Tải bản đầy đủ (.pdf) (238 trang)

Luận văn một số giải pháp nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cho đội ngũ cán bộ khoa học ở trung tâm hành chính quốc gia hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 238 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU..............................................................................................................................4
Chương 1. Cơ sở lý luận về kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cho
đội ngũ cán bộ khoa học .....................................................................................8
1.1. Khái niệm cán bộ khoa học ................................................................................8
1.1.1. Khái niệm ...................................................................................................8
1.1.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học ..............................................................10
1.1.3. Kết luận mục 1.1 ......................................................................................12
1.2. Khái niệm công nghệ thông tin ........................................................................12
1.2.1. Khái niệm .................................................................................................12
1.2.2. Các giá trị xã hội gián tiếp của CNTT được ứng dụng trong
đời sống ..................................................................................................16
1.2.3. Kết luận mục 1.2 ......................................................................................19
1.3. Khái niệm kỹ năng, kỹ năng sử dụng CNTT..................................................19
1.3.1. Khái niệm kỹ năng ...................................................................................19
1.3.2. Kỹ năng sử dụng CNTT ...........................................................................21
1.3.3. Đặc điểm và vai trò của kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin đối
với công tác của cán bộ khoa học...........................................................23
Chương 2. Thực trạng kỹ năng sử dụng CNTT trong đội ngũ cán bộ
khoa học của Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh..........25
2.1. Các tiêu chí đánh giá.........................................................................................25
2.2. Thực trạng trong đội ngũ cán bộ giảng dạy nghiên cứu ...............................26
2.2.1. Về nhận thức, thái độ ...............................................................................26
2.2.2. Về kiến thức đã được đào tạo, nhu cầu nâng cao kiến thức....................27
2.2.3. Mức độ hoàn thiện các nhóm kỹ năng .....................................................29
2.2.4. Việc ứng dụng các kỹ năng vào nghiên cứu ............................................32
2.3. Đánh giá chung..................................................................................................36

--- Trang 1 ---



Chương 3. Các giải pháp nâng cao kỹ năng sử dụng CNTT cho đội ngũ
cán bộ khoa học ở trung tâm Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh hiện nay .........................................................................................43
3.1. Một số yêu cầu về kỹ năng sử dụng CNTT đối với cán bộ khoa học của
Học viện hiện nay .............................................................................................43
3.2. Các giải pháp .....................................................................................................44
3.2.1. Các giải pháp mang tính định hướng ......................................................44
3.2.2. Các giải pháp cụ thể ................................................................................48
PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................. 136

--- Trang 2 ---


MỤC LỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Trang
Bảng thống kê chi tiết số lượng thiết bị CNTT các loại theo các đơn vị
tại Trung tâm Học viện đang sử dụng ..........................................................................38
Biểu đồ tần suất sử dụng máy tính................................................................................27
Biểu đồ nhận thức về hiệu quả của CNTT đối với công việc......................................30
Sơ đồ mạng trục cáp quang tại trung tâm Học viện ...................................................41
Sơ đồ mạng tại trung tâm Học viện ..............................................................................41

--- Trang 3 ---


MỞ ĐẦU
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định phát triển khoa học và công nghệ là nền
tảng, là động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chỉ thị số 58CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng xác

định mục tiêu từ nay đến năm 2010: "CNTT được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh
vực, trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã
hội...". Mục tiêu này được thể chế hoá trong Quyết định 331/QĐ-TTg ngày
06/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển nguồn nhân
lực CNTT đến năm 2010 và Quyết định 246/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 phê
duyệt Chiến lược phát triển CNTT và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và
định hướng đến năm 2020. Ứng dụng Công nghệ Thông tin (CNTT) đã thực sự là
đòi hỏi cấp bách và cũng trở thành một bộ phận quan trọng của quá trình phát triển
kinh tế-xã hội nước ta. Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh là
một trung tâm quốc gia về đào tạo và nghiên cứu khoa học không thể nằm ngoài
quá trình này. Yêu cầu của tình hình mới đối với Học viện đã được Bộ Chính trị
nêu rõ trong Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 30/7/2005 là phải "từng bước hiện đại
hoá cơ sở vật chất-kỹ thuật để tương xứng với một trung tâm đào tạo và nghiên cứu
lớn của quốc gia và khu vực". Để thực hiện được yêu cầu đó, Bộ Chính trị chỉ đạo:
"trong những năm tới, ưu tiên đầu tư theo quy hoạch, chú trọng đầu tư về CNTT".
Trước áp lực đổi mới và sự phát triển mạnh mẽ của CNTT, Học viện đã thực
hiện một số bước đi tham gia vào quá trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên từ
năm 1995 đến nay, Học viện vẫn đang tiến những bước chậm chạp trong nghiên
cứu ứng dụng CNTT. Năm 1995 Giám đốc Học viện thành lập Ban Chỉ đạo CNTT
thì năm đó Đề tài "Định hướng ứng dụng và phát triển CNTT của Học viện giai
đoạn 1996-2000" được nghiệm thu. Đến năm 1999, Đề tài "Ứng dụng CNTT trong
hoạt động quản lý tại khu vực trung tâm Học viện" được nghiệm thu. Năm 2003
mới có một đề tài nghiên cứu cấp Bộ về ứng dụng CNTT trong hệ thống Học viện

--- Trang 4 ---


được hoàn thành. Các đề tài nêu trên đều nghiên cứu CNTT và việc tổ chức ứng
dụng nó trên bình diện chung. Mục tiêu chủ yếu của các đề tài này là nghiên cứu
các cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc tổ chức xây dựng hạ tầng CNTT tại Học

viện, đặc biệt là khu vực trung tâm Học viện. Chính vì vậy từ kết quả của các đề tài
trên, Học viện đã tiến hành xây dựng và có một hạ tầng kỹ thuật CNTT được coi là
tốt nhất trong khu vực trường học hiện nay (theo đánh giá của đồng chí Trưởng
phòng Quản lý CNTT (Văn phòng Học viện) tại Hội nghị chuyển giao phần mềm
văn phòng bản quyền của Microsoft ngày 30/10/2008 vừa qua). Mặc dù vậy công
nghệ WEB, lĩnh vực công nghệ năng động nhất hiện nay lại chưa được chú ý phát
triển. Do đó, thực hiện Nghị quyết 52-NQ/TW của Bộ Chính trị, năm 2006 Học
viện có Đề tài "Ứng dụng CNTT trong công tác lãnh đạo, quản lý ở Học viện".
Nghiên cứu này không đề cập đến những vấn đề cũ mà chủ yếu tìm hiểu nguyên lý,
đánh giá thực trạng và phát kiến những giải pháp ứng dụng công nghệ WEB vào
công tác lãnh đạo quản lý của Học viện, đáp ứng đòi hỏi cải cách hành chính.
Như vậy, cho đến nay chưa có bất kỳ một đề tài khoa học nào nghiên cứu cụ
thể việc ứng dụng CNTT cho công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học của Học
viện. Hiện nay nhiều câu hỏi chưa được trả lời như: ứng dụng CNTT vào đào tạo
và nghiên cứu khoa học như thế nào; đánh giá hiệu quả ứng dụng CNTT vào đào
tạo và nghiên cứu ra sao; những yếu tố nào chi phối hiệu quả ứng dụng CNTT vào
đào tạo và nghiên cứu...Hệ thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ đào tạo và nghiên cứu
cũng đã được triển khai nhưng chưa đồng bộ, thậm chí triển khai rồi không ứng
dụng được vì thiếu kế hoạch, thiếu người dùng...Có lẽ vì vậy mà hoạt động đào tạo
và nghiên cứu của Học viện chưa có chuyển biến tích cực, chưa thật sự hoà nhập
vào dòng chảy của quá trình phát triển đất nước.
Trong rất nhiều yếu tố chi phối hiệu quả ứng dụng CNTT vào đào tạo và
nghiên cứu khoa học nói chung, thì kỹ năng sử dụng CNTT của đội ngũ cán bộ
giảng dạy, nghiên cứu có vị trí hàng đầu, giữ vai trò quyết định. Nếu như hạ tầng
kỹ thuật CNTT có vị trí tiên phong, khai mở, và giữ vai trò làm nền tảng, cơ sở
--- Trang 5 ---


cho sự phát triển ứng dụng CNTT vào bất cứ lĩnh vực nào, thì mục tiêu cuối cùng
chính là người thực hiện việc ứng dụng đó. Mối quan hệ này tương tự mối quan

hệ giữa máy móc và người thợ máy. Nếu có máy móc mà không có thợ thì cái
máy chỉ là một cái xác vô hồn bất động. Để làm sáng tỏ vấn đề này, đề tài "Một
số giải pháp nâng cao kỹ năng sử dụng Công nghệ Thông tin cho đội ngũ cán bộ
khoa học ở trung tâm Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh hiện
nay" thực sự mang tính cấp thiết.
Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về cán bộ khoa học; Công
nghệ Thông tin; kỹ năng sử dụng CNTT vào công tác giảng dạy, nghiên cứu;
mối quan hệ giữa kỹ năng sử dụng CNTT và hiệu quả hoạt động giảng dạy,
nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở đó xây dựng các tiêu chí đánh giá thực tiễn kỹ
năng sử dụng CNTT của cán bộ khoa học Học viện. Qua việc khảo sát và đánh
giá thực trạng kỹ năng sử dụng CNTT của đội ngũ cán bộ khoa học Học viện,
Đề tài hướng tới mục tiêu đề ra các giải pháp khoa học và thiết thực nhằm phát
huy những điều kiện đã và đang có, đồng thời khắc phục được những hạn chế,
khuyết điểm từ cả hai bình diện chủ quan và khách quan, từ đó nâng cao kỹ năng
sử dụng CNTT cho cán bộ khoa học của Học viện. Những kết quả nghiên cứu từ
đề tài này sẽ là luận cứ khoa học cho việc giải quyết vấn đề then chốt nhất, cơ
bản nhất của quá trình ứng dụng CNTT vào đào tạo và nghiên cứu của Học viện,
tạo cơ sở và động lực cho ứng dụng CNTT mạnh mẽ, toàn diện tại khu vực trung
tâm và trong toàn bộ hệ thống Học viện.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: trung tâm Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia
Hồ Chí Minh (135 Nguyễn Phong Sắc, Nghĩa Tân, Cầu Giấy, Hà Nội).
- Thời gian nghiên cứu: nghiên cứu đã tiến hành trong năm học 2007-2008.

--- Trang 6 ---


- Đối tượng nghiên cứu là cán bộ, công chức Học viện (bao gồm tổng số thực
tế nghiên cứu là 278 người. Trong đó có 133 nam, 144 nữ. Qua quá trình nghiên

cứu đã phân loại thành 4 (bốn) nhóm là cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu, cán
bộ vừa giảng dạy vừa nghiên cứu, và cán bộ khác.
Theo thống kê của Vụ Tổ chức-Cán bộ Học viện thì con số cán bộ khoa học
năm 2008 của Học viện đang công tác tại trung tâm Học viện là 612 người. Tuy
nhiên quan niệm về "cán bộ khoa học" chưa thống nhất, thể hiện ngay trong cách
xác định của Vụ Tổ chức-Cán bộ, do đó Vụ này đưa ra một con số khác là 186 cán
bộ khoa học. Do số lượng cán bộ khoa học của Học viện không quá lớn nên nhóm
nghiên cứu đặt ra yêu cầu khảo sát gần như toàn bộ các cá nhân thuộc nhóm đối
tượng nghiên cứu. Qua đó có thể đánh giá chính xác thực trạng kỹ năng sử dụng
CNTT. Vì vậy số đối tượng được khảo sát là cán bộ khoa học có 216 người trong
tổng số 278 người.
- Phương pháp nghiên cứu: quá trình nghiên cứu sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học gồm phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp lịch sử
cụ thể, phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê xã hội học và một số phương
pháp khác.

--- Trang 7 ---


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ KHOA HỌC
1.1. Khái niệm cán bộ khoa học
1.1.1. Khái niệm
Cán bộ khoa học là khái niệm được sử dụng rất nhiều. Nhưng cho đến nay
không có một định nghĩa chính thức nào về khái niệm cán bộ khoa học. Có nhiều
cách sử dụng khác nhau đối với khái niệm "cán bộ khoa học". Tại Quyết định 224TTg ngày 24/5/1976 của Thủ tướng Chính phủ về việc đào tạo trên đại học ở trong
nước có nêu: "đội ngũ cán bộ khoa học gồm hàng nghìn người tốt nghiệp tiến sĩ,
phó tiến sĩ". Năm 2000, Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh đưa ra số liệu thống
kê về "cán bộ khoa học kỹ thuật" bao gồm các nhóm người có trình độ cao đẳng,

đại học, thạc sỹ, tiến sỹ. Ngày 19/4/2000 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định
322/QĐ-TTg phê duyệt đề án "Đào tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật tại các cơ sở
nước ngoài bằng ngân sách nhà nước", trong đó xác định "cán bộ khoa học, kỹ
thuật" là người được đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ, đại học. Quan niệm này thống
nhất trong các quy định của Chính phủ nên năm 2006, tại Quyết định 356/QĐ-TTg
điều chỉnh Đề án 322 nêu trên, do mở rộng đối tượng đào tạo ra ngoài phạm vi cán
bộ thuộc đơn vị giảng dạy, nghiên cứu nên Đề án được đổi tên là ""Đào tạo cán bộ
tại các cơ sở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước". Như vậy theo các văn bản của
Chính phủ thì cán bộ khoa học là những người có hai tiêu chí cơ bản: thứ nhất là
được đào tạo đạt trình độ từ cử nhân trở lên (có thể là cử nhân cao đẳng), thứ hai là
đang công tác, làm việc tại các cơ quan, đơn vị nghiên cứu khoa học và giảng dạy.
Tại Học viện, có quan niệm phổ biến hiện nay cho rằng "đội ngũ cán bộ
khoa học của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh là những
người thuộc biên chế cơ hữu của Học viện có trình độ từ đại học trở lên, được đào
tạo cơ bản, có hệ thống về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
chuyên ngành về khoa học xã hội - nhân văn, khoa học hành chính và các khoa

--- Trang 8 ---


học khác đang làm nhiệm vụ nghiên cứu, giảng dạy, đồng thời có thể làm cả chức
năng lãnh đạo, quản lý trong một thời gian nhất định" (TS Lê Văn Lợi, Vụ Tổ
chức-Cán bộ). Có thể thấy quan niệm này không hoàn toàn trùng khớp với quan
niệm của Chính phủ. Nếu như Chính phủ đòi hỏi hai tiêu chí chặt chẽ thì Học viện
chỉ đòi hỏi một tiêu chí cơ bản là có trình độ từ đại học trở lên. Điều này xuất phát
từ thực tế là cán bộ có trình độ khoa học cao đang là nguồn bổ sung quan trọng
cho công tác quản lý. Có lẽ cũng từ thực tế này mà Chính phủ phải điều chỉnh Đề
án cử người đi học nước ngoài, đối tượng không còn chỉ là cán bộ khoa học mà
mở rộng ra cả công chức quản lý. Một khác biệt nữa là trong khi Chính phủ xác
định cán bộ khoa học có thể chỉ đạt trình độ cử nhân cao đẳng, thì tại Học viện

đòi hỏi này cao hơn, phải từ trình độ cử nhân đại học trở lên. Đây là một đặc thù
của Học viện bắt nguồn từ khâu tuyển dụng đầu vào (chỉ tuyển dụng ứng viên có
trình độ cử nhân đại học trở lên).
Cũng là công chức của Học viện, nhưng GS,TS Mạch Quang Thắng, Vụ
trưởng Vụ Quản lý khoa học lại có quan niệm khác so với các quan niệm trên.
Trong bài viết "Vấn đề nhân tài và chính sách đối với nhân tài - một số vấn đề đặt
ra ở Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (Bài viết tham gia Hội
thảo khoa học do Văn phòng Học viện tổ chức quý II-2008, chủ đề: “Luật công
chức, công vụ và vấn đề văn hoá, văn minh công sở tại Học viện Chính trị-Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh”), ông viết: "thật khó mà duy danh, định nghĩa thế nào
là nhân tài ở Học viện. Ai là nhân tài trong số hơn 2000 cán bộ, công chức ở Học
viện? Lấy tiêu chí chức vụ công tác ư? Không nên. Lấy chức danh khoa học hay
học vị? Cũng không được. Do vậy, nhiều khi ở bài viết này, tôi chỉ đề cập chung
cho cán bộ nghiên cứu, giảng dạy (gọi chung là cán bộ khoa học)".
Như vậy, GS,TS Mạch Quang Thắng đã quan niệm cán bộ khoa học là cán
bộ nghiên cứu, giảng dạy - có thể hiểu là cán bộ làm công tác nghiên cứu và giảng
dạy. Quan niệm này có nhiều điểm hợp lý. Trong 3 (ba) quy chế hiện hành của Học
viện về giảng viên, chuyên viên và nghiên cứu viên thì nhiệm vụ nghiên cứu chỉ đặt
--- Trang 9 ---


ra với giảng viên và nghiên cứu viên. Về thực chất thì cán bộ khoa học nên hiểu là
cán bộ làm công tác nghiên cứu và truyền dạy kiến thức khoa học. Trong hoàn cảnh
chiến tranh hay thời kỳ đất nước còn khó khăn, Đảng và Nhà nước ta đều xác định
các nhà khoa học không căn cứ vào học vị mà chủ yếu vào thành tựu khoa học và
thực tế công tác của mỗi cá nhân. Cần hiểu thực chất khái niệm "cán bộ khoa học"
là người nghiên cứu khoa học do nhà nước trả lương. Hoạt động nghiên cứu khoa
học vẫn phải là tiêu chí quan trọng nhất để xác định một người là cán bộ khoa học.
Còn học vị khoa học nên hiểu là tiêu chí đánh giá trình độ kiến thức chuyên sâu của
một người nghiên cứu khoa học, là tiêu chuẩn dự báo năng lực nghiên cứu.

Để hiểu rõ hơn về khái niệm cán bộ khoa học, cần tìm hiểu thêm về hoạt
động nghiên cứu khoa học.
1.1.2. Hoạt động nghiên cứu khoa học
Các giáo trình môn Phương pháp nghiên cứu khoa học dành cho sinh viên
đại học nước ta hiện nay cùng chung định nghĩa: "Nghiên cứu khoa học là việc tìm
kiếm, xem xét, điều tra (kể cả làm thí nghiệm) để từ những dữ kiện có được (số
liệu, tài liệu, kiến thức đã có...) đạt đến một kết quả mới hơn, cao hơn, giá trị hơn".
Hoạt động nghiên cứu khoa học bao gồm ba mảng cấu thành. Đầu tiên là
công việc tìm kiếm, thu thập và xử lý thông tin. Người nghiên cứu thông qua các
công cụ và kỹ năng sử dụng công cụ của mình sẽ tìm kiếm thông tin cần thiết để
bắt đầu quá trình nghiên cứu. Đây là hoạt động hết sức quan trọng, tạo nên khối
lượng kiến thức rộng lớn, đồ sộ làm nền tảng trí tuệ cho người nghiên cứu. Sau khi
liên tục tìm kiếm, cập nhật các thông tin thì người nghiên cứu bắt đầu hình thành
các ý tưởng khoa học và thực hiện việc thu thập, sắp xếp thông tin theo những mối
liên hệ nhất định. Đây cũng là bước đầu tiên của quá trình xử lý thông tin nghiên
cứu. Trên cơ sở các thông tin thu thập và được sắp xếp, người nghiên cứu tìm hiểu
các vấn đề quan tâm theo các phương pháp khoa học, từ đó hình thành kiến thức
khoa học phục vụ quá trình đi đến mục tiêu nghiên cứu đã đề ra. Toàn bộ hoạt động

--- Trang 10 ---


này còn được gọi là "đầu tư quá khứ". Đây là hoạt động quan trọng, làm tiền đề cho
tất cả hoạt động nghiên cứu sau đó. Việc xử lý thông tin bằng nhiều phương pháp
khoa học khác nhau mang dấu ấn trí tuệ cá nhân đã trở thành bí quyết, mấu chốt
thành công của mỗi nhà khoa học.
Công việc tiếp theo của người nghiên cứu là tìm ra những vấn đề "trong quá
khứ", dùng các phương pháp nghiên cứu khoa học để tìm hiểu thực tại, khám phá
những quy luật mới, đưa ra những định đề, khái niệm khoa học mới...Từ đó giải
quyết mục tiêu nghiên cứu bằng các kết quả nghiên cứu. Đó có thể là chính những

khái niệm mới, định đề mới, quy luật mới tìm ra. Nhưng cũng có thể là những kiến
nghị có căn cứ khoa học để giải quyết những vấn đề của hiện tại. Đây là hoạt động
chính, hoạt động chủ yếu của nghiên cứu khoa học. Đây là quá trình mang tính hữu
ích đối với cuộc sống hay là sự phát triển. Nó là sự khai mở trí tuệ con người trên
những nấc thang tiến hoá của loài người.
Mảng hoạt động cuối cùng trong nghiên cứu khoa học là công bố kết quả
nghiên cứu. Các kết quả nghiên cứu được gọi là công trình nghiên cứu khoa học
chính là các kiến thức. Hình thức công bố kết quả nghiên cứu tuỳ thuộc vào sự phát
triển của xã hội, trong hàng thế kỷ nay, loài người biết đến những hình thức phổ
biến nhất là văn bia, sách, báo, tạp chí. Cũng cần nói thêm là vật liệu lưu giữ thông
tin khoa học truyền thống là đá, xương thú (mai rùa, xương cá...), mộc (gỗ, tre,
trúc...), đất nung và giấy. Ngày nay xuất hiện ngày càng nhiều các vật liệu mới để
lưu giữ thông tin bên cạnh các vật liệu truyền thống như băng từ, đĩa từ, đĩa quang
học...Có thể thấy xu hướng phát triển chung của các vật liệu này là ngày càng giảm
thể tích, khối lượng, đồng thời số lượng thông tin lưu giữ ngày càng tăng tính trong
một đơn vị vật liệu. Đi kèm với sự phát triển của vật liệu lưu giữ thông tin, công
nghệ trao đổi thông tin cũng phát triển nhanh và rất thuận tiện cho việc phổ biến
cũng như tìm kiếm các kết quả nghiên cứu khoa học.

--- Trang 11 ---


1.1.3. Kết luận mục 1.1
Những hiểu biết khái quát về cán bộ khoa học và hoạt động nghiên cứu khoa
học vừa nêu trên cho phép dẫn đến một số kết luận sau:
Một là, cán bộ khoa học của Học viện phải là những người tạo thành lực
lượng nghiên cứu khoa học của Học viện. Vì vậy cán bộ khoa học của Học viện
bao gồm tất cả những cán bộ, công chức Học viện có học vị từ cử nhân đại học trở
lên nhưng phải thuộc các chuyên ngành khoa học xã hội và nhân văn.
Hai là, tương ứng với các mảng hoạt động nghiên cứu khoa học thì yêu cầu

đối với cán bộ khoa học Học viện để thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu là phải
có khả năng thu thập, sắp xếp và xử lí thông tin phục vụ nghiên cứu; khả năng phát
hiện vấn đề và nhìn nhận vấn để bắt đầu nghiên cứu; khả năng và phương pháp tư
duy; khả năng trình bày vấn đề khoa học: có kĩ thuật, rõ, dễ hiểu.
1.2. Khái niệm công nghệ thông tin
Tương tự khái niệm "cán bộ khoa học", CNTT cũng là khái niệm được nhắc
đến rất nhiều ở nước ta trong gần 20 năm nay. Thế nhưng không phải khái niệm
này đã được hiểu thống nhất trong mọi ngữ cảnh sử dụng và ngay cả trong giới
nghiên cứu.
1.2.1. Khái niệm
Khoản 1 điều 4 Luật Công nghệ thông tin năm 2006 giải thích "Công nghệ
thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện
đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số". Có thể
hiểu định nghĩa này trong Luật một cách đơn giản và ngắn gọn là công nghệ về
thông tin số. Theo Bách khoa toàn thư mở (Wikipedia) thì "CNTT là ngành sử
dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền,
và thu thập thông tin. CNTT được xác định là một thuật ngữ bao trùm tất cả các
ngành có liên quan đến tin học". Hai khái niệm trên khác nhau ở hai điểm: trong
khi Luật Việt Nam không xác định phương tiện cụ thể áp dụng trong CNTT, và xác

--- Trang 12 ---


định rõ đối tượng của công nghệ đó là thông tin số, thì Wikipedia lại xác định cụ
thể công cụ hiện đại sử dụng trong CNTT là máy tính và phần mềm máy tính và
không xác định dạng thông tin cụ thể.
Lịch sử ra đời của ngành khoa học CNTT cho thấy ngành này có sự khởi
nguồn từ Tin học. Từ "tin học" đã được dịch từ informatique trong tiếng Pháp. Từ
informatics trong tiếng Anh cũng bắt nguồn từ từ tiếng Pháp này, nhưng theo thời
gian informatics đã mang nghĩa khác dần với nghĩa ban đầu và hầu như chỉ còn

được dùng phổ biến tại châu Âu. Ngày nay, thuật ngữ tiếng Anh tương đương với
informatique là computer science, nghĩa là "khoa học về máy tính". Liên quan đến
Tin học có nhiều thuật ngữ có nghĩa gần giống nhau và dễ bị nhầm lẫn ví dụ như:
Khoa học máy tính (ngành nghiên cứu các cơ sở lý thuyết của tin học như thuật
toán, ngôn ngữ hình thức, lý thuyết đồ thị, đồ họa máy tính... nghĩa là chỉ có liên
quan gián tiếp đến phần mềm và máy tính); Kỹ thuật máy tính (nghiên cứu về việc
chế tạo và sử dụng các thiết bị tin học); Kỹ nghệ phần mềm (nghiên cứu về việc mô
hình hóa và phát triển phần mềm, hay còn được gọi là Công nghệ phần mềm).
Theo Wikipedia, Tin học là ngành nghiên cứu về việc tự động hóa xử lý
thông tin bởi một hệ thống máy tính cụ thể hoặc trừu tượng. Người ta có thể làm
việc với tin học bằng bất cứ một hệ thống nào hoạt động tương tự với các mạch
lôgic: các máy cơ học (chẳng hạn máy tính Pascal và ô-tô-mát), máy khí động, hệ
thống thủy lực... Những chương trình tin học đầu tiên được viết từ trước sự ra đời
của máy tính rất lâu. Một số phân nhánh quan trọng của Tin học là Khoa học máy
tính; Công nghệ phần mềm; Phương pháp số; Hệ điều hành; Phân tích hệ thống; Cơ
sở dữ liệu và Cấu trúc dữ liệu; Kiến trúc máy tính; Mạng máy tính; Tính toán khoa
học. Ngoài ra ngành tin học có quan hệ chặt chẽ với nhiều ngành khác. Các ngành
này có nhiều phần chung, tuy vẫn khác nhau ở nhiều điểm quan trọng:
Thuật toán: là dãy thao tác lệnh mà sau một số bước hữu hạn từ dữ liệu đầu
vào (input) đã cho, ta có dữ liệu đầu ra (output).

--- Trang 13 ---


Trí tuệ nhân tạo: cài đặt và nghiên cứu các hệ thống thể hiện hành vi hoặc trí
thông minh tự động của bản thân, đôi khi được phỏng theo đặc điểm của các thực
thể sống. Tin học gắn bó chặt chẽ với Trí tuệ nhân tạo, bởi phần mềm và máy tính
là các công cụ cơ bản cho việc phát triển trí thông minh nhân tạo.
Tin sinh học: áp dụng các kỹ thuật của toán học ứng dụng, khoa học thông
tin, thống kê và khoa học máy tính để giải quyết các bài toán sinh học.

Kỹ nghệ máy tính: phân tích, thiết kế, và xây dựng các hệ thống máy tính
(bao gồm phần cứng và mạng máy tính).
Độ phức tạp tính toán: một ngành con của khoa học máy tính, nghiên cứu
tìm các cận dưới cơ bản của tính toán.
Lập trình: hoạt động viết mã chương trình.
Đồ họa máy tính: một ngành tính toán hình ảnh (visual computing), trong đó,
máy tính được sử dụng để tạo các hình ảnh tổng hợp và để tích hợp hay sửa đổi các
dữ liệu hình ảnh và không gian thu thập được từ thế giới thực.
Computer vision: nghiên cứu sử dụng máy tính để tách các đối tượng 3 chiều
từ một hình ảnh 2 chiều.
Ngôn ngữ hình thức (formal grammar): nghiên cứu các cấu trúc trừu tượng
mô tả một ngôn ngữ hình thức một cách chính thức.
Khoa học thông tin: nghiên cứu dữ liệu và thông tin, các phương pháp tạo,
tìm hiểu, phân tích, lưu trữ, thu thập và quản lý. Khoa học thông tin được xem là cơ
sở khoa học cho truyền thông và cơ sở dữ liệu. Nó còn quan tâm đến cách con
người tạo, sử dụng, và tìm kiếm thông tin.
An toàn thông tin: phân tích và cài đặt các tính năng đảm bảo an toàn cho hệ
thống thông tin, chẳng hạn mật mã học.
Thu thập thông tin: nghệ thuật và khoa học tìm kiếm thông tin trong các tài
liệu, tìm kiếm chính các tài liệu, tìm kiếm siêu dữ liệu (metadata) mô tả các tài liệu,
hoặc tìm kiếm văn bản, âm thanh, hình ảnh hoặc dữ liệu trong cơ sở dữ liệu (hoặc
--- Trang 14 ---


các cơ sở dữ liệu quan hệ độc lập hoặc các cơ sở dữ liệu nối mạng siêu văn bản như
Internet hoặc intranet)
Các hệ thống thông tin: ứng dụng tin học để hỗ trợ hoạt động của một tổ
chức (hoạt động, cài đặt, và bảo trì máy tính, phần mềm và dữ liệu)
Từ điển học (lexicography): nghiên cứu về tra cứu từ điển, bao gồm nghiên
cứu về các từ điển điện tử và từ điển Internet

Ngôn ngữ học: nghiên cứu các ngôn ngữ; nó gặp tin học ở những lĩnh vực
như thiết kế ngôn ngữ lập trình và xử lý ngôn ngữ tự nhiên
Lô-gíc: một hệ thống suy luận hình thức và nghiên cứu về các nguyên lý nền
tảng của máy tính, cả ở mức phần cứng (digital logic) và phần mềm (kiểm định, trí
tuệ nhân tạo v.v.)
Các hệ thống thông tin quản lý: ngành con của các hệ thống thông tin, tập
trung vào quản lý cá nhân và quản lý tài chính.
Toán học: chia sẻ nhiều kỹ thuật và chủ đề với khoa học máy tính, nhưng ở
mức tổng quát hơn. Tin học lý thuyết chính là toán học về tính toán
Kỹ nghệ phần mềm: tập trung vào đặc tả, phân tích, thiết kế, xây dựng, và
kiểm thử phần mềm. Kỹ nghệ phần mềm bao gồm các phương pháp phát triển
(chẳng hạn mô hình thác nước và lập trình cực đoan) và quản lý dự án
Công nghệ thông tin: một thuật ngữ bao trùm tất cả các ngành có liên quan
đến tin học.
Có thể thấy nội dung của tin học mô phỏng cơ chế hoạt động của bộ óc con
người. Trên cở sở đó, tạo ra các loại máy tính thực hiện tự động các quá trình xử lý
thông tin và trí tuệ với một tốc độ nhanh và với khả năng lưu trữ thông tin lớn. Vì
vậy ngày nay khi máy tính đang rất phổ cập thì khái niệm "tin học" bao hàm tất cả
các nghiên cứu và kỹ thuật có liên quan đến việc xử lý thông tin. Trong nghĩa thông
dụng, tin học còn có thể bao hàm cả những gì liên quan đến các thiết bị máy tính

--- Trang 15 ---


hay các ứng dụng tin học văn phòng. Theo cách hiểu này, tin học ngày càng được
ứng dụng phổ biến vào các lĩnh vực của xã hội.
Tuy nhiên vì tin học có quá nhiều ngành khoa học cũng như khái niệm, thuật
ngữ liên quan, đồng thời sự phát triển của "thông tin số hoá" không cho phép nhận
thức "tin học" để dừng lại ở "những gì liên quan đến các thiết bị máy tính". Do đó
phải tiếp cận khái niệm CNTT ở nghĩa rộng, với tính chất bao trùm toàn bộ các

ngành khoa học liên quan đến tin học. Từ đây, Luật CNTT năm 2006 định nghĩa
khái niệm "ứng dụng công nghệ thông tin" là "việc sử dụng công nghệ thông tin
vào các hoạt động thuộc lĩnh vực kinh tế - xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh
và các hoạt động khác nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của các hoạt
động này". CNTT tạo ra giá trị cho xã hội theo hai phương thức:
Phương thức gián tiếp: CNTT được ứng dụng rộng rãi vào các ngành kinh tế,
sản xuất, quản lý xã hội, nghiên cứu khoa học, quốc phòng...
Phương thức trực tiếp: CNTT với tư cách là một ngành công ngiệp CNTT,
có hai bộ phận là Công nghiệp phần cứng (công nghiệp thiết bị CNTT) và Công
nghiệp phần mềm (công nghiệp sản phẩm chương trình và dữ liệu).
Đề tài này chỉ đề cập đến các giá trị CNTT tạo ra cho xã hội theo phương
thức gián tiếp và tập trung nghiên cứu các ứng dụng từ các giá trị này vào công tác
của cán bộ khoa học Học viện.
1.2.2. Các giá trị xã hội gián tiếp của CNTT được ứng dụng trong đời sống
Ngày nay, khi nói đến CNTT, trong rất nhiều trường hợp người ta chỉ muốn
đề cập đến các loại mạng máy tính (LAN, WAN, VPN...), đặc biệt là Internet (một
dạng đặc biệt của WAN) và các ứng dụng công nghệ trên đó. Internet là một hệ
thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng gồm các mạng máy tính
được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ
liệu (packet switching) dựa trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa (giao
thức IP). Hệ thống này bao gồm hàng ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh

--- Trang 16 ---


nghiệp, của các viện nghiên cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân, và
các chính phủ trên toàn cầu.
Các ứng dụng phổ biến nhất hiện nay trên Internet là: web (mạng lưới toàn
cầu), e-mail (hệ thống thư điện tử), chat (trò chuyện trực tuyến), search engine
(máy truy tìm dữ liệu), các dịch vụ thương mại và chuyển ngân, các dịch vụ về y tế

giáo dục như là chữa bệnh từ xa hoặc tổ chức các lớp học ảo. Tất cả các ứng dụng
đó cung cấp một khối lượng thông tin và dịch vụ khổng lồ trên Internet.
Mạng lưới toàn cầu World Wide Web, gọi tắt là Web hoặc WWW, là một
không gian thông tin toàn cầu mà mọi người có thể truy nhập (đọc và viết) qua các
máy tính nối với mạng Internet. Web chỉ là một trong các dịch vụ chạy trên
Internet, tương tự như dịch vụ thư điện tử.
Thư điện tử, hay e-mail (từ chữ electronic mail), là một hệ thống chuyển
nhận thư qua các mạng máy tính. E-mail là một phương tiện trao đổi thông tin rất
nhanh. Một mẫu thông tin (thư từ) có thể được gửi đi ở dạng mã hoá hay dạng
thông thường và được chuyển qua các mạng máy tính, đặc biệt là mạng Internet.
Nó có thể chuyển mẫu thông tin từ một máy nguồn tới một hay rất nhiều máy nhận
trong cùng lúc. E-mail chẳng những có thể truyền gửi được chữ, nó còn có thể
truyền được các dạng thông tin khác như hình ảnh, âm thanh, phim, và đặc biệt các
phần mềm thư điện tử kiểu mới còn có thể hiển thị các e-mail dạng sống động
tương thích với kiểu tệp HTML.
Nhắn tin nhanh (hay tin nhắn tức khắc, trò chuyện trực tuyến, chát - từ chat
trong tiếng Anh, IM viết tắt của Instant Messaging), là dịch vụ cho phép hai người
trở lên nói chuyện trực tuyến với nhau qua một mạng máy tính. Nhắn tin nhanh là
trò chuyện mạng, có nhiều tính năng hay, như khả năng trò chuyện nhóm, dùng
biểu tượng xúc cảm, truyền tập tin, tìm dịch vụ và cấu hình dễ dàng bản liệt kê bạn
bè. Nhắn tin nhanh đã thúc đẩy sự phát triển của Internet trong đầu thập niên 2000.

--- Trang 17 ---


Máy truy tìm hay máy tìm kiếm (tiếng Anh: search engine), hay còn được
gọi với nghĩa rộng hơn là công cụ tìm kiếm (search tool), nguyên thuỷ là một phần
mềm nhằm tìm ra các trang Web trên mạng Internet có nội dung theo yêu cầu
người dùng dựa vào các thông tin mà chúng có. Trữ lượng thông tin này của công
cụ tìm kiếm thực chất là một loại cơ sở dữ liệu (database) cực lớn. Việc tìm các tài

liệu sẽ dựa trên các từ khóa (keyword) được người dùng gõ vào và trả về một danh
mục các trang Web có chứa từ khóa mà nó tìm được. Ngày nay, với số lượng các
trang Web lên đến hàng tỉ, việc tìm ra số trang có chứa nội dung đòi hỏi của từ
khoá có thể lên đến hàng triệu trang. Khác với hệ thống thư mục mạng được duy trì
bởi con người, máy tìm hoạt động dựa vào các thuật toán. Những trang Web được
gọi là máy tìm, thực chất là giao diện người dùng của các máy tìm sở hữu bởi các
công ty khác nhau.
Thương mại điện tử (còn gọi là thị trường điện tử, thị trường ảo, ECommerce hay E-Business) là quy trình mua bán ảo thông qua việc truyền dữ liệu
giữa các máy tính trong chính sách phân phối của tiếp thị. Tại đây một mối quan hệ
thương mại hay dịch vụ trực tiếp giữa người cung cấp và khách hàng được tiến
hành thông qua Internet. Hiểu theo nghĩa rộng, thương mại điện tử bao gồm tất cả
các loại giao dịch thương mại mà trong đó các đối tác giao dịch sử dụng các kỹ
thuật thông tin trong khuôn khổ chào mời, thoả thuận hay cung cấp dịch vụ.
Khám, chữa bệnh từ xa là phương pháp khám, chữa bệnh không có sự giao
tiếp trực tiếp giữa bác sỹ và bệnh nhân. Hoạt động này được thực hiện dựa vào các
công cụ, phương tiện hiện đại, thông qua các ứng dụng trên Internet bác sỹ sẽ thăm
khám cho bệnh nhân và từ đó đưa ra các kết luận, các phác đồ điều trị, hoặc liên hệ
trực tuyến với bác sỹ, y tá có mặt trực tiếp nơi có bệnh nhân để chỉ đạo điều trị.
Lớp học kết nối hay lớp học ảo là phương pháp mà ở đó, các bài giảng được
đưa lên mạng, học viên tìm hiểu bài giảng trực tuyến, sinh hoạt nhóm hay giao tiếp
với giảng viên đều thông qua hệ thống kết nối truyền hình vô tuyến. Các thiết bị
đầu cuối hỗ trợ cho mô hình lớp học ảo là những chương trình đào tạo từ xa, những
--- Trang 18 ---


giải pháp học tập hỗn hợp, môi trường ảo, thiết bị cầm tay thế hệ mới, các trang
web đào tạo...
1.2.3. Kết luận mục 1.2
Qua các trình bày và phân tích ở trên có thể rút ra một số kết luận sau:
Một là, CNTT là một ngành khoa học vừa mang tính chất là khoa học cơ

bản, vừa mang tính chất là một ngành khoa học ứng dụng. Nó bao hàm, đan xen
các giá trị lý thuyết cơ bản và ứng dụng thực tiễn trong các tiến bộ, phát minh cụ
thể. Vì vậy CNTT chính là ngành khoa học, ngành công nghiệp sản xuất, ngành
dịch vụ trụ cột của nền kinh tế tri thức đang manh nha ở hiện tại và sẽ phát triển
rộng khắp trong tương lai.
Hai là, một số giá trị chủ yếu và phổ biến của CNTT cũng chính là những
thành tố cơ bản được ứng dụng trong đời sống kinh tế-xã hội. Vì vậy, ngày nay
khi đề cập đến ứng dụng CNTT trong công tác nghiên cứu khoa học xã hội và
nhân văn là chủ yếu đề cập đến sử dụng các ứng dụng CNTT trên môi trường
mạng máy tính.
Ba là, các ứng dụng CNTT chỉ thực hiện được trong những điều kiện cơ bản
sau: có hạ tầng công nghệ hiện đại, mạnh mẽ và rộng khắp (đó là cơ sở và cũng
đồng thời là thành tố cấu thành các loại mạng LAN, WAN, VPN...đặc biệt là
Internet); có các thiết bị công nghệ và phần mềm hiện đại ứng dụng trên Internet
(phần cứng và phần mềm); có người dùng đủ trình độ, hoàn thiện kỹ năng sử dụng
các ứng dụng cụ thể vào công tác.
1.3. Khái niệm kỹ năng, kỹ năng sử dụng CNTT
1.3.1. Khái niệm kỹ năng
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học do Trung tâm Từ điển học
và Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 2002 định nghĩa Kỹ năng là “Khả năng
vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế”
(Trang 520).

--- Trang 19 ---


Có quan điểm khác, cụ thể hơn, cho rằng "Kỹ năng là năng lực hay khả năng
chuyên biệt của một cá nhân về một hoặc nhiều khía cạnh nào đó được sử dụng để
giải quyết tình huống hay công việc nào đó phát sinh trong cuộc sống". Hay có
quan niệm kỹ năng là sự thành thạo công việc thể hiện qua năng lực thực hiện hay

giải quyết thành công một nhiệm vụ hay vấn đề cụ thể. Các quan niệm này nhấn
mạnh đến năng lực mà không thấy được mối liên hệ giữa kỹ năng và năng lực.
Theo nghĩa thông thường, kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực
tiễn. Cùng với kiến thức và thái độ, kỹ năng là một trụ cột cấu thành của năng lực.
Trên thực tế, kiến thức và kỹ năng là hai thành tố liên hệ chặt chẽ với nhau
để quyết định năng lực. Kiến thức có vai trò chi phối, quyết định kỹ năng, có
nghĩa rằng kiến thức càng rộng, càng sâu thì kỹ năng càng giỏi. Nhưng nếu kỹ
năng không được rèn luyện thường xuyên thì dù kiến thức có uyên thâm đến mấy
cũng đem lại kết quả công việc không tương xứng. Vì vậy nâng cao và hoàn thiện
kỹ năng là quá trình vừa lĩnh hội kiến thức, vừa rèn luyện kỹ năng trong thực tế
làm việc.
Kỹ năng được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào lĩnh vực
lao động, hoạt động của con người, có hai loại kỹ năng là kỹ năng tâm vận (kỹ
năng làm việc chân tay, cơ bắp như đào đất, lái xe, xây nhà...) và kỹ năng trí tuệ
hay còn gọi là kỹ năng nhận thức (kỹ năng lao động trí óc như đánh giá, thẩm định,
lập kế hoạch, giám sát...). Căn cứ vào đặc điểm hình thành kỹ năng, có hai loại kỹ
năng cứng và kỹ năng mềm. Kỹ năng cứng là loại kỹ năng hình thành từ quá trình
học tập, đây là kỹ năng có tính nền tảng. Kỹ năng mềm là loại kỹ năng hình thành
từ hoạt động thực tế cuộc sống hoặc thực tế nghề nghiệp, đây là loại kỹ năng cực
kỳ phong phú và rất quan trọng vì nó đáp ứng trực tiếp nhất, sát nhất với yêu cầu
công tác, lao động.
Nguồn gốc hình thành kỹ năng từ các phản xạ có điều kiện (được hình thành
trong thực tế cuộc sống của cá nhân) và phản xạ không điều kiện (là những phản xạ
bẩm sinh mà cá nhân sinh ra đã sẵn có); trong đó, kỹ năng của cá nhân gần như
--- Trang 20 ---


thuộc về cái gọi là phản xạ có điều kiện, nghĩa là kỹ năng được hình thành từ quá
trình sinh sống, đặc biệt là thời gian trưởng thành và tham gia hoạt động thực tế
cuộc sống của cá nhân. Kỹ năng đóng vai trò là cầu nối giữa nhận thức của con

người và hành động của họ. Nếu một người có kiến thức mà không được học tập,
rèn luyện kỹ năng thì không thể hoàn thành được bất cứ hoạt động nào theo đúng
những gì người đó nhận thức. Có thể nói, đặc điểm quan trọng nhất của kỹ năng đó
là được hình thành từ các phản xạ có điều kiện, mà ở đây tựu trung lại là từ quá
trình đào tạo và rèn luyện trong thực tế: học và hành. Do đó, quá trình hình thành
và hoàn thiện kỹ năng của mỗi cá nhân gắn liền với quá trình học tập: học tập chủ
động (tự học) và học tập thụ động (có người dạy). Trong đó quá trình tự học có vai
trò quan trọng nhất, vì đó là quá trình tiếp thu kiến thức và cả các kỹ năng một cách
chủ động, tự giác, tích cực và phong phú, sát thực tế nhất.
1.3.2. Kỹ năng sử dụng CNTT
Kỹ năng sử dụng CNTT theo nguyên nghĩa thì rất rộng lớn, gồm rất nhiều
nhóm kỹ năng khác nhau và chắc chắn rằng không một cá nhân nào có đủ điều
kiện để hoàn thiện được. Đối với đề tài này, theo chúng tôi, kỹ năng sử dụng
CNTT trước hết phải được hiểu là kỹ năng sử dụng các ứng dụng của CNTT
thông qua máy tính và mạng máy tính. Có nghĩa rằng chỉ đề cập đến những kỹ
năng đối với từng lĩnh vực lao động cụ thể bằng máy tính và các ứng dụng liên
quan trên mạng máy tính. Theo cách hiểu này, có thể có các định nghĩa sau về kỹ
năng sử dụng CNTT:
Theo nghĩa rộng, kỹ năng sử dụng CNTT là khả năng vận dụng những tri
thức khoa học về máy tính, mạng máy tính và các ứng dụng phần mềm trong đó
vào công tác.
Theo nghĩa hẹp, kỹ năng sử dụng CNTT là khả năng vận dụng những kiến
thức thu nhận được về phần mềm máy tính và các ứng dụng phần mềm mạng máy
tính vào công tác.

--- Trang 21 ---


Đề tài này tập trung nghiên cứu về kỹ năng sử dụng CNTT của cán bộ khoa
học xã hội và nhân văn, vì vậy tìm hiểu kỹ năng sử dụng CNTT theo nghĩa rộng

sẽ không thích hợp. Đối với cán bộ khoa học xã hội và nhân văn, việc hoàn thiện
kỹ năng sử dụng các phần mềm máy tính và mạng máy tính là bảo đảm các yêu
cầu công việc. Còn những ứng dụng khác liên quan đến phần cứng, thậm chí là
các phần mềm cơ bản kiểu như các hệ điều hành, hệ quản trị cơ sở dữ liệu (kiểu
như Windows hay SQL server) thì chỉ phù hợp với các cán bộ là nhân lực trong
ngành CNTT.
Kỹ năng sử dụng CNTT phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học chủ yếu
nhất bao gồm: nhóm kỹ năng sử dụng các phần mềm văn phòng cài đặt trong máy
tính cá nhân; nhóm kỹ năng về duyệt web; nhóm kỹ năng sử dụng thư điện tử;
nhóm kỹ năng sử dụng chat; nhóm kỹ năng sử dụng công cụ tìm kiếm; nhóm kỹ
năng sử dụng Thương mại điện tử; nhóm kỹ năng sử dụng lớp học ảo.
Nhóm kỹ năng sử dụng các phần mềm văn phòng cài đặt trong máy tính cá
nhân là khả năng vận dụng các kiến thức về phần mềm soạn thảo văn bản, trình
chiếu văn bản, bảng tính, quản lý...vào công việc.
Nhóm kỹ năng về duyệt web là khả năng vận dụng kiến thức về web và
Internet để xem, nghe, đọc, viết cũng như gửi (upload) và nhận (download) thông
tin trên trang web vào thực tế. Đó là phương thức phổ biến hiện nay để trao đổi
thông tin qua Internet.
Nhóm kỹ năng sử dụng thư điện tử là khả năng vận dụng kiến thức về thư
điện tử, các trang web, các dịch vụ trực tuyến cũng như các phần mềm hỗ trợ soạn
thảo, gửi-nhận, quản lý, đọc thư điện tử...vào thực tế.
Nhóm kỹ năng sử dụng chat là khả năng vận dụng kiến thức về chat để soạn
thảo, gửi-nhận tin nhắn trực tuyến, gửi-nhận các loại tin bằng hình ảnh, âm
thanh...thiết lập và quản lý danh mục đối tác trong chat...vào thực tế.

--- Trang 22 ---


Nhóm kỹ năng sử dụng công cụ tìm kiếm là khả năng vận dụng kiến thức về
các dịch vụ tìm kiếm trong máy tính cá nhân, dịch vụ tìm kiếm trên mạng máy tính,

cách thức sử dụng "từ khoá tìm kiếm", cách thức nhận (lấy) thông tin tìm được
bằng các dịch vụ, công cụ tìm kiếm, cách thức kiểm định nguồn thông tin, tính
chính xác của thông tin...vào thực tế. Đây là nhóm kỹ năng hết sức quan trọng và
hữu ích khi làm việc trên máy tính và đặc biệt là làm việc với mạng máy tính.
Nhóm kỹ năng sử dụng thương mại điện tử là khả năng vận dụng kiến thức
về phương thức mua bán hàng hoá qua mạng, các dịch vụ mua bán trực tuyến,
nguyên lý và hình thức thanh toán trong mua bán trực tuyến, chữ ký điện tử, cách
thức kiểm chứng và xác thực giao dịch...vào thực tế.
Nhóm kỹ năng sử dụng lớp học ảo là nhóm kỹ năng hết sức đặc thù đối với
các cơ sở đào tạo. Nhóm kỹ năng này bao gồm tổng hoà các nhóm kỹ năng về phần
mềm văn phòng, duyệt web, e-mail, chat...Đây là khả năng vận dụng những kiến
thức về soạn thảo giáo án điện tử, bài giảng điện tử, cách thức sử dụng truyền hình
giảng đường, quản lý lớp học ảo, giao lưu trực tuyến (qua chat), giao lưu offline
(qua e-mail)...vào giảng dạy.
1.3.3. Đặc điểm và vai trò của kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin đối với
công tác của cán bộ khoa học
* Các kỹ năng CNTT có đặc điểm sau:
- Thứ nhất, kỹ năng CNTT gắn liền với máy tính cá nhân và các phần mềm
thông dụng được cài đặt trong đó.
- Thứ hai, kỹ năng CNTT gắn liền với công nghệ mạng máy tính và các dịch
vụ mạng máy tính.
- Thứ ba, kỹ năng CNTT đòi hỏi cá nhân phải thường xuyên liên tục cập nhật
kiến thức, vì CNTT là những kiến thức có tốc độ biến đổi rất nhanh.
* Vai trò kỹ năng CNTT với công tác của cán bộ khoa học

--- Trang 23 ---


Đối với công tác của cán bộ khoa học, các kỹ năng CNTT cũng là một bộ
phận trong các kỹ năng nghiên cứu khoa học. Bởi vì hoạt động khoa học, xét trên

khía cạnh thông tin (khía cạnh bên ngoài), là hoạt động phát hiện ra những thông
tin mới thông qua các thông tin đã và đang có. Kỹ năng CNTT nằm trong năng lực
tìm kiếm, sắp xếp và xử lý thông tin - năng lực cần thiết cho giai đoạn đầu của một
quá trình nghiên cứu khoa học; đồng thời kỹ năng CNTT cũng nằm ở giai đoạn
cuối của quá trình nghiên cứu, đó là trình bày, công bố kết quả nghiên cứu. Vì vậy
kỹ năng CNTT có các vai trò chủ yếu sau:
- Thứ nhất, giúp tìm kiếm thông tin nhanh hơn, đúng chủ đề và tiếp cận được
với kho thông tin đồ sộ trên toàn thế giới mà bằng bất cứ phương tiện nào
khác hiện có cũng không đáp ứng được.
- Thứ hai, giúp sắp xếp thông tin một cách hợp lý nhất, thuận tiện nhất và
nhanh nhất.
- Thứ ba, giúp xử lý thông tin theo đúng yêu cầu và nhanh nhất.
- Thứ tư, giúp truy xuất thông tin cần thiết chính xác và nhanh nhất.
- Thứ năm, giúp trình bày báo cáo khoa học, kết quả nghiên cứu một cách
phù hợp và dễ hiểu.
- Thứ sáu, giúp phổ biến thông tin khoa học với tốc độ nhanh nhất, phạm vi
rộng nhất.
- Thứ bảy, giúp cán bộ khoa học nâng cao trình độ, tiếp cận với các kiến thức
khoa học mới nhất, phương pháp nghiên cứu mới nhất.
Với những vai trò đó, kỹ năng CNTT sẽ thật sự mang lại năng suất làm việc
cũng như hiệu quả công việc rất cao cho cán bộ khoa học.

--- Trang 24 ---


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KỸ NĂNG SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
TRONG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ KHOA HỌC CỦA HỌC VIỆN
CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
2.1. Các tiêu chí đánh giá

Đánh giá thực trạng kỹ năng sử dụng CNTT trong đội ngũ cán bộ khoa
học của Học viện giống như việc kiểm tra trình kiến thức về CNTT của cán bộ
khoa học Học viện. Có thể thấy rằng đây là việc làm không dễ dàng. Nhưng kiến
thức mới chỉ là bước đầu, mà kỹ năng là khả năng vận dụng kiến thức vào thực
tế, nó mang tính thực tiễn rất cao. Vì vậy cần xác định được các tiêu chí đánh
giá cụ thể, bảo đảm mang lại kết quả chính xác nhất thực trạng vấn đề nghiên
cứu tại Học viện.
Trên cơ sở các kỹ năng CNTT đã nêu ở phần trước, có thể liệt kê các tiêu chí
đánh giá như sau: kỹ năng sử dụng các phần mềm văn phòng cài đặt trong máy tính
cá nhân; nhóm kỹ năng về duyệt web; kỹ năng sử dụng công cụ tìm kiếm; kỹ năng
sử dụng thư điện tử; kỹ năng sử dụng chat; kỹ năng sử dụng Thương mại điện tử;
kỹ năng sử dụng lớp học ảo.
Việc đánh giá theo các tiêu chí này có điểm mạnh là đánh giá được trình độ
kỹ năng của từng cá nhân, đem lại cái nhìn toàn diện về thực trạng vấn đề tại Học
viện. Tuy nhiên điểm yếu của tiêu chí này là không xem xét được những vấn đề
mang tính điều kiện, nguyên nhân của thực trạng. Vì vấn đề kỹ năng CNTT không
phải là vấn đề có tính độc lập, đơn lẻ mà gắn bó chặt chẽ với một số yếu tố khác.
Như trên đã phân tích, khi đề cập đến ứng dụng CNTT trong công tác nghiên
cứu khoa học xã hội và nhân văn là chủ yếu đề cập đến sử dụng các ứng dụng
CNTT trên môi trường mạng máy tính. Do đó các kỹ năng sử dụng CNTT của cá
nhân chỉ hình thành và có thể hoàn thiện trong những điều kiện cơ bản là: có hạ
tầng công nghệ hiện đại, mạnh mẽ và rộng khắp; có các thiết bị công nghệ và phần
mềm hiện đại ứng dụng trên Internet (phần cứng và phần mềm).
--- Trang 25 ---


×