Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

soạn bài tự tình của hồ xuân hương văn 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.84 KB, 3 trang )

oạn bài Tự tình của Hồ Xuân Hương văn 11
Tháng Tám 10, 2015 - Category: Lớp 11 - Author: admin

Đề bài: Soạn bài Tự tình của Hồ Xuân Hương văn 11
I.

Tìm hiểu chung

1.

Tác giả



Hồ Xuân Hương (1772 – 1822)



Bà xuất thân từ một gia đình họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, Quỳnh lưu, Nghệ An



Bà là con của Hồ Phi Diễn, một người học tập rất giỏi



Bà nổi tiếng thông minh từ bé nhưng cũng không học hành đến nơi chủ yếu là tự học



Sau đó lớn lên bà đam mê văn thơ và trở thành một thi sĩ với nét thơ vừa thanh vưa tục





Người nhà còn tạo điều kiện cho bà mở phòng để tiếp khách yêu thơ



Bà có cuộc sống đời tư bất hạnh khi có ba đời chồng mà đời nào cũng làm lẽ



Sự nghiệp:



Các tác phẩm của bà được viết theo chữ Nôm



Các tác phẩm tiêu biểu: chùm thơ tự tình, bánh trôi nước, thiếu nữ ngủ say



Thơ Hồ Xuân Hương luôn bảo vệ những người phụ nữ thời phong kiến. Có thể nói thơ bà là thơ

của tiếng lòng người phụ nữ thời trọng nam khinh nữ. Bà từng có những vần thơ khá mạnh bạo để
bảo vệ những người phụ nữ không may bị chửa hoang:
“ Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian có đầy”
->


Bà được người đời mệnh danh là bà chúa thơ nôm

2.

Tác phẩm

a.

Hoàn cảnh sáng tác: đây là bài thơ nói về cảnh vợ lẽ của Hồ xuân Hương. Bà vốn là một người

nhạy cảm và có một tình yêu đẹp thế nhưng trong xã hội cũ bà cũng không thoát khỏi số phận của
người vợ lẽ. Sống trong cảnh tượng như thế Hồ Xuân Hương thảng thốt lên tâm sự của mình qua
bài thơ Tự tình
b.

Thể thơ: thất ngôn bát cú đường luật

c.

Bố cục: đề, thực, luận, kết

II.

Tìm hiểu chi tiết

1.

Hai câu đề:không gian thời gian và con người có kiếp vợ lẽ bơ vơ một mình




Thời gian ở đây là đêm khuya -> đây là khoảng thời gian mà tất cả mọi vật đều chìm trong giấc

ngủ thế nhưng nhân vật trữ tình vẫn phải bơ vơ một mình


Âm thanh của tiếng trống canh dồn được thể hiện qua từ “văng vẳng” -> sự thưa thớt, lẳng lặng

hiếm hoi.


“trơ” -> thể hiện sự trơ trọi, không thiết tha gì, mặt như không có hồn -> nỗi buồn vô hạn




Nghệ thuật đảo ngữ động từ trơ được đẩy lên đầu câu nhấn mạnh vào trạng thái hiện tại của

nhà thơ

->

“hồng nhan” là cái để nói về người con gái
Hai câu thơ gợi lên trạng thái và tâm tư của người phụ nữ với kiếp sống làm vợ lẽ. Đêm đã

khuya mọi thứ đều đang chìm trong giấc ngủ riêng chỉ có người phụ nữ ấy trơ cái hồng nhan với
cảnh vật xung quanh

2.


Hai câu thực: hướng đến cách giải sầu



Nhà thơ tìm đến rượu để giải sầu như rất nhiều người khác nhưng đúng là rượu càng uống

càng thấy tỉnh


Mặc dù nhà thơ uống nhiều nhưng chén hương đưa say rồi lại tỉnh và những lúc tỉnh ấy nỗi đau

lại càng hằn rõ hơn


Vầng trăng kia có thể là vầng trăng ngoài trời tối cũng có thể là tình yêu của người phụ nữ ấy



Trăng khuyết thể hiện sự chưa trọn vẹn của tình yêu

->

Nhà thơ mong muốn tìm rượu giải sầu nhưng nỗi đầu kiếp chồng chung “kẻ đắp chăn bông kẻ

lạnh lùng” quá lớn khiến cho nhà thơ có uống bao nhiêu thì nó vẫn cứ tỉnh cứ đau
3.

Hai câu luận: nhà thơ như muốn bùng nổ, muốn đi tìm hạnh phúc của mình





Hai câu thơ sử dụng biện pháp tu từ đảo trật tự cú pháp trong câu nhấn mạnh hành động của

rêu và đá


Nhà thơ rất tinh tế khi nhận ra sức sống mãnh liệt của những thứ nhỏ bé nhất



Và phải chăng những thứ nhỏ bé ấy chính là biểu tượng cho nhà thơ, và bà muốn đâm toạc xé

nát để tìm đến hạnh phúc cuộc đời mình. Bà không cam chịu sống trong cảnh không có yêu thương
này
4.

Hai câu kết: quy luật khắc nghiệt của thời gian và tuổi trẻ



Ngán -> thể hiện sự chán nản bất lực không thể làm gì



“xuân” được lặp lại hai lần kết hợp với điệp từ “lại” thể hiện sự khắc nghiệt của tuổi trẻ và thời

gian. Thời gian cứ trôi hết ngày này qua ngày khác kéo theo tuổi xuân của con người



“mảnh tình” -> nhỏ bé



Đã bé lại còn phải san se thành còn tí con con

III.


Tổng kết
Nhà thơ hồ Xuân Hương đã nói lên tiếng nói của người phụ nữ phong kiến. Họ có quyền được

yêu thương và có người bạn đời riêng của mình. thế nhưng thời thế trai năm thê bảy thiếp ấy người
phụ nữ phải chịu thiệt thòi. Nhà thơ nhận thấy được điều đó những cũng không thể làm gì được
ngoài việc chấp nhận kiếp làm vợ lẽ



×