Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Phân tích bài thơ đất vị hoàng của trần tế xương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (75.76 KB, 3 trang )

Phân tích bài thơ Đất vị hoàng của Trần Tế Xương
Tháng Ba 26, 2015 - Category: Lớp 11 - Author: admin

Phan tich bai tho Dat vi cua Tran Te Xuong – Đề bài: Anh chị hãy viết bài văn Phân tích bài
thơ Đất vị hoàng của Trần Tế Xương. Bài làm của Ngọ Thị Quỳnh lớp 11c2 trường THPT
Tuyên Quang.
Trần Tế Xương là một nhà thơ sinh ra và lớn lên tại một vùng quê có truyền thống học tập tại Nam
Định. Cuộc đời ngắn ngủi ba mươi bảy năm của ông gắn liền với một giai đoạn bi thương nhất của
đất nước, ông sinh ra trong hoàn cảnh bi thương và sục sôi tinh thần chiến đấu của đất nước.
Chính hoàn cảnh đau thương ấy khiến cho ông có những tác phẩm có tầm ảnh hưởng lớn va được
đánh giá cao. Trong số đó tác phẩm “đất vị hoàng” là một trong những tác phẩm được đánh giá cao
nhất trong số đó. Tác phẩm đã nói lên sự thay đổi đổ vỡ về đạo lí nề nếp sống của con người trong
xã hội thời bấy giờ đồng thời tác phẩm còn châm biếm thói xấu xa đang thịnh hành trong xã hội.

Mở đầu bài thơ tác phẩm đã đi vào ngay vấn đề trọng tâm của tác phẩm:
“Có đất nào như đất ấy không
Phố phường tiếp giáp với bờ sông”
Câu thơ đầu tiên tác phẩm đã sử dụng một biện pháp tu từ khá độc đáo gợi cho chúng ta nhiều suy
nghĩ “có đất nào như đất ấy không”một sự xót thương đang trào dâng trong lòng người thi nhân thật
khiến người đọc như chúng ta cũng cảm thấy xót xa . Một mảnh đất phồn vinh đẹp đẽ một mảnh đất
tốt tươi là thế bây giờ còn đâu. Câu thơ biểu thị một tâm trạng xót thương và có phần căm tức khi
mà một thời phồn vinh của đất nước giờ còn đâu.


Làng của Tú Xương ở nay đã trở thành một chốn phồn vinh đô thị nhưng tại sao nó lại khiến cho tác
giả lại cảm thấy đau xót như thế. Chính bởi là vì đất có phồn vinh thêm như đó lại không còn là của
nhân dân nữa. Nó đã trở thành chốn chơi bời của quân Pháp. Vùng đất nay đã phồn vinh hơn
nhưng lại khiến tác giả cảm thấy xơ xác tiêu điều hơn xưa. Phải chăng trong tâm trí của người con
của mảnh đất ấy thì chỉ khi nào mảnh đất ấy nguyên si như thủa bắt đầu của nó còn bây giờ chỉ là
một chốn xơ xác tiêu điều khiến tác giả cảm thấy thật đau xót chua cay làm sao . Tác giả không hề
sử dụng những hình ảnh ước lệ nữa mà chính là những câu thơ tả thực. Hai nét vẽ về cảnh đời


đáng buồn, đáng thương hại đối nhau. . Tác phẩm không chỉ nới lên vùng đất nơi Tế Xương sống
mà tác giả muốn nói đến cả một vùng nước Nam cũng tiêu điều không còn như xưa. Cả một vùng
nước Nam rộng lớn nay chỉ là một cái xác không hồn , sống trong một xã hội nhưng lại không sống
do trong xã hội đó trong vùng lãnh thổ đó . Câu thư phố phường tiếp giáp khiến cho tác giả thấy thật
là nhức mắt khó chịu. Dường như câu thơ ấy còn có thể hiểu theo một cách đó là sông núi nước
Nam không còn là của nước Nam nữa nó tiếp giáp với bờ sông như khiến cho chúng ta thấy được
sông núi nước Nam như đang trên bờ vực thẳm. Nhưng những thay đổi về đất đai như thế vẫn còn
chưa đủ. Núi sông lãnh thổ đã bị thực dân chiếm đóng và chính điều đó nó đã kéo theo những hệ
lụy rất trầm trọng:
“Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng”
Thật đáng buồn thay cái chữ hiếu được nhân dân dân ta coi là đạo lí ngàn đời nay. Vậy mà hỡi ôi
sao lại có cảnh con cái dám chửi lai bố mẹ dám khinh thường bố mẹ . Câu thơ khiến ta như hiểu
được một phần nào đó giá trị đạo đức chuẩn mực đạo đức khi đó đã không còn nữa. Cha mẹ đẻ
con cái ra chăm sóc nuôi dưỡng, sau khi cha mẹ già thì con cái chăm sóc mẹ, đó là một đạo lí. Con
cái nương tựa vào cha mẹ rồi cha mẹ nương tựa vào con cái vậy mà cái tình cảm đạo đức thiêng
liêng ấy bây giờ còn đâu. Điều đó khiến chúng ta cảm thấy thật phẫn nộ thật ghê sợ cái xã hội đó .
thử hỏi cái đạo đức căn bản đó của con người mà còn bị bôi đen bị hủy hoại như thế thì còn liệu
một chuẩn mực đạo đức nào còn tồn tạ được?. Câu thơ này đã gợi mở cho chúng ta xã hội này đã
không còn một thứ tình cảm đạo đức nào nữa. Và cũng thật vậy câu thơ tiếp sau đó đã bổ sung ý
thơ cho câu thơ trên và khiến chúng ta thật ngỡ ngàng. Tình cảm vợ chồng cũng là một tình cảm
khá đặc biết. Nó này sinh ra tất cả mọi mối quan hệ trong xã hội.
Có yêu thương nhau mới đến với nhau cùng nhau sinh con đẻ cái. Vậy mà cái tình cảm ấy cũng bị
hủy hoại bị bôi đen héo úa. Thật khiến chúng ta cảm thấy xót xa tột cùng. Ta nghe ý thơ như một lời
của chính tác giả đang than thở cho một xã hội đã suy tàn đã trên bờ diệt vong. Xã hội ấy không
còn một giá trị đạo đức nào nữa và xã hội ấy đã để đồng tiền vượt lên trên tất cả các chuẩn mực
đạo đức. Những câu thơ cuối bài thơ đa thể hiện rõ điều đó.


Keo cú người đâu như cứt sắt

Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng
Bắc nam hỏi khắp người bao tỉnh
Có đất nào như đất ấy không”
Một bộ tứ bình biếm họa hoàn chỉnh. Ở cái đất Vị Hoàng thuở ấy nhan nhản những loại người “tham
lam” và “keo cú”. “Keo cú” đến bần tiện, ghê tởm và hôi hám. Nhà thơ ngạc nhiên hỏi và so sánh:
“người đâu như cứt sắt” sao mà đáng sợ, đáng khinh bỉ! Lại có loại người “tham lam” đến cùng cực,
nhịp sống cuộc đời họ chỉ là chuyện thở rặt hơi đồng”. “Thở” là nhãn tự, rất linh diệu; nếu thay bằng
chữ “nói” hay một từ nào khác thì không lột tả được bản chất loại người tham lam, đê tiện này. Vì đã
“thở” phải đi liền với “hơi” – “hơi đồng”, tiền bạc. “Truyện Kiều” cũng có câu: “Máu tham hễ thấy hơi
đồng thì mê!”. Chỉ vì tiền, coi tiền bạc là trên hết, là trước hết trong mọi mối quan hệ gia đình và xã
hội. “Rặt” là từ cổ, là nói cách dân gian, nghĩa là “toàn là”, “đều là”. Phép đảo ngữ rất có giá trị thẩm
mỹ, tạo nên ngữ điệu dữ dội, khinh bỉ, một tiếng chửi đời cay độc, lên án loại người tham lam, keo
cú.
Đằng sâu nội dung trực tiếp của bài thơ còn là một tấm lòng của nhà thơ với nỗi đau của người
trong cuộc người bị mất nước người bị tổn thương. Bài thơ ngắn gọn với kết cấu đường luật chặt
chẽ cùng bút pháp hiện thực đã cho chúng ta thấy được thời đại mà Tú Xương đang sống một thời
đại bất công bạo lực chỉ có đồng tiền là trên hết đồng tiền chi phối tất cả mọi chuẩn mực đạo đức.



×