Tải bản đầy đủ (.ppt) (29 trang)

bài giảng vi phậm pháp luật và trách nhiệm pháp lí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.07 KB, 29 trang )

VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ
ThS.Đặng Thị Thu Trang


Nội dung chính


-

Vi phạm pháp luật
Khái niệm
Dấu hiệu
Cấu thành
Phân loại
Trách nhiệm pháp lý
Khái niệm
Đặc điểm
Phân loại


VI PHẠM PHÁP LUẬT
Khái niệm và dấu hiệu của vi phạm pháp
luật
Khái niệm:
Vi phạm pháp luật là hành vi (hành động hay
không hành động), trái pháp luật, có lỗi,
do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp
lý thực hiện, xâm hại hoặc đe dọa xâm hại
các quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ.





Dấu hiệu của vi phạm pháp luật
- Là hành vi xác định của con người

(cụ thể hơn thì đó là những hành vi
nguy hiểm)
- Trái pháp luật

Nghĩa là hành vi của chủ thể (bằng hành
động hoặc không hành động) đã xâm phạm
đến những quy định của pháp luật được
quy định trong từng ngành luật cụ thể


- Có lỗi
Lỗi là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ tiêu
cực của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà mình đã thực hiện và hậu
quả nguy hiểm cho xã hội hoặc nguy cơ gây
hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà mình gây
ra, thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.


Do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý
thực hiện.
Năng lực trách nhiệm pháp lý của chủ thể vi
phạm pháp luật được xác định dựa trên những
tiêu chí sau đây:

\ Khả năng nhận thức (nhận thức đầy đủ tính
chất trái pháp luật và nguy hiểm cho xã hội do
hành vi của mình gây ra)
\ Khả năng điều khiển hành vi (tức là họ được tự
do về ý chí để lựa chọn hành vi mà họ đã thực
hiện)
\ Đạt đến một độ tuổi nhất định
-



-

Cấu thành của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan
Mặt chủ quan
Chủ thể
Khách thể


Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Là những biểu hiện ra bên ngoài của vi phạm
pháp luật mà con người có thể nhận thức
được bằng trực quan sinh động(hay là được
biểu hiện và tồn tại bên ngoài thế giới khách
quan).






Hành vi trái pháp luật: là những hành vi của
con người thể hiện dưới dạng hành động hay
không hành động, trái pháp luật gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội.


Hành vi trái pháp luật dưới dạng hành động:
đó là hình thức biểu hiện của hành vi trái pháp
luật làm biến đổi tình trạng bình thường của
đối tượng tác động, gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho khách thể qua việc chủ thể
đã làm một việc bị pháp luật cấm hoặc làm
một việc vượt quá thẩm quyền, giới hạn mà
nhà nước cho phép.


Hành vi trái pháp luật dưới dạng không hành
động: đó là hình thức biểu hiện của hành vi
trái pháp luật làm biến đổi tình trạng bình
thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại
hoặc đe dọa gây thiệt hại cho khách thể qua
việc chủ thể đã không làm một việc mà pháp
luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện
để làm.




Sự thiệt hại của xã hội: là những tổn thất

(thiệt hại) thực tế về mặt vật chất hoặc tinh
thần mà xã hội phải gánh chịu; hoặc nguy cơ
tất yếu xảy ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh
thần nếu hành vi trái pháp luật không được
ngăn chặn kịp thời.


Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái
pháp luật và sự thiệt hại cho xã hội:
trong mối liên hệ này hành vi trái pháp luật đóng
vai trò là nguyên nhân trực tiếp, còn sự thiệt
hại của xã hội đóng vai trò là kết quả tất yếu.
 Ngoài những yếu tố nói trên, còn có các yếu tố
khác thuộc mặt khách quan của vi phạm pháp
luật như: công cụ, phương tiện thực hiện hành
vi vi phạm (dao, súng…), thời gian, địa điểm
thực hiện hành vi vi phạm…vv.







Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật: Là
trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể vi
phạm pháp luật.
Mặt chủ quan bao gồm:





Lỗi
Động cơ
Mục đích


Lỗi
là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ tiêu cực của
chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình
và hậu quả do hành vi đó gây ra.



Các hình thức lỗi:
Lỗi cố ý trực tiếp: chủ thể vi phạm pháp luật
nhận thức được hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước thiệt hại cho xã hội
do hành vi của mình gây ra nhưng mong
muốn hậu quả xảy ra.



Lỗi cố ý gián tiếp: chủ thể vi phạm pháp luật
nhận thức được hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước thiệt hại cho xã hội
do hành vi của mình gây ra, tuy không mong
muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó
xảy ra.



Lỗi vô ý vì quá tự tin: chủ thể của vi phạm
nhận thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội
do hành vi của mình gây ra, nhưng hy vọng,
tin tưởng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể
ngăn chặn được.


Lỗi vô ý do cẩu thả: chủ thể vi phạm do khinh
suất, cẩu thả nên không nhận thấy trước thiệt
hại cho xã hội do hành vi của mình gây ra,
mặc dù có thể hoặc cần phải thấy trước hậu
quả đó.


Động cơ:
là cái thúc đẩy chủ thể hiện hành vi vi phạm
pháp luật. (động lực bên trong thúc đẩy chủ
thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật)



Mục đích:
là kết quả cuối cùng mà chủ thể mong muốn đạt
được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.



Khách thể của vi phạm pháp luật
Là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ

bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại tới.
Có nhiều loại khách thể khác nhau căn cứ vào
quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ bị hành
vi vi phạm pháp luật xâm hại tới
Tính chất của khách thể bị xâm hại phản ánh
mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm
pháp luật.





Chủ thể của vi phạm pháp luật
Là các cá nhân, tổ chức có năng lực trách
nhiệm pháp lý.
 Năng lực trách nhiệm pháp lý: là khả năng
của chủ thể tự chịu trách nhiệm về hành vi
của mình trước Nhà nước.




Chủ thể của vi phạm pháp luật nếu là cá nhân
phải có khả năng nhận thức về ý nghĩa xã hội
của hành vi do mình thực hiện và điều khiển
được hành vi của mình theo những đòi hỏi và
chuẩn mực của xã hội


Chủ thể của vi phạm pháp luật có thể là tổ

chức (các tổ chức xã hội, tổ chức chính trị- xã
hội, tổ chức kinh tế…).
- Tổ chức có thể có tư cách pháp nhân hay
không có tư cách pháp nhân nhưng phải có
năng lực chịu trách nhiệm pháp lý.
- Năng lực chịu trách nhiệm pháp lý của tổ chức
được xác định bằng giấy phép hoạt động của
tổ chức đã được cấp bởi cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hoặc bằng một văn bản thành lập
của cơ quan có thẩm quyền.



×