của Vũ
Vương như là "nhà thiết kế áo dài hiện đại đầu tiên".
Áo sườn xám
bộ áo ngũ thân xuất hiện vào khoảng đời vua Gia Long (1802-1819). Sở dĩ có sự ước
đoán này, vì mặc áo ngũ thân thì phải mặc quần chớ không thể mặc váy.
Năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình Huế ra chiếu chỉ cấm đàn bà mặc váy và bắt
phải mặc quần hai ống, nên hồi ấy mới xuất hiện câu ca dao than vãn:
Tháng Tám có chiếu vua ra (Bản chép khác: Chiếu vua Minh Mạng ban ra)
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng!
Áo dài "Le Mur"
"Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của tên Cát Tường, một họa sĩ vào thập
niên 1930 đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ thân để biến nó chỉ
còn lại hai vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng
thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo
những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để
tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc
theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn. Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều biến cải
như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa áo Le Mur mặc cho
đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm
chiếc bóp đầm.


Áo dài Lê Phổ
Năm 1934, một họa sĩ khác là Lê Phổ bỏ bớt những nét lai căng, cứng cỏi của áo Le
Mur, đồng thời đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một
kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn.

Sự dung hợp này quá hài hòa, vẹn vẻ giữa cái mới và cái cũ, được giới nữ thời đó hoan
nghênh nhiệt liệt. Từ đây áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó, và
từ bấy đến nay dù trải bao thăng trầm, bao lần cách tân cách điệu, hình dạng chiếc áo
dài về cơ bản vẫn giữ nguyên.

Áo dài với tay raglan (giác lăng)
Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách
ráp tay raglan. Với cách ráp tay raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc
từ dưới nách đến lườn eo, khiến chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình
người phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ.
Áo dài miniraglan
Phiên bản này được áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản này, áo dài tay
miniraglan có tà chỉ dài tới gối, nhưng hai ống quần rộng lòa xòa phủ kín đôi chân,
đồng thời khi bước đi thấy thấp thoáng ẩn hiện mũi giầy dưới sóng lụa. Hai đặc điểm
này làm cho tà áo nữ sinh đậm chất hồn nhiên, dễ thương, và đã làm xao xuyến lòng
bao chàng trai.
Một biểu trưng mang đậm bản sắc Việt Nam
Khác với kimono của Nhật Bản hay hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa
truyền thống lại cũng vừa hiện đại. Chiếc áo dài có cách riêng để tôn đẹp mọi thân
hình. Phần trên ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần
rộng. Hai tà xẻ khiến cho cử chỉ người mặc thật thoải mái, lại tạo dáng thướt tha, tôn
bật nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bởi lụa mềm.
Chiếc áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao: mỗi chiếc chỉ sản xuất riêng cho
một người, dành cho riêng người đó; không thể có một công nghệ "sản xuất đại trà"
cho chiếc áo dài. Người đi may được lấy số đo thật kỹ. Khi may xong phải qua một lần
mặc thử để vi chỉnh nữa mới hoàn thiện
.
Áo dài nam phục
Theo nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn



đội đầu cũng Đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm. Tuy nhiên theo
sắc dụ ban hành từ thời Chúa Nguyễn Vũ Vương thỉ sự quy định trang phục cho nam
giới ít gò bó và thoáng hơn, "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn
tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu
kín liền không cho xẻ mớ.
Một giả thuyết khác cho rằng từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về quốc
phục đã xuất hiện lối ăn mặc theo cách Việt Nam ở phái nam cho khác biệt với lối ăn
mặc của người khách trú.
Sự khác biệt thứ hai là trên chất liệu vải (thường bằng the mỏng, và mặc ra ngoài áo
bà ba trắng, với phụ tùng lệ bộ kèm theo là khăn đóng (tức khăn vành cho nam). Có
thể ngay từ đầu, "quốc phục sơ khai" của nam giới đã chỉ có hai vạt và được biến cách
trên chiếc áo Tàu "nhà Thanh": dài gần tới gối và có đường xẻ hai bên từ hông trở
xuống. Đến thập kỷ 1930 khi xuất hiện áo nữ với hai tà dài thì được thay đổi chút ít cho
gần gũi chiếc áo dài nữ phục. ^^
Vậy nếu nói đến quốc phục truyền thống thì chính chiếc áo dài nữ phục mới đậm nét
hơn, được quy định bởi những văn bản pháp quy (sắc dụ chúa Nguyễn Vũ Vương) và
chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn (chiếu chỉ quy định của vua Minh Mạng về trang phục
hoàn chỉnh cho áo dài nữ phục). Áo dài nữ ngày càng được hoàn thiện và duy trì đến
ngày nay
Áo dài nam phục Việt Nam lại không có số phận may mắn như áo dài nữ phục. Ngày
nay ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh một thanh niên, thậm chí một ông cụ già Việt Nam,
vận chiếc áo dài nam phục truyền thống.
Áo dài nam phục chỉ còn xuất hiện tại những lễ hội mang đậm nét truyền thống Việt
Nam. Đặc biệt tại tuần lễ cấp cao APEC (2006) được tổ chức tại Việt Nam, trong lễ công
bố Tuyên bố chung, các nhà lãnh đạo các nền kinh tế APEC đều mặc trang phục truyền
thống của nước chủ nhà..

Một trong những vấn đề là việc xác định thế nào là Truyền thống Việt nam, thế nào là



Bản sắc văn hóa Việt nam. Tuy còn một vài nhận định chưa thống nhất, nhưng chắc
chắn, chiếc Áo Dài là một bản sắc Việt Nam, và nó cũng đã phải trải qua n



×