Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Soạn bài thương vợ của trần tế xương lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.51 KB, 3 trang )

Soạn bài thương vợ của Trần Tế Xương lớp 11
Tháng Tám 10, 2015 - Category: Lớp 11 - Author: admin

Đề bài: Soạn bài thương vợ của Trần Tế Xương văn 11
I.

Tìm hiểu chung

1.

Tác giả



Tú Xương (1870 – 1907), tên thật là Trần Tế Xương



Quê :ở làng Vị xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định nay là phố Minh Khai, tỉnh Nam Định



Hiệu là Mộng tích, tự là Mặc Trai



Xuất thân từ một gia đình có truyền thống nho gia



Ông đi học từ rất sớm và nổi tiếng thông minh.





Lớn lên ông đi thi nhưng lại gặp phải nhiều khó khăn trong con đường thi cử



Sự nghiệp:



Ông để lại nhiều bài thơ có giá trị



Dòng văn học: trào phúng



Các tác phẩm tiêu biểu: mùng một tết viếng cô Ký, thương vợ, vịnh khoa thi hương…

2.

Tác phẩm

a.

Hoàn cảnh sáng tác: Trần tế Xương là một người rất thông minh tuy nhiên sự nghiệp thi cử của

ông lại gặp nhiều gian nan vất vả. Đã thế ông lại lấy vợ rất sớm từ năm mới 16 tuổi. Và ông thì

chẳng làm được gì nhiều chỉ có tập trung học hành thi cử ra làm quan. Trong những năm tháng ấy
vợ ông chính là người lo cho ông từ mọi mắt từ sinh hoạt đến đi thi. Chính vì thế mà nhà thơ xấu hổ
vì không làm tròn trách nhiệm của một người chồng, nhà thơ thương vợ và đã làm bài thơ này
b.

Thể thơ: thất ngôn bát cú đường luật

c.

Đề tài: người vợ

d.

Bố cục: đề, thực, luận, kết

II.

Phân tích

1.

Hai câu đề : giới thiệu công việc của người vợ



“quanh năm” -> thể hiện công việc diễn ra ngày hàng giờ hàng năm. Đó là công việc quen thuộc

và diễn ra trong tần suất lớn



Công việc mà vợ nhà thơ làm quanh năm suốt tháng đó là buôn bán



Địa điểm : mom song -> gợi lên sự nguy hiểm có thể nuốt chửng bà bất cứ lúc nào. Mom sông

hay diễn ra sạt lở đất


“nuôi đủ” -> cuộc sống không được an nhàn, công việc vất vả như thế nhưng cũng chỉ đủ ăn đủ

sống mà thôi


“năm con với một chồng” -> nhà thơ đặt mình ngang hàng với những đứa con kết hợp với số

đếm rõ ràng cụ thể nhà thơ như muốn nói cái sự vô dụng của mình, không giúp được gì cho vợ, chỉ


giống như một đứa con
->

Hai câu đầu nhà thơ đã giới thiệu được công việc buôn bán vất vả và chứa đầy những nguy

hiểm của vợ mình. Không những thế công việc ấy cũng chỉ làm đủ nuôi cả gia đình. Bà đã đảm
nhiệm vai trò lớn nhất trong gia đình. Nhà thơ như xấu hổ và tự xếp mình ngang với những đứa
con.

2.


Hai câu thực: sự vất vả nhọc nhằn trong công việc của bà Tú



“lặn lội” -> sự nhọc nhằn vất vả đi đêm về hôm



Nhà thơ sử dụng hình ảnh con cò trong ca dao để nói đến thân phận của người vợ.



“quãng vắng” là những quãng không có người, chứa đầy những nguy hiểm

->


Câu thơ gợi lên sự vất vả lặn lội bấp chấp nguy hiểm của bà Tú để kiếm sống nuôi gia đình
Không những thế bà cũng phải eo sèo kì cò khi thêm giá bớt giá ở những buổi chợ đông -> mệt

mỏi
3.

Hai câu luận: nói về duyên nợ giữa ông Tú và bà Tú



Số đếm 1, 2 thể hiện mức độ tăng tiến




Người ta hay nói phải duyên phải nợ nhau mới làm vợ chồng, có duyên không nợ thì không đến

được với nhau


ở đây ông bà Tú vừa có duyên lại có nợ nên nhà thơ như an ủi vợ mình âu đành chịu phận lấy

một người chồng không lo nổi cho gia đình


số đếm “năm nắng mười mưa” như một lời biết ơn và khen ngợi của nhà thơ dành cho vợ mình.

Ca dao có một nắng hai sương thì ba Tú phải chịu hẳn năm nắng mười mưa. Thế nhưng bà không
một lời than thở với chồng mình


->

hai câu thơ thể hiện được sự biết ơn và trân trọng vợ của nhà thơ. Ông tự thấy thương cho vợ

khi lấy phải một người như mình. Đồng thời qua đó ta thấy được sự hi sinh và không quản công của
bà Tú
4.

hai câu kết: nhà thơ tự chửi chính mình



nhà thơ tự chửi mình, cười mình là người ăn ở bạc bẽo nên mới để cho vợ của mình rơi vào


hoàn cảnh như vậy


có chồng là để cùng nhau đỡ đần làm ăn cho gia đình nhưng đây thì có chồng cũng như không

->

nhà thơ xấu hổ nhưng không biết làm cách nào để giúp vợ mà chỉ biết tự trách bản thân mình

III.

tổng kết



bài thơ thể hiện nỗi lòng của nhà thơ hay chính là nỗi lòng của những người tri thức mang mông

sách vở ra làm quan trường. Thi cử không xong, cũng chẳng làm được việc gì bỗng trở thành một
gánh nặng trên vai người vơ đảm. Nhà tự thấy xấu hổ và có lỗi tự trách bản thân nhưng lại không
có cách nào giúp vợ



×