Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

ĐỀ ÁN ĐẨY MẠNH CƠ GIỚI HOÁ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP ĐẾN NĂM 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280 KB, 37 trang )

NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 16 tháng 10 năm 2014

ĐỀ ÁN
ĐẨY MẠNH CƠ GIỚI HOÁ
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP ĐẾN NĂM 2020
ĐẶT VẤN ĐỀ
I. SỰ CẦN THIẾT

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước xu thế chuyển
dịch mạnh cơ cấu lao động nông thôn sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
đòi hỏi phải có máy móc thay thế lao động thủ công. Đây vừa là cơ hội vừa là
thách thức, nếu không có những giải pháp hữu hiệu để đẩy nhanh cơ giới hoá và
giảm tổn thất sau thu hoạch trong nông nghiệp.
Cùng với sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ trên thế giới đã tác
động mạnh mẽ đến năng suất, chất lượng và giá thành sản phẩm nông nghiệp,
vấn đề dinh dưỡng và bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng
càng khắt khe hơn.
Theo FAO: Máy nông nghiệp được xác định là các máy và công cụ đi
theo chúng cần thiết để thực hiện các hoạt động nông nghiệp như: cày bừa,
gieo, cấy, tưới tiêu nước, chăm sóc, phòng trừ dịch hại, thu hoạch, chế biến,
chăn nuôi và các công việc khác trong nông nghiệp.
Cơ giới hóa nông nghiệp là quá trình sử dụng máy móc để thực hiện
các công việc trong nông nghiệp nhằm thay thế lao động thủ công, tăng năng
suất và cải thiện chất lượng sản phẩm.
Ngoài ra, cơ giới hóa nông nghiệp còn có ý nghĩa lớn trong việc giảm tổn


thất sau thu hoạch góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nông
nghiệp theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa là một trong những nội dung của
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 20102020.
Trong những năm qua cùng với sự tăng trưởng của sản xuất nông nghiệp,
cơ giới hóa nông nghiệp có bước phát triển nhanh, một số khâu sản xuất trong
nông nghiệp đã được cơ giới hóa giải quyết khâu lao động nặng nhọc, tính thời
vụ khẩn trương góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và giảm tổn
thất trong nông nghiệp.
Tuy nhiên, sự phát triển còn thiếu bền vững, cơ giới hóa mới chỉ tập trung
vào cây lúa ở một số khâu, chưa đồng bộ, tổn thất sau thu hoạch còn cao, ngành


cơ khí trong nước chậm đáp ứng yêu cầu của sản xuất nông nghiệp, nhiều chủng
loại máy nông nghiệp phải nhập khẩu.
Triển khai Chương trình Hành động của Bộ thực hiện đề án nâng cao giá
trị gia tăng và phát triển bền vững; Đề án Nâng cao giá trị gia tăng hàng nông
lâm thủy sản trong chế biến và giảm tổn thất sau thu hoạch, Cục Chế biến nông
lâm thủy sản và nghề muối xây dựng Đề án “Đẩy mạnh cơ giới hóa sản xuất
nông nghiệp đến năm 2020”.
Nội dung của đề án gồm 05 phần:
Phần 1- Thực trạng cơ giới hóa;
Phần 2- Mục tiêu;
Phần 3- Nội dung cơ giới hóa;
Phần 4- Các giải pháp;
Phần 5- Tổ chức thực hiện.
Phạm vi, phương pháp tiếp cận và thời gian thực hiện:
Phạm vi: Đề án này tập trung 3 lĩnh vực sản xuất sau:
- Về trồng trọt: Tập trung vào các khâu làm đất, gieo cấy, chăm sóc, tưới
tiêu, thu hoạch, vận chuyển và bảo quản cho cây trồng hàng năm (lúa, ngô, sắn,
mía, rau) và cây công nghiệp (cà phê, chè, cao su).

- Về chăn nuôi: Tập trung vào các khâu chuồng trại, sản xuất thức ăn, thu
gom sản phẩm….đối với gà, lợn, trâu, bò (sữa, thịt).
- Về sản xuất muối: Các khâu cung cấp nước, che bạt ô kết tinh, thu
hoạch và vận chuyển.
Phương pháp tiếp cận: Các khâu cơ giới hóa sản xuất.
Đối với các lĩnh vực: Thủy lợi, Thủy sản, Lâm nghiệp; giết mổ gia súc,
gia cầm đã có các chiến lược, quy hoạch, đề án sử dụng máy móc và công nghệ
chuyên ngành.
Thời gian thực hiện: 2014-2020.
II. CĂN CỨ PHÁP LÝ

1. Nghị quyết số 48/NQ-CP ngày 23/9/2009 của Chính phủ về cơ chế,
chính sách nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản;
2. Quyết định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng và phát triển bền vững.
3. Quyết định số 124/QĐ-TTg ngày 02/02/2012 của Thủ tướng Chính phủ
Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất ngành nông nghiệp đến năm
2020 và tầm nhìn đến 2030.
4. Quyết định số 1384/QĐ-BNN-KH ngày 18/6/2013 của Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành chương trình hành động thực
2


hiện đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và
phát triển bền vững.
5. Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2013 của Thủ tướng Chính
phủ Về chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp.
6. Quyết định số 879/QĐ-TTg ngày 09/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn

đến năm 2035;
7. Quyết định số 880/QĐ-TTg ngày 09/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ
Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030;
8. Quyết định số 986/BNN-KHCN ngày 09/5/2014 của Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Kế hoạch thúc đẩy nghiên cứu và
ứng dụng khoa học công nghệ phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng
nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.
9. Quyết định số 1003/BNN-CB ngày 13/5/2014 của Bộ trưởng Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn về việc phê duyệt Đề án nâng cao giá trị gia tăng
hàng nông lâm thủy sản trong chế biến và giảm tổn thất sau thu hoạch.
10. Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 18/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ về
việc tháo gỡ khó khăn đẩy mạnh thực hiện Chiến lược phát triển ngành Cơ khí
Việt Nam.
Phần I
THỰC TRẠNG CƠ GIỚI HOÁ NÔNG NGHIỆP
I. TÌNH HÌNH CƠ GIỚI HÓA

1. Lĩnh vực trồng trọt:
Đến nay, trang bị động lực bình quân trong sản xuất nông nghiệp cả nước
đạt 1,6 mã lực (HP)/ha canh tác, đối với lúa đạt 2,2 HP/ha canh tác, tăng gần gấp
2 lần so với năm 2008. Mức độ % cơ giới hoá bình quân các khâu và các loại
cây trồng cụ thể như sau:
1.1. Khâu làm đất:
Lúa đạt 90% (tăng gần gấp đối so với năm 2000), cao nhất vùng đồng
băng sông Cửu Long đạt 98% (biểu đồ 1), thấp nhất trung du miền núi phía Bắc
đạt 45% (biểu đồ 2).
Mía đạt 80% ở những vùng sản xuất tập trung, địa hình bằng phẳng, như:
Thanh Hóa, Gia Lai, Tây Ninh, Đồng Nai…
Ngô: đạt 70%. Sắn đạt 80%. Vùng rau chuyên canh đạt 90%,

1.2. Khâu gieo, trồng:
Đối với Lúa gieo bằng công cụ xạ hàng và cấy đạt 30%;
3


Đối với mía trồng bằng máy đạt khoảng 30% tập trung ở một số Công ty
mía đường như: Quảng Ngãi, Tây Ninh, Đồng Nai, còn các hộ dân trồng thủ
công.
Cao su: trồng bằng máy đạt 70%.
1.3. Khâu chăm sóc (vun xới, phun thuốc bảo vệ thực vật):
Phun thuốc bảo vệ thực vật cho lúa đạt khoảng 60%; xới cỏ, phun thuốc
bảo vệ thực vật cho chè, mía đạt khoảng 70%.
1.4. Khâu tưới tiêu:
Theo số liệu của Tổng cục Thủy lợi hiện nay, cả nước có 16.000 trạm
bơm phục vụ sản xuất nông nghiệp tăng 7.130 trạm so với năm 2001, hệ thống
kênh mương được kiên cố hóa chiếm 23,2% và trên 2 triệu bơm nước các loại sử
dụng trong nông nghiệp. Năng lực tưới của hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới chủ
động cho 7,26 triệu ha lúa (đạt 94%), khoảng 1,5 triệu ha rau màu, tiêu thoát cho
1,75 triệu ha đất nông nghiệp.
Một số công nghệ tưới tiết kiện nước (Tưới nhỏ giọt, tưới phun mưa) đã
được sử dụng ở nước ta song mức độ còn rải rác, vẫn phải nhập ngoại các linh
kiện, thiết bị tưới nhỏ giọt của Hàn Quốc, Nhật Bản, Israel. Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn đang chỉ đạo triển khai các nhiệm vụ khoa học công nghệ,
khuyến nông để áp dụng nhanh mô hình tưới tiết kiệm nước cho một số cây trồng:
Thanh long, cà phê, điều, chè...
1.5. Khâu thu hoạch:
- Đối với Lúa tăng từ 5% năm 2000 lên 42% năm 2013 (biểu đồ 3), cao
nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 65%, phía bắc bình quân đạt 20%
(biểu đồ 4).
- Các loại cây trồng khác:

+ Mía chủ yếu thu hoạch thủ công. Hiện nay, một số công ty như: Công ty
CP mía đường Biên Hòa, Công ty CP Bourbon Tây Ninh đã đầu tư máy thu
hoạch hiện đại John Deere (Mỹ) năng suất 1,5 ha/giờ song khó có khả năng
nhân rộng (do ảnh hưởng của địa hình và giá cao).
+ Chè: sử dụng máy đốn, hái chè đạt 20%, tập trung ở Nghệ An, Lâm
Đồng, Yện Bái, Thái Nguyên.
+ Cà phê: đã ứng dụng một số loại máy thu hoạch bằng tay có năng suất
1,2 -2 tấn/ngày. Tuy nhiên, chưa được nhiều (hiện có khoảng 400 máy), thu
hoạch chủ yếu bằng thủ công.
+ Ngô, sắn: chủ yếu thu hoạch bằng thủ công.
1.6. Khâu vận chuyển:
Lúa trên đồng ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, mía nguyên liệu, thu
gom mủ cao su được cơ giới hóa 100% bằng các phương tiện như: ghe, thuyền,
romoc, oto…xe nông dụng.
4


1.7. Khâu bảo quản (sấy, dự trữ):
Hiện nay năng lực sấy lúa của ĐBSCL đạt khoảng 45% (biểu đồ 5), chủ
yếu máy sấy tĩnh vỉ ngang chiếm khoảng 90%, máy sấy tháp 10% năng lực sấy.
Về bảo quản: lúa gạo ở ĐBSCL chủ yếu được chứa trong các nhà kho lớn
có nền bê tông và mái tôn (chứa lúa gạo đóng bao) hay các kho chứa với kết cấu
thép, dạng hình vuông hoặc chữ nhật để chứa lúa gạo dạng hạt rời (bin chứa
bằng thép). Tổng công suất của hệ thống kho chứa lúa gạo hiện nay ở ĐBSCL
đạt khoảng 6 triệu tấn nhưng đa số dùng để trữ gạo, kho chứa lúa chiếm tỷ lệ
thấp (chỉ có hơn 1 triệu tấn).
Hệ thống kho chứa đã giảm được một phần tổn thất sau thu hoạch và giúp
các doanh nghiệp lương thực thuận lợi hơn trong chế biến, kinh doanh và xuất
khẩu gạo, nhưng các hệ thống kho chứa này chưa đáp ứng được các yêu cầu kỹ
thuật để bảo quản lúa dài ngày từ 6 đến 12 tháng, nhằm phục vụ chiến lược xuất

khẩu gạo và an ninh lương thực của đất nước.
Một số ít doanh nghiệp đầu tư hệ thống silo gắn với hệ thống sấy hiện đại
để bảo quản lúa dài ngày, đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên, suất đầu tư cao khó
khăn đối với nhiều doanh nghiệp do năng lực tài chính hạn chế.
2. Lĩnh vực chăn nuôi:
2.1. Cơ giới hóa chuồng trại: Hộ nuôi gà qui mô công nghiệp sử dụng hệ
thống chuồng trại khép kín từ cung cấp nước, thức ăn tự động, tạo tiểu khí hậu
và thu gom trứng đạt 33%.
Hộ nuôi lợn qui mô công nghiệp sử dụng chuồng lồng, chuồng sàn,
chuồng có hệ thống làm mát và sưởi ấm cho lợn con, hệ thống máng ăn, núm
uống tự động đạt khoảng 35%.
2.2. Sản xuất thức ăn:
- Đối với sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp năm 2013 chiếm khoảng
65%, được sản xuất trên dây chuyền công nghệ và thiết bị tiên tiến, đồng bộ.
Hiện có 241 cơ sở, nhà máy, công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp,
tổng công suất thiết kế 18 triệu tấn (tăng 4,2 lần so với năm 2000; 1,4 lần so với
năm 2006). Sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp quy đổi đạt 13,6 triệu tấn
tăng 7,1% so với năm 2012.
- Đối với chăn nuôi nông hộ chăn nuôi trâu, bò đã đầu tư máy thái cỏ,
băm rơm, cây đạt 45%.
2.3. Thu hoạch:
- Hộ chăn nuôi bò sữa sử dụng máy vắt sữa đạt khoảng 60%.
- Mức độ cơ giới hóa đồng bộ áp dụng công nghệ cao tập trung các công
ty, doanh nghiệp chăn nuôi bò sữa như TH True Milk, Sữa Mộc Châu. Cơ giới
hóa đồng bộ từ khâu sản xuất, chế biến thức ăn, thu gom và chế biến sữa.
3. Sản xuất muối:
3.1. Cung cấp nước:
5



- Khu vực sản xuất muối theo công nghệ phơi cát: Đây là phương pháp
sản xuất cổ truyền ở Việt Nam, có diện tích 2.136 ha, chiếm 14,4 % diện tích
sản xuất muối cả nước (trong đó diện tích ô kết tinh chiếm 12%) và sản lượng
muối trung bình từ 180.000 - 200.000 tấn/năm. Đây là vùng sản xuất thủ công,
phân tán theo hộ gia đình, với 42.167 lao động, năng suất lao động thấp (4-5
tấn/lao động, năm) và chất lượng muối thấp, giá thành sản xuất cao, khoảng từ
800 đ/kg– 850 đ/kg nên đời sống của bà con diêm dân rất khó khăn.
Các công trình nội đồng gồm: sân phơi cát, ô kết tinh, kênh cấp II, cống,
phai nội đồng, việc tu bổ do diêm dân tự làm, nhưng do đời sống diêm dân khó
khăn, không có vốn nên chỉ tu bổ một cách chắp vá. Do đó có khoảng 70 - 80%
công trình nội đồng cần phải cải tạo nâng cấp.
Việc cấp, tiêu nước hầu như dựa hoàn toàn vào tự lưu.
- Khu vực sản xuất muối theo công nghệ phơi nước phân tán: Diện tích
khoảng 9.046 ha, chiếm 61% diện tích sản xuất muối toàn quốc (trong đó diện
tích ô kết tinh chiếm 10%); sản lượng đạt 500.000-600.000 tấn/năm, chiếm
khoảng 50% tổng sản lượng với trên 26.300 lao động sản xuất chiếm 37,2%
tổng số lao động toàn quốc. Năng suất lao động 20-22 tấn/lao động, năm. Giá
thành sản xuất cao, từ 650đ/kg– 900đ/kg. Chu kỳ sản xuất chỉ 10 – 12 ngày là
thu muối và phụ thuộc nhiều vào thời tiết nên chất lượng muối thấp, lẫn nhiều
cát, sỏi... Loại muối này chỉ có thể gia công chế biến lại để dùng cho dân sinh,
chế biến thực phẩm, ướp cá làm mắm và chăn nuôi.
Mức độ cơ giới ở khu vực này khá hơn khu vực phơi cát. Có hơn 5.000
máy bơm nước để cung cấp nước và bơm nước ra.
- Khu vực sản xuất muối theo công nghệ phơi nước tập trung: Công nghệ
phơi nước tập trung, qui mô công nghiệp với diện tích 3.639 ha, chiếm 25,1%
diện tích sản xuất muối cả nước (trong đó ô kết tinh muối chiếm 9%) và sản
lượng muối từ 280.000 - 340.000 tấn/năm chiếm khoảng 30% sản lượng muối cả
nước với hơn 2.100 lao động chiếm 3% tổng số lao động trong toàn ngành. Do
sản xuất tập trung, áp dụng công nghệ kết tinh phân đoạn nên năng suất lao động
cao 160-165 tấn/lao động, năm. Chất lượng muối cao, giá thành sản xuất thấp,

khoảng 500 đ/kg nên có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
3.2. Che phủ ô kết tinh:
- Sản xuất muối phơi cát: Cơ sở hạ tầng đồng muối thông qua các dự án
khuyến công áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật xây dựng các mô hình chuyển vị
trí chạt lọc và trải bạt ô kết tinh sản xuất muối sạch theo phương pháp phơi cát
đã giúp diêm dân giảm sức lao động 40 - 45%, không phải dùng xe cút kít để
vận chuyển cát (khoảng 3 m3/ngày), năng suất lao động tăng từ 1,5-1,7 lần, sản
lượng muối tăng từ 20 - 25% so với phương pháp sản xuất truyền thống, chất
lượng muối trắng, sạch, ít lẫn tạp chất không tan như cát, sỏi; tuổi thọ của bạt
cao hơn từ 2-3 năm so với ô nề truyền thống và giá bán cao hơn 15- 20%.

6


Tuy nhiên, việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất muối còn chậm,
diện tích muối sản xuất áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới chưa nhiều, dưới dạng mô
hình là chính, quy mô nhỏ theo hộ gia đình.
- Sản xuất muối phới nước phân tán: Những năm qua, các dự án khuyến
công áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật xây dựng các mô hình sản xuất muối
sạch đã đem lại hiệu quả kinh tế và giảm thiểu sự ảnh hưởng của thời tiết, như:
rút ngắn chu kỳ sản xuất từ 10-12 ngày xuống còn 5-7 ngày, sản lượng muối
tăng từ 20 - 30 %, chất lượng muối trắng, sạch, ít lẫn tạp chất, giá bán cao hơn
15- 20%, dễ tiêu thụ do đây là nguồn nguyên liệu sạch để chế biến thành muối
tinh chất lượng cao. Tuy nhiên, việc nhân rộng các mô hình còn chậm, do diêm
dân nghèo và chưa mạnh dạn vay vốn để đầu tư nhân rộng mô hình.
- Sản xuất muối phơi nước tập trung: Tập trung ở một số đơn vị sản xuất
muối công nghiệp đã đầu tư ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ như: phủ
bạt che mưa ô kết tinh (đạt 81,9 ha) nhằm giảm thiểu sự ảnh hưởng của thời tiết,
thực hiện kết tinh muối dài ngày; trải bạt ô kết tinh (đạt 63,65 ha);
3.2. Thu hoạch và vận chuyển:

Đối với sản xuất muối phơi cát, phương tiện vận chuyển ngoài ruộng
muối là xe cút kít bằng gỗ, vì vậy người làm muối phải lao động rất cực nhọc,
năng suất lao động thấp.
Đối với sản xuất muối phơi nước tập trung đã sử dụng máy kéo, máy cày,
ô tô vận chuyển, băng tải đánh đống muối. Tuy nhiên, hầu hết các đồng muối
chưa áp dụng công nghệ rửa muối ngay sau thu hoạch nên chất lượng muối
không ổn định.
3.3. Về kho bảo quản muối:
Kho dự trữ lưu thông của các doanh nghiệp có tổng tích lượng khoảng
400.000 tấn. Các kho chứa muối hiện nay hầu như chưa được cơ giới hoá, chỉ có
một số kho của các công ty muối công nghiệp đã sử dụng máy đánh đống và
băng tải vận chuyển muối vào kho.
Kho muối của diêm dân nói chung rất sơ sài, phân tán, có nơi diêm dân
đánh đống muối trong vườn, che đậy tạm bợ, nước muối ngấm ra đất, làm đất bị
nhiễm mặn và gây hao hụt tổn thất lớn.
Việc nghiên cứu áp dụng cơ giới hoá đối với ngành muối chưa được quan
tâm chú trọng, một phần do việc ứng dụng thực tế rất khó khăn, một phần do
muối là mặt hàng có giá trị thấp.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG

1. Mức độ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp:
Tính đến năm 2013, số lượng máy động lực, máy nông nghiệp sử dụng
trong nông nghiệp có mức tăng nhanh (bảng 6), cụ thể: số lượng máy kéo tăng
2,28 lần so với năm 2001, máy gặt lúa tăng 25,6 lần so với năm 2006 (tập trung
chủ yếu vùng đồng bằng sông Cửu Long chiếm 75% số lượng máy gặt trên cả
nước), máy phun thuốc bảo vệ thực vật tăng 5,8 lần so với năm 2006; bơm nước
7


dùng sản xuất nông nghiệp tăng 1,2 lần; một số loại máy giảm về số lượng như:

máy tuốt lúa giảm 50% do sử dụng máy gặt đập liên hợp tăng, máy sấy giảm 8%
về số lượng nhưng năng lực sấy tăng 20% (máy sấy năng suất nhỏ (1-4 tấn/mẻ)
dần thay máy sấy có năng suất lớn (10-30 tấn/mẻ).
Một số loại máy có xu hướng chuyển dịch tăng như máy kéo 2 bánh sang
máy kéo 4 bánh (công suất từ 20-35 HP) tăng 2,1 lần so với 2006.
Mức độ cơ giới hóa cây hàng năm (lúa, mía, ngô) một số khâu đạt cao
như: khâu làm đất đạt bình quân 90%; gieo cấy lúa 30%, chăm sóc,phun thuốc
bảo vệ thực vật 60%, thu hoạch lúa 42%, sấy lúa ĐBSCL 45%.
Tồn tại:
- Mức độ cơ giới hoá trong sản xuất nông nghiệp còn thấp, chưa đồng bộ
và phát triển chưa toàn diện, tập trung chủ yếu ở khâu làm đất cây hàng năm,
cây trồng cạn, tuốt đập, vận chuyển và xay xát lúa, gạo. Các khâu như gieo
trồng, thu hoạch cây công nghiệp như mía, sắn, cà phê mức độ cơ giới hóa còn
thấp.
- So với các nước trong khu vực, mức độ trang bị động lực máy nông
nghiệp Việt Nam còn thấp, bình quân đạt 2,2 HP/ha canh tác (một số nước trong
khu vực như: Thái Lan đạt 4 HP/ha, Hàn Quốc 10 HP/ha, Trung Quốc 8 HP/ha).
2. Áp dụng tiến bộ, khoa học công nghệ về cơ điện nông nghiệp:
Công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ một số đề tài có giá trị
thực tiễn, áp dụng hiệu quả trong sản xuất, như: nghiên cứu thiết kế, chế tạo dây
chuyền chế biến hạt giống; máy cấy nhỏ; các loại máy liên hợp gieo, thu hoạch
lạc; máy canh tác mía, máy thu hoạch mía; các loại máy sấy ngô, lúa; hệ thống
thiết bị giết mổ gia súc, gia cầm, chế biến thức ăn chăn nuôi vv…; một số đề tài
đã chuyển thành các dự án sản xuất thử nghiệm đạt kết quả tốt.
Nông dân và thợ cơ khí nông thôn ở nhiều vùng đã sáng tạo, tự chế thành
công nhiều máy móc phục vụ yêu cầu của sản xuất, như: các loại máy gặt lúa rải
hàng, gặt đập liên hợp; máy bơm nước; máy đào mương, máy thái củ, quả máy
bóc bẹ, tẽ hạt ngô…
Từ năm 2007 đến nay, đã tập hợp được trên 140 sáng kiến, cải tiến có giá
trị. Nhiều sáng kiến đã được ứng dụng rộng rãi đem lại hiệu quả rõ rệt về kinh tế

- xã hội.
Từ năm 2011-2013 thông qua Chương trình khuyến nông, các mô hình về
cơ giới hoá nông nghiệp (khuyến công) đã xây dựng được:
- 147 mô hình cơ giới hóa trong sản xuất lúa, tăng năng suất lao động 10 30 lần; giảm 20 - 25% chi phí sản xuất; tập huấn cho 1.470 lượt nông dân/năm,
hướng dẫn nông dân về quy trình vận hành, sử dụng máy móc thiết bị đảm bảo
an toàn lao động và hiệu quả, kỹ thuật sửa chữa và bảo dưỡng máy. Tổ chức cho
trên 3.900 lượt nông dân tham quan học tập/năm.

8


- 51 mô hình sản xuất nguyên liệu chè búp tươi áp dụng cơ giới tổng hợp
tại 17 tỉnh trồng chè. Đã hỗ trợ 612 máy đốn, hái chè, phun thuốc cho 765 hộ,
2550 lượt người được tập huấn. Các mô hình cơ giới hóa chè đã nâng cao hiệu
quả sản xuất 49,2%;
- Hàng nghìn công cụ sạ lúa theo hàng ở Đông Nam Bộ, đồng bằng sông
Cửu Long và một số tỉnh phía Bắc, các mô hình cơ giới hoá sản xuất lúa, mía,
chè, vận chuyển bằng máy kéo nhỏ đa năng, gieo hạt, gặt lúa rải hàng, gặt đập
lúa liên hợp, thu hoạch mía rải hàng, bốc xếp mía đã phát huy hiệu quả góp phần
nâng cao mức độ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp.
Tồn tại: Công tác nghiên cứu khoa học công nghệ về cơ giới hoá nông
nghiệp còn nhiều bất cập, chậm chuyển giao vào sản xuất:
- Nhiều đề tài nghiên cứu về cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu
hoạch chưa gắn với nhu cầu của thực tế, thiếu tính sáng tạo, hàm lượng khoa
học công nghệ thấp, nên không được sản xuất chấp nhận. Một số mẫu máy thu
hoạch không phát huy được hiệu quả (lúa, mía... công nghệ chế tạo thấp).
- Cơ chế nghiên cứu và chuyển giao kết quả các đề tài khoa học công
nghệ còn nhiều bất cập, chạy theo kế hoạch ngắn hạn (thường mỗi đề tài chỉ kết
thúc sau 2 năm), thiếu những kế hoạch dài hạn, hướng đến những nhiệm vụ
trọng tâm, nên không tạo ra những chuyên gia giỏi, chuyên tâm về một lĩnh vực

cần xử lý. Tình trạng này dẫn đến các nhà khoa học làm việc theo thời vụ, đề tài
sau khi kết thúc chỉ nhận được kết quả là những thiết bị mẫu, công nghệ mẫu.
Quá trình từ nghiệm thu đề tài chuyển sang dự án sản xuất thử nghiệm thường
kéo dài và còn mang nặng tính bao cấp, nên không đáp ứng kịp thời yêu cầu của
sản xuất.
- Chưa tạo được mối liên kết hữu cơ giữa các cơ quan nghiên cứu với các
doanh nghiệp ngay từ khi bắt đầu nghiên cứu đến khi kết thúc đề tài, nên rất ít
sản phẩm hàng hóa, có thương hiệu xuất xứ từ kết quả nghiên cứu, chuyển giao
khoa học công nghệ trong lĩnh vực cơ điện nông nghiệp.
- Một số sáng chế, sáng kiến, cải tiến máy móc của nông dân được đánh
giá cao, song chỉ sản xuất được ở quy mô nhỏ lẻ, đơn chiếc, chắp vá và không
theo tiêu chuẩn nên không thể chế tạo hàng loạt, chất lượng cũng không ổn
định..
3. Kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn:
Công tác “dồn điền đổi thửa” bước đầu đã đạt được kết qủa tích cực, số
thửa bình quân từ 6-8 thửa/hộ giảm xuống còn 3-4 thửa/hộ. Hầu hết các máy
nông nghiệp công suất vừa và nhỏ đáp ứng phục vụ cho đối tượng này, nên số
máy móc, thiết bị trong hộ nông dân năm 2013 tăng 50% so với năm 2008, bình
quân máy kéo, máy nông nghiệp các loại của 100 hộ nông nghiệp có 4,8 chiếc;
trang trại có 24 chiếc; hợp tác xã có 4,5 chiếc; doanh nghiệp có 19 chiếc.
9


Hệ thống đường giao thông nông thôn đã được bê tông hóa, hệ thống
kênh mương được kiên cố hoá cơ bản đáp ứng tưới, tiêu cho lúa và một số cây
rau màu.
Tồn tại:
- Công tác quy hoạch kết cấu hạ tầng cho các vùng sản xuất chưa đầy đủ,
chưa đảm bảo cho nhu cầu phát triển, cơ giới hoá, hiện đại hoá;
- Chất lượng các công trình đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật cho

phát triển nông nghiệp còn thấp, thiếu đồng bộ, chưa tương xứng nhu cầu phát
triển của các vùng, miền: Nhiều hệ thống thuỷ lợi xuống cấp, không đồng bộ
nên hiệu quả thấp, chỉ phát huy được 60-70% công suất thiết kế, mới 23% kênh
mương được kiên cố hoá, tình trạng thẩm thấu lãng phí nước còn khá phổ biến.
Đường giao thông liên vùng, liên xã, đường trong các vùng sản xuất
xuống cấp, không đảm bảo kỹ thuật; kho bảo quản, chợ thương mại vừa thiếu lại
xuống cấp.
- Quy mô đồng ruộng ở nước ta nhìn chung vẫn phân tán, manh mún. Hộ
có diện tích lúa dưới 0,5 ha chiếm 85%; từ 0,5 đến dưới 1 ha chiếm 8,5%; từ 1dưới 2 ha chiếm 4,4% và trên 2 ha chiếm 2,1%, bình quân mỗi hộ có sử dụng
đất lúa 0,44 ha đất (số liệu điều tra nông lâm thủy sản năm 2011). Điều này đã
hạn chế việc xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật nội đồng (cứng hoá các mương
thuỷ lợi, đường cho di chuyển máy móc...) cũng như việc áp dụng cơ giới hoá có
hiệu quả.
- Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp của nông dân thấp (số liệu điều tra
2011, vốn tích lũy bình quân một hộ nông thôn 16,8 triệu đồng) khả năng tích
luỹ để đầu tư, mua sắm máy móc, trang thiết bị sản xuất của nông dân gặp nhiều
khó khăn;
4. Công nghiệp chế tạo máy, thiết bị nông nghiệp
a) Về chế tạo máy, thiết bị nông nghiệp:
- Về máy động lực, máy kéo: Đến nay, ngành cơ khí trong nước đã sản
xuất được động cơ diesel công suất đến 30 mã lực (HP); năng lực 40.000
chiếc/năm, chiếm khoảng 40% thị phần trong nước (Chủ yếu do Tổng Công ty
máy động lực và máy nông nghiệp Việt Nam -VEAM – Bộ Công Thương).
- Về máy liên hợp gặt lúa: Trong nước có 15 doanh nghiệp, nhưng chỉ có
3 doanh nghiệp: Tư Sang 2 ở Tiền Giang; Cơ sở Phan Tấn ở Đồng Tháp, CK
An Giang có công suất đáp ứng khoảng 1.000 chiếc/năm.
- Về máy tuốt lúa: Ở phía Bắc tập trung chủ yếu ở 3 cơ sở sản xuất máy
tuốt lúa liên hoàn (Xuân Trường - Nam Định) có khả năng chế tạo 6.000
chiếc/năm.
- Máy xay xát lúa gạo: Trên 90% do các doanh nghiệp trong nước chế tạo.

Điển hình các công ty: Bùi Văn Ngọ, SINCO, LAMICO…đạt trình độ công
nghệ tiên tiến, các dây chuyền xát lúa gạo, đánh bóng năng suất: 4 ÷ 48 tấn/giờ,
10


các loại máy sấy năng suất: 30 - 200 tấn/mẻ. Sản phẩm của các doanh nghiệp
này đã xuất khẩu Đông Nam Á, Châu Mỹ, Châu Phi…:
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Công ty TNHH KUBOTA Việt
Nam, công suất thiết kế 15.000 máy kéo/năm và 2.000 máy gặt đập liên
hợp/năm, chuyên lắp ráp máy kéo (24-45 mã lực), máy phay; máy gặt lúa liên
hợp (1,5-2 m); máy cấy 4-6 hàng; máy thu hoạch ngô.
b) Về nhập khẩu:
Các loại động cơ, máy kéo, máy nông nghiệp nhập khẩu chủ yếu gồm:
động cơ, máy kéo các loại có công suất từ 6-150 HP của Trung Quốc, Belarut,
Kubota, Hàn Quốc, Mỹ; máy đốn hái chè, máy gặt lúa, máy cấy lúa (máy mới
và máy đã qua sử dụng) của Nhật Bản, Hàn Quốc. Trong đó, nhập từ Trung
Quốc khoảng 45% và nhập hàng qua sử dụng khoảng 15%.
Tồn tại:
- Ngành cơ khí trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất nông
nghiệp. Mới chỉ đáp ứng được 32,6% thị trường song chất lượng các máy còn
thiếu ổn định và hầu hết là máy có công suất nhỏ.
- Đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế tạo, lắp ráp máy động lực và máy
nông nghiệp rất ít, mới chỉ có Công ty TNHH KUBOTA Việt Nam.
- Các doanh nghiệp Nhà nước chậm đổi mới, các doanh nghiệp tư nhân
chế tạo máy kéo, máy nông nghiệp hầu hết quy mô nhỏ, năng lực hạn chế, thiếu
chuyên môn hoá, thiếu hợp tác liên kết tổ chức sản xuất.
- Các dự án về máy nông nghiệp thuộc Chương trình cơ khí trọng điểm
nhà nước chậm được triển khai (như chế tạo động cơ điezen công suất lớn, các
dây chuyền chế biến nông sản…).
5. Nguồn nhân lực cơ điện nông nghiệp:

Theo số liệu thống kê 2011, có 6,9 triệu lao động đang làm việc công
nghiệp chế biến, chế tạo (chiếm chiếm 14% lực lượng lao động). Thực tế, giai
đoạn 2011-2013, mỗi năm cả nước đã tổ chức đào tạo nghề cho khoảng 200.000
lao động nông thôn.
Tồn tại:
Đối với lao động sử dụng máy trong nông nghiệp qua đào tạo còn thấp,
nhiều lao động lái máy nông nghiệp không qua đào tạo.
Trước đây cả nước có 5 trường Đại học đào tạo trình độ đại học và sau đại
học ngành cơ khí nông nghiệp, thì hiện nay chỉ còn hai khoa Cơ khí thuộc Học
viện Nông nghiệp Việt Nam và đại học Nông lâm thành phố Hồ Chí Minh. Số
thí sinh thi vào ngành CKNN rất ít, việc tuyển sinh không đạt được các chỉ tiêu
tuyển sinh, cá biệt năm 2011 không có thí sinh nào đăng ký học ngành CKNN.
6. Quản lý Nhà nước về cơ điện nông nghiệp:
- Hệ thống quản lý về cơ điện nông nghiệp từ Trung ương đến địa phương
chưa được quan tâm đầy đủ; năng lực cán bộ từ Trung ương đến cơ sở vừa thiếu
11


vừa yếu. Hiện nay việc theo dõi, báo cáo tình hình sử dụng máy, thiết bị trong
nông nghiệp do Sở Nông nghiệp và PTNT các tỉnh, thành phố trực thuộc TW
giao cho Chi cục Phát triển nông thôn hoặc Trung tâm Khuyến nông tỉnh, tuy
nhiên đa phần làm kiêm nhiệm và không có chuyên môn về cơ điện.
- Việc xây dựng, rà soát bổ sung các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về
máy nông nghiệp để phù hợp với hội nhập tiến hành chậm, thiếu các rào cản kỹ
thuật để ngăn chặn việc nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị kém chất lượng,
còn nặng về các biện pháp hành chính.
- Công tác giám định chất lượng máy nông nghiệp chưa có các quy định
cụ thể, mang tính luật hóa. Chưa có cơ quan nào quản lý về chất lượng máy
nông nghiệp.
7. Chính sách hỗ trợ cơ khí nông nghiệp

a) Đối với chế tạo máy kéo và máy nông nghiệp:
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 186/2002/QĐ-TTg ngày
26/12/2002 về phê duyệt chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm
2010, tầm nhìn tới năm 2020. Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg ngày 16/01/2009
về cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm và danh mục
các sản phẩm cơ khí trọng điểm, danh mục dự án đầu tư sản xuất sản phẩm cơ
khí trọng điểm giai đoạn từ năm 2009-2015.
Tuy nhiên, đến nay, sản phẩm cơ khí trong nước mới đáp ứng 32,6% (giá
trị) nhu cầu sản xuất nông nghiệp, chất lượng một số loại máy như: Máy kéo có
công suất trên 30HP, máy cấy, máy thu hoạch mía, ngô... chưa ổn định, còn thấp
so với máy nhập khẩu.
b) Đối với người sử dụng:
Theo số liệu tổng hợp báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đến
31/8/2014 tổng dư nợ cho vay theo chính sách hỗ trợ (Quyết định 63&65&68)
đạt 1.398 tỷ đồng giảm 2,64% so với năm 2014, trong đó:
- Dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất (Điều 1 của Quyết định) đạt 960,86 tỷ
đồng tăng 11,77% so với năm 2013.
- Dư nợ cho vay áp dụng lãi suất tín dụng đầu tư (Điều 2 của Quyết định)
đạt 437,22 tỷ đồng giảm 23,4% so với năm 2013.
- Tổng số khách hàng được vay: 53 doanh nghiệp, 6 hợp tác xa và 8.453
hộ gia đình, cá nhân.
Qua hơn 03 năm thực hiện, chủ trương của Chính phủ đã bước đầu đáp
ứng được yêu cầu cấp thiết của nông dân cả nước, nhất là vùng sản xuất lúa
hàng hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long. Việc sử dụng máy móc trong sản xuất
nông nghiệp mang lại nhiều lợi ích thiết thực, thay thế lao động thủ công ngày
một khan hiếm và đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn hẳn so với trước đây.
Chính sách hỗ trợ cũng tạo điều kiện khuyến khích, thúc đẩy các cơ sở cơ
khí chế tạo máy trong nước đầu tư chiều sâu, cải tiến công nghệ, nâng cao chất
lượng, đáp ứng yêu cầu của sản xuất, như các cơ sở chế tạo máy GĐLH Phan
12



Tấn (Đồng Tháp); Tư Sang 2 (Tiền Giang); Hoàng Thắng (Cần Thơ).
Ngoài chính sách hỗ trợ của Trung ương, nhiều địa phương cũng có chính
sách khuyến khích hỗ trợ nông dân mua máy như: Hà Nội, Thái Bình, Hải
Dương, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Lạng Sơn, Long An, Cần Thơ, Sóc
Trăng, Đồng Tháp …
Tồn tại:
- Cơ chế chính sách đã ban hành tương đối đầy đủ nhưng tính thực thi còn
hạn chế, thiếu sự nhất quán, đặc biệt về cơ chế tài chính do nguồn lực còn hạn
chế. Đối với chương trình cơ khí trọng điểm các dự án được hỗ trợ theo Quyết
định 10/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ chỉ giải ngân được 16% tổng
hợp đồng tín dụng đã ký (chỉ có 03/11 dự án được Ngân hàng phát triển Việt
Nam ký hợp đồng tín dụng vay vốn). Dự án về chế tạo động lực, máy nông
nghiệp của Doanh nghiệp Nhà nước hầu như không được triển khai.
- Các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp hỗ trợ như Quyết
định 12/2011/QĐ-TTg chủ yếu tập trung các dự án lớn, quan trọng trong khi các
dự án sản xuất công nghệ hỗ trợ cơ khí phần lớn có quy mô vừa và nhỏ khó tiếp
cận với các cơ chế ưu đãi này.
- Chính sách hỗ trợ nông dân mua máy sản xuất nông nghiệp (Quyết định
63&65) khả năng tiếp cận vốn vay của người dân còn hạn chế do người dân
không có tài sản thế chấp.
- Cơ chế hỗ trợ tín đụng đầu tư phát triển cho các cơ sở chế tạo máy nông
nghiệp không hấp dẫn các cơ sở đầu tư cơ khí.
III. TÌNH HÌNH CƠ GIỚI HÓA NÔNG NGHIỆP MỘT SỐ NƯỚC

Hiện nay, nhiều nước trên thế giới và khu vực có trình độ cao về cơ giới
hoá sản xuất nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch tiên tiến, các nước ÂuMỹ đã bắt đầu thực hiện cơ giới hóa từ những năm 30-40 của thế kỷ 20, đến nay
đã đạt đến mức đồng bộ và tự động một số khâu canh tác.
Các nước Âu-Mỹ có diện tích đất nông nghiệp lớn (bình quân diện tích ở

Mỹ 61 ha/người, Canađa 97 ha/người, các nước Anh, Pháp, Đức 6-12 ha/người).
Máy, thiết bị sử dụng trong nông nghiệp có công suất lớn, năng suất cao như
máy kéo bánh bơm công suất 75-300 kW để thực hiện các khâu làm đất, chăm
sóc, thu hoạch. Bình quân mã lực cho 1 ha đất canh tác tại Mỹ 25 ml/ha, các
nước Tây Âu 18 ml/ha, các nước Đông Âu cũ 5-8 ml/ha từ những năm 1990.
Đối với một số nước trong khu vực có điều kiện sản xuất nông nghiệp
tương đối giống như Việt Nam, có mức độ cơ giới hóa nông nghiệp cao, nên
chọn tham khảo để học kinh nghiệm, đó là các nước:
1. Hàn Quốc
Nông nghiệp chiếm 3,2% GDP, lực lượng lao động nông nghiệp chiếm
6,4%. Những năm 50 sản xuất nông nghiệp vẫn dùng lao động thủ công, đầu
những năm 60 bắt đầu dùng máy bơm nước và phun thuốc trừ sâu và khoảng
năm 1970 máy kéo nhỏ 2 bánh được sử dụng rộng rãi. Tháng 12 năm 1978 Hàn
13


Quốc đã ban hành luật khuyến khích cơ giới hóa nông nghiệp. Năm 1980 bắt
đầu sử dụng máy gặt đập liên hợp và máy sấy. Đến đầu những năm 90 đã phát
triển cơ giới hóa một cách đồng bộ, chỉ có riêng khâu làm khô nông sản mới đạt
39%, còn các khâu khác đạt 95 – 100%.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa sản xuất nông nghiệp được triển khai nhờ
ứng dụng thành tựu công nghệ (sinh học, hóa học, cơ điện) vào nông nghiệp và
phát triển công nghiệp chế tạo máy nông nghiệp ở trong nước với 95 xí nghiệp
lớn, vừa và nhỏ. Thời gian đầu Hàn Quốc tiến hành liên doanh với nước ngoài,
chủ yếu là Nhật Bản để chế tạo động cơ và máy kéo nhỏ rồi tiến lên tự sản xuất
ở trong nước, phần lớn là các máy móc chủ yếu cho nông nghiệp.
Hàn Quốc là nước đầu tiên ở Châu Á đề ra chiến lược tổng thể về cơ giới
hóa nông nghiệp (CGH NN) theo hệ cơ khí nhỏ là chủ yếu và đã thực hiện thành
công. Chính phủ có chính sách hỗ trợ nông dân cơ giới hóa, khuyến khích lập
các tổ cơ giới hóa nông nghiệp của nông dân, cho vay 60% và trợ cấp 40% tiền

mua máy, thời hạn cho vay là 5 năm, lãi suất 6%/năm.
Tốc độ CGH NN Hàn Quốc thể hiện rõ rệt qua tình hình trang bị máy kéo
nhỏ cho nông nghiệp thời gian 1961-1994 tăng 28 lần; Đầu những năm 90, Hàn
Quốc đã đạt mức độ CGH cao ở hầu hết các khâu sản xuất lúa, đạt 10 HP/ha.
Trong điều kiện đất đai canh tác ít, giá công lao động cao, sản xuất nông
nghiệp Hàn Quốc từ những năm 90 có xu hướng chuyển sang công nghệ nông
nghiệp kỹ thuật cao, sản xuất trong nhà kính với thiết bị điện tử tự động hóa. Số
nhà kính SX nông nghiệp đã tăng từ 13.700 chiếc (năm 1992) lên 33.800 chiếc
(năm 1994). Không chỉ các trang trại nông nghiệp mà một số xí nghiệp công
nghiệp cũng bắt đầu đi vào sản xuất nông nghiệp kỹ thuật cao để nâng cao chất
lượng, hạ giá thành nông sản. Trong hiện đại hóa nông nghiệp, công nghiệp thực
phẩm ở Hàn Quốc cũng được phát triển nhanh với gần 5.000 xí nghiệp lớn, vừa
và nhỏ nằm ở thành phố và nông thôn. Sản phẩm gạo sấy của Hàn Quốc chế
biến được xuất sang thị trường Nhật Bản.
Trong quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, cơ sở hạ tầng
nông thôn Hàn Quốc được phát triển theo hướng đô thị hóa. Các công trình thủy
lợi được xây dựng, đồng ruộng được cải tạo, mương máng tưới tiêu nước được
bê tông hóa, mạng lưới đường giao thông rải nhựa nối liền từ các thành phố lớn
đến các thị trấn và làng xã.
2. Thái Lan
Nông nghiệp chiếm 10% GDP, lực lượng lao động nông nghiệp chiếm
49%. Thái Lan có diện tích đất trồng lúa là 11,4 triệu ha. Từ năm 1981 Thái Lan
đã trở thành nước xuất khẩu số 1, từ năm 2002 đến nay sản lượng xuất khẩu gạo
bình quân từ 7,2 đến 9,5 triệu tấn (tiêu dùng nội địa 9,4 triệu tấn).
Thái Lan đã thực hiện nhiều chính sách ưu đãi đối với hệ thống sau thu
hoạch như: (1) miễn thuế thu nhập cho các doanh nghiệp mới đầu tư vào nông
nghiệp và công nghệ sau thu hoạch; (2) giảm 5-10% số thuế phải nộp hàng năm
đối với đầu tư vào các lĩnh vực bảo quản, chế biến nông sản; (3) nâng mức
14



lương khới điểm của các cán bộ KHCN trong các cơ quan nghiên cứu lên gấp 3
lần so với mức lương tối thiểu, cán bộ giảng dạy và giáo sư trong một số chuyên
ngành được tiếp tục công việc của mình sau khi nghỉ hưu.
Miễn thuế nhập khẩu máy móc thiết bị và chuyển giao công nghệ của
nước ngoài; giảm 5% thuế thu nhập của công ty trong 5 năm sau thời kỳ được
miễn thuế.
Xuất khẩu được vay vốn ngân hàng với lãi suất ưu đãi, đặc biệt là vốn vay
dài hạn với lãi suất thấp; mua lại gạo của các nhà xuất khẩu, chịu chi phí lưu
kho, bảo quản vận chuyển khi giá gạo trên thị trường thế giới xuống thấp.
Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài như Nhật, Mỹ, Đức đầu tư vào
lĩnh vực chế biến xuất khẩu gạo. Nhờ đó các dây chuyền công nghệ thiết bị xay
xát, đánh bóng gạo của Thái Lan đạt đến trình độ hiện đại; bảo đảm xuất khẩu
chất lượng cao, ổn định.
3. Đài Loan
Nông nghiệp chiếm 1,6% GDP, lực lượng lao động nông nghiệp chiếm
5%. Đài Loan có gần 886.000 ha đất canh tác, bình quân 1,06 ha/hộ nông dân.
Diện tích trồng lúa nước là 459.000 ha, nông sản chủ yếu là lúa gạo, thịt và mía.
Quá trình phát triển cơ giới hóa nông nghiệp ở Đài Loan chia 3 giai đoạn:
- Từ năm 1955 – 1970: Chủ yếu sử dụng máy kéo tay, guồng tuốt lúa đạp
chân nhập khẩu từ Nhật Bản.
- Từ năm 1970 – 1983: Cơ giới hóa cấy lúa và sấy nông sản. Đặc biệt trong
giai đoạn này phát triển mạnh các trung tâm sản xuất mạ non và sử dụng máy
cấy trong cả nước, đến năm 1986 đã có 1.445 trung tâm, mỗi trung tâm phục vụ
từ 200 – 400 ha gieo trồng. Các trung tâm này kết hợp với hơn 600 trạm máy
kéo và máy nông nghiệp để hoàn thành toàn bộ các khâu sản xuất trên đồng theo
hình thức hợp đồng dịch vụ với nông dân.
- Từ năm 1984 đến nay: Cơ giới hóa đã phát triển đồng bộ, ngoài lúa, cơ
giới hóa cây mía, cũng được phát triển. Đến năm 1995 cơ bản hoàn thành cơ
giới hóa nông nghiệp, tỷ lệ cơ giới hóa các khâu đạt 95%.

Những yếu tố tạo nên sự thần kỳ của nền kinh tế Đài Loan là đầu tư phát
triển nông nghiệp, lấy nông nghiệp làm cơ sở phát triển công nghiệp. Chiến lược
công nghiệp hóa hướng ngoại, phát triển công nghiệp đều khắp giữa các vùng,
chính quyền hỗ trợ hợp lý.
Hiện nay Đài Loan đã có một nền nông nghiệp hiện đại, một nông thôn
văn minh và đội ngũ nông dân có tri thức. Với nền khoa học công nghệ bản địa
hoặc du nhập từ nước ngoài có cải biến cho thích hợp, nông nghiệp Đài Loan có
hệ thống giống, hệ thống canh tác, hệ thống bảo vệ cây trồng, vật nuôi, hệ thống
chế biến và bảo quản sản phẩm nông sản hiện đại đáp ứng được yêu cầu chất
lượng và hiệu quả cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Cơ sở hạ tầng: điện, đường, thông tin, nhà ở và các công trình văn hóa xã
hội, thương mại, dịch vụ phát triển không thua kém đô thị nhiều. Chênh lệch
15


mức sống của người dân đô thị và nông thôn không cao (bình quân thu nhập đầu
người giữa nhóm 20% dân cư có thu nhập cao so với 20% dân cư có thu nhập
thấp nhất có độ chênh lệch khoảng 5 lần).
Lực lượng lao động nông nghiệp hoặc trực tiếp gắn với nông nghiệp tuyệt
đại đa số có trình độ đại học, trên đại học và qua đào tạo nghề. Hoạt động
nghiên cứu khoa học và triển khai khoa học – công nghệ phục vụ nông nghiệp
có vị trí hết sức quan trọng được Nhà nước trực tiếp đầu tư lớn và nắm vai trò
chủ đạo. Việc nghiên cứu và đưa thành quả nghiên cứu vào ứng dụng tạo ra sản
phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao gắn kết với nhau rất chặt chẽ như
một thể thống nhất.
Nền nông nghiệp Đài Loan là nền nông nghiệp hướng về xuất khẩu, chất
lượng và sức cạnh tranh cao của các mặt hàng nông sản Đài Loan đã chiếm thị
phần khá lớn tại các thị trường Mỹ, Nhật.
4. Trung Quốc :
Nông nghiệp chiếm 11% GDP, lực lượng lao động nông nghiệp chiếm

45%. Tổng diện tích canh tác khoảng 95,5 triệu ha. Cây lương thực chủ yếu là
lúa mì, lúa nước và ngô. Cơ giới hóa nông nghiệp đã bắt đầu phát triển mạnh từ
năm 1980. Đến 1998 tổng động lực cho nông nghiệp đạt gần 490,5 triệu kW.
Trung Quốc đã đưa mục tiêu cơ giới hoá nông nghiệp vào 5 nhiệm vụ
quan trọng nhất của cả nước trong giai đoạn 2004 – 2008. Năm 2004, đã ban
hành Luật “khuyến khích cơ giới hoá nông nghiệp” . Cơ giới hoá nông nghiệp
của Trung Quốc hỗ trợ cho các hoạt động : kiến thiết đồng ruộng, xây dựng, lắp
đặt các thiết bị tưới, mua sắm máy móc, hạt giống, xăng dầu cho sản xuất nông
nghiệp, nghiên cứu khoa học kỹ thuật và khuyến nông, giáo dục,v.v...
Trong năm 2004, Trung Quốc đã chi 5 tỷ USD để hỗ trợ cho việc trang bị
máy nông nghiệp trong 66 huyện của 16 tỉnh. Mức hỗ trợ ở mức 35% giá mua
máy.
Để hoàn thành cơ giới hóa nông nghiệp vào năm 2015, Trung Quốc đã
thực hiện: 1) Phát triển hệ thống máy kéo làm việc ở ruộng nước công suất từ
18,4 – 48,7 kW, hệ thống máy kéo bánh bơm phục vụ sản xuất ngô, lúa mì công
suất từ 18,4 – 117,6 kW và hệ thống máy nông nghiệp đi theo. 2) Tăng nhanh
việc sử dụng các loại máy thu hoạch từ 2001 – 2010, tốc độ tăng trung bình 5,5
– 6,7% năm, chú trọng các loại máy kéo để thu hoạch ngô và lúa mì. 3) Phát
triển thiết bị kỹ thuật để duy trì và phát triển nông nghiệp sinh thái và bảo vệ
môi trường.
5. Bài học kinh nghiệm qua nghiên cứu cơ giới hóa nông nghiệp một
số nước:
5.1. Các nước đều có luật, chiến lược, chính sách khuyến khích thúc đẩy
đưa máy móc, thiết bị vào sản xuất nông nghiệp. Đầu tư cơ giới hóa nông
nghiệp từ thấp tới cao phù hợp với sự phát triển của trình độ sản xuất và quá
trình công nghiệp hóa.
16


5.2. Các nước đã dành nguồn lực tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng

nông nghiệp đồng bộ như giao thông, thủy lợi, quy hoạch đồng ruộng.
5.3. Công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp
được chú trọng phát triển các cơ sở nghiên cứu tư nhân gắn với nghiên cứu và
chuyển giao một cách có hệ thống và kết quả rõ rệt.
5.4. Đầu tư đào tạo và có chính sách khuyến khích sử dụng nguồn lực lao
động nông nghiệp, nông thôn.
5.5. Có chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài vào chế tạo máy, thiết
bị nông nghiệp, tận dụng ưu thế về vốn và công nghệ cao.
IV. TÌNH HÌNH CƠ GIỚI HÓA NÔNG NGHIỆP Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG

Để khuyến khích phát triển cơ giới hóa nông nghiệp, một số tỉnh đã có
chính sách hỗ trợ người dân mua máy, thông qua các mô hình thí điểm áp dụng
tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, khuyến khích, hỗ trợ kinh phí thực
hiện dồn điền đổi thửa, qui hoạch đồng ruộng, hệ thống tưới, tiêu gắn với
chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, cụ thể như:
1. Tình hình cơ giới hóa tỉnh Thái Bình: Năm 2011, Thái Bình đã có
Quyết định 574/QĐ-UBND ngày 08/4/2011 về cơ chế, chính sách hỗ trợ sản
xuất nông nghiệp, theo đó hỗ trợ kinh phí mua máy phục vụ sản xuất nông
nghiệp, bao gồm: máy làm đất đa năng, máy gặt đập liên hợp. Cơ chế hỗ trợ
50% đơn giá máy sản xuất trong nước và nước ngoài có công suất từ 25 HP trở
lên cho máy làm đất đa năng; máy gặt đập liên hợp có công suất từ 40 HP trở
lên. Hỗ trợ kinh phí mua máy sấy cho 3 huyện Hưng Hà, Thái Thụy, Vũ Thư
mỗi huyện 2-3 xã điểm, có diện tích trồng đậu từ 100 ha trở lên, cơ chế hỗ trợ
70% kinh phí mua thiết bị máy sấy.
Đến nay, cơ giới hóa nông nghiệp tăng nhanh, như: huyện Đông Hưng là
địa phương có tỷ lệ cơ giới hóa khâu làm đất cao nhất, bảo đảm cho 95% tổng
diện tích đất gieo trồng và 97% diện tích đất trồng lúa toàn huyện. Nếu như vụ
xuân 2008 diện tích gieo sạ mới đạt 961,55 ha thì đến vụ xuân 2009, diện tích
này đã tăng lên tới 1.752,85 ha, tăng gần 83% và chiếm hơn 14% tổng diện tích
gieo cấy.

Qua cơ chế "kích cầu" của huyện, nông dân đã mạnh dạn đầu tư mua 381
dụng cụ sạ hàng cải tiến, tạo bước đột phá mạnh mẽ trong việc thực hiện cơ giới
hóa khâu gieo cấy. Đối với khâu thu hoạch, khâu ra hạt… do tính chất khẩn
trương của thời vụ và sức ép thiếu lao động lúc mùa vụ nên nông dân trong
huyện cũng đã quan tâm đầu tư, đưa vào sử dụng ngày càng phổ biến máy tuốt
lúa bằng động cơ, đặc biệt là máy gặt đập liên hợp thực hiện được cả hai công
đoạn gặt và tuốt; vừa cải thiện điều kiện làm việc nặng nhọc cho người nông
dân, vừa rút ngắn thời gian, tiết kiệm chi phí, giảm tỷ lệ rơi vãi…
2. Tình hình cơ giới hóa Hà Nội: Năm 2012, thành phố Hà Nội đã ban
hành quyết định số 16/2012/QĐ-UBND ngày 06/7/2012 thí điểm một số chính
sách khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng hạ tầng nông thôn
giai đoạn 2012-2016, theo đó hỗ trợ 100% lãi suất vốn vay tín dụng theo mức lãi
17


suất của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT thời hạn tối đa 3 năm, mức vay vốn
tối đa 100%. Một số mô hình thí điểm ở Hà Nội thực hiện cơ giới hóa trong sản
xuất lúa:
- Mô hình đưa cơ giới hóa đồng bộ vào sản xuất lúa trên diện tích 24 ha ở
cánh đồng khu Thượng Đoạn (Thanh Trì) của hơn 400 hộ dân tham gia, trong đó
phía Công ty TNHH một thành viên công nông nghiệp Hà Nội hỗ trợ dịch vụ từ
khâu làm đất, cấp giống, gieo mạ, chăm sóc…Sau khi dồn điền đổi thửa, Công
ty đã tiến hành đào tạo tập huấn cho cán bộ quản lý mô hình, hướng dẫn bà con
sản xuất mạ khay và sử dụng máy nông nghiệp… Theo tính toán ban đầu, việc
áp dụng cơ giới hóa đồng bộ vào sản xuất lúa theo mô hình này sẽ giảm chi phí
khoảng 220.000 đồng/sào. Hơn nữa, giải phóng được thời gian và sức lao động
cho nông dân.
- Mô hình thí điểm sử dụng mạ khay và cấy bằng máy, trên diện tích 5 ha
vụ Xuân và 35 ha vụ Mùa năm 2012 xã Đại Thắng huyện Phú Xuyên đã thực
hiện phương án dồn điền đổi thửa từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn, đối với lúa

giống Hương ưu 3068, cho năng suất đạt 72 tạ/ha, vượt 10% so với phương
pháp cấy thủ công. Vụ Xuân năm 2013, xã Đại Thắng tiếp tục thực hiện sản xuất
mạ khay và cấy bằng máy trên diện tích 82,6 ha lúa hàng hóa chất lượng cao ở 4
thôn của xã, vượt mức kế hoạch được giao (đạt 122%), đánh dấu bước đột phá,
thể hiện quyết tâm đưa cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp. Xã đã thành lập
một tổ dịch vụ gồm 3 bộ phận: làm đất, làm khay mạ và cấy máy, thực hiện toàn
bộ các khâu từ khâu làm giá thể đến khâu làm mạ rồi đưa xuống để cấy cho bà
con. Thành công của mô hình sản xuất mạ khay và cấy bằng máy đã tạo ra hiệu
quả rõ rệt về kinh tế xã hội cho xã Đại Thắng. Tỷ lệ hộ nghèo của xã giảm từ
13% xuống 2,93%, thu nhập bình quân từ 17 triệu lên 23 triệu/người/năm. Trong
chương trình xây dựng NTM, Đại Thắng xác định vụ Mùa 2013 và những năm
tiếp theo dự kiến sẽ đưa vào 40-50% diện tích là cơ giới hóa trong sản xuất nông
nghiệp, sử dụng mạ khay và cấy bằng máy.
- Một số mô hình liên kết đưa cơ giới hóa vào nông nghiệp tại các huyện
Chương Mỹ, Gia Lâm, Sóc Sơn, Ba Vì đã giảm chi phí sản xuất đến 20% và
năng suất lúa tăng từ 15 - 20%. Để tiếp tục nhân rộng mô hình, vụ Xuân 2012,
Trung tâm Khuyến nông Hà Nội đã liên kết với các doanh nghiệp và chính
quyền địa phương đưa cơ giới hóa đồng bộ vào sản xuất lúa tại các cánh đồng có
diện tích lớn như cánh đồng 50 ha ở xã Đồng Quang (Quốc Oai); 24 ha ở xã Đại
Áng (Thanh Trì) và 28 ha ở xã An Mỹ (Mỹ Đức)…
3. Tình hình cơ giới hóa tỉnh Long An: Tỉnh có Nghị quyết 04/NQ-TU
về công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và chủ trương đẩy
mạnh cơ giới hóa nông nghiệp; ngành nông nghiệp đã tổ chức đào tạo, tập huấn,
xây dựng các mô hình trình diễn cơ giới hóa, đã cấp phát hàng ngàn cuốn tài
liệu, hỗ trợ nông dân hàng trăm dụng cụ sạ hàng, máy cắt xếp dãi, máy gặt đập
liên hợp, máy sấy,…,
Giai đoạn 2007-2010 tỉnh có quyết định 2205/QĐ-UBND ngày 21/8/2007
đã hỗ trợ trên 11 tỷ đồng (hỗ trợ 30% giá trị máy) đã tác động mạnh đến phát
triển cơ giới hóa, số máy gặt đập liên hợp và máy sấy lúa công suất lớn đã tăng
18



nhanh, cơ bản chủ động được khâu thu hoạch, giảm thất thoát và chi phí sản
xuất, nâng cao thu nhập cho nông dân và doanh nghiệp chế biến, kinh doanh lúa
gạo. Đến nay tỷ lệ áp dụng cơ giới hóa chủ yếu tập trung cho cây lúa đạt gần
100% làm đất, 98% thu hoạch (trong đó khoảng 90% thu hoạch bằng máy gặt
đập liên hợp), 60% lúa được sấy, 45% sạ hàng bằng máy. Các cây trồng mía,
đậu phộng, đay, bắp,… chủ yếu cơ giới hóa khâu làm đất và bơm nước. Trong
chăn nuôi và thủy sản có một số mô hình cơ giới hóa chuồng trại, ao nuôi, sử
dụng máy nghiền - ép thức ăn viên, dùng hệ thống cấp nước uống, thức ăn tự
động, bán tự động,...
Trong gần 04 năm ngân sách Nhà nước đã đầu tư hơn 10 tỷ đồng chi
cho hỗ trợ máy, nhưng đã kích thích nông dân huy động mọi nguồn lực đầu tư
trên 300 tỷ đồng để mua máy gặt đập liên hợp, trong đó vốn tự có là chủ yếu,
vốn vay tín dụng không lớn.
Cơ giới hóa đã góp phần trong đẩy mạnh hợp tác sản xuất, nhiều tổ hợp
tác ra đời, có một số tổ hoạt động hiệu quả, có địa phương quy định giá dịch vụ
thu hoạch của tổ hợp tác mua máy được hỗ trợ, khi gặt cho tổ viên trong tổ thì
được giảm 100.000 đồng/ha so giá dịch vụ thu họach lúa trên thị trường.
4. Tình hình cơ giới hóa tỉnh Thanh Hóa
Công ty CPCNN Việt Mỹ đóng trên địa bàn xã Yên Thái, huyện Yên
Định vừa liên kết với một doanh nghiệp Nhật Bản, đưa nhiều máy nông nghiệp
về thực hiện các mô hình thí điểm tại 5 xã có đặc thù khác nhau thuộc các
huyện: Thọ Xuân, Yên Định, Thiệu Hóa và Triệu Sơn. Đây chính là việc thực
hiện chủ trương của tỉnh và ngành NN&PTNT trong liên kết các đơn vị nghiên
cứu khoa học, các doanh nghiệp nhằm đẩy mạnh chuyển giao các tiến bộ khoa
học - kỹ thuật mới trong sản xuất.
Các loại máy áp dụng gồm: Máy cấy lúa Kubota có năng suất hơn 30 lần
so với cấy bằng tay (một lao động phải mất trung bình 1,5 ngày công mới hoàn
thành cấy xong một sào lúa) đồng thời tiết kiệm được lượng mạ, khóm lúa phân

bố đều nên thuận lợi cho sự sinh trưởng và nâng cao năng suất của cây lúa. Máy
cày, máy gặt đập liên hợp nhãn hiệu Kubota cũng hoạt động hiệu quả. Các máy
gặt đập liên hợp mới này gặt được 5 ha/ngày (8 tiếng).
5. Tình hình cơ giới hóa Hải Phòng
Năm 2011, Trung tâm Khuyến nông, khuyến ngư Hải Phòng triển khai dự
án xây dựng mô hình cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất lúa tại xã Đại Thắng
(Tiên Lãng) với diện tích 15 ha. Trên cơ sở dồn điền thành ô thửa lớn, Trung
tâm phối hợp với HTX nông nghiệp triển khai sản xuất từ khâu vệ sinh đồng
ruộng đến ngâm ủ giống và các biện pháp kỹ thuật.
Mô hình áp dụng cơ giới hóa đồng bộ các khâu từ làm đất, gieo sạ, phun
thuốc bảo vệ thực vật, thu hoạch, ra hạt. Nhờ đó hiệu quả kinh tế trong sản xuất
tăng 45%, năng suất lúa tăng 10% so với canh tác truyền thống.
6. Nhận xét về các mô hình cơ giới hóa nông nghiệp của các địa
phương:
19


6.1. Những mặt được:
- Các địa phương đã quan tâm và có chính sách khuyến khích hỗ trợ nông
dân mua máy, như tỉnh Long An đã ra nghị quyết và có chính sách hỗ trợ qua đó
nông dân thấy hiệu quả của cơ giới đã tự đầu tư mua sắm máy phục vụ sản xuất
nông nghiệp tăng gấp 30 lần so với kinh phí hỗ trợ của địa phương.
- Các mô hình sử dụng máy nông nghiệp thực sự có hiệu quả: năng suất
lúa cao hơn 15-20%, giảm chi phí khoảng 220.000 đồng/sào (Hà Nội), giải
phóng được thời gian và sức lao động cho nông dân.
- Mối liên kết các đơn vị nghiên cứu khoa học, các doanh nghiệp với nông
dân thực sự phát huy hiệu quả trong sản xuất (Thanh Hóa).
- Cơ giới hóa thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp như giao
thông nông thôn, quy hoạch đồng ruộng, dồn điển đổi thửa…
- Cơ giới hóa đã góp phần trong đẩy mạnh hợp tác sản xuất, nhiều tổ

hợp tác ra đời và hoạt động có hiệu quả.
6.2. Những mặt chưa được:
- Các địa phương đã có chính sách khuyến khích, hỗ trợ nông dân mua
máy, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp nhưng khả năng nguồn vốn hạn hẹp
nên chỉ hỗ trợ thời gian ngắn như tỉnh Long An (2007-2010).
- Các mô hình cơ giới hóa của các địa phương quy mô nhỏ (chủ yếu qui
mô cấp xã), cơ sở hạ tầng đồng ruộng, giao thông còn hạn chế.
- Khả năng nhân rộng chưa cao vì qui mô đồng ruộng còn phân tán, nhỏ
lẻ, khả năng đầu tư của nông dân hạn chế như: Hà Nội, Thái Bình.
Phần II
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU
I. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC

1. Cơ hội
- Nhiều nước trên thế giới và khu vực có trình độ cao về cơ giới hoá sản
xuất nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch tiên tiến, do đó Việt Nam có cơ
hội để học tập kinh nghiệm của các nước đi trước.
- “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” ngày càng được sự quan tâm của
Đảng, Nhà nước và xã hội trong tiến trình đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn, trong đó cơ giới hoá nông nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất được
quan tâm đặc biệt.
- Xu thế chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động nông thôn sang công nghiệp,
xây dựng và dịch vụ đòi hỏi phải có máy, thiết bị thay thế lao động thủ công.
Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức, nếu không có những giải pháp hữu hiệu để
đẩy nhanh cơ giới hoá.
20


- Quá trình thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế mạnh mẽ trong đó tái cơ cấu
ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.

2. Thách thức
- Biến đổi khí hậu, gây ra ngập lụt, hạn hán ảnh hưởng đến việc áp dụng
máy móc trên đồng.
- Tổ chức sản xuất nông nghiệp phân tán, quy mô nhỏ, hiệu quả sản xuất
nông nghiệp thấp làm hạn chế đầu tư và áp dụng máy móc, công nghệ hiện đại.
- Ruộng đất nhỏ lẻ, manh mún, phân tán, kết cấu hạ tầng nông nghiệp,
nông thôn ở nhiều vùng chất lượng thấp, khó khăn cho việc áp dụng máy móc,
thiết bị vào sản xuất nông nghiệp.
- Nhiều vùng lực lượng lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn,
trong khi đó chất lượng lao động nông thôn thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động
chậm. Thu nhập từ sản xuất nông nghiệp thấp.
- Chất lượng máy, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp trong nước chế
tạo thấp.
- Sự phát triển nhanh của khoa học công nghệ trên thế giới tác động mạnh
mẽ đến năng suất, chất lượng và giá thành sản phẩm nông nghiệp, vấn đề dinh
dưỡng và bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng càng khắt khe
hơn.
II. QUAN ĐIỂM

1. Cơ giới hóa nông nghiệp là nội dung quan trọng của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phù hợp với nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
2. Cơ giới hóa nông nghiệp phải được tiến hành đồng bộ (về cơ sở hạ
tầng, máy móc, thiết bị và điều kiện đầu tư) phù hợp với quy mô, trình độ sản
xuất của từng vùng; trước hết là các vùng sản xuất hàng hóa, tập trung, các khâu
sản xuất nặng nhọc, các khâu tổn thất sau thu hoạch lớn.
3. Chú trọng phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở nông
thôn, phát huy vai trò của các doanh nghiệp làm nòng cốt, liên kết, hỗ trợ nông
dân phát triển sản xuất hàng hoá. Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng, chế tạo trong
nước một cách thiết thực, hiệu quả. Kết hợp nhập khẩu các loại máy móc, thiết

bị, công nghệ tiên tiến đáp ứng kịp thời yêu cầu của sản xuất;
4. Phát huy nội lực của toàn xã hội trong đầu tư vào cơ giới hóa nông
nghiệp.
III. MỤC TIÊU

1. Mục tiêu chung
Đẩy mạnh áp dụng cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp phù hợp với điều
kiện của từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi nhất là những vùng sản xuất
nông nghiệp tập trung, hàng hoá làm thay đổi tập quán canh tác phân tán, thủ công
21


sang sản xuất bằng máy, thiết bị tiên tiến, hiện đại có năng suất, chất lượng, hiệu
quả cao, giảm tổn thất trong nông nghiệp.
Đến năm 2020, những vùng nông nghiệp sản xuất hàng hóa tập trung cơ bản
được cơ giới hóa và cơ giới hóa đồng bộ.
2. Các chỉ tiêu đến năm 2020
Công suất máy trang bị bình quân cả nước đạt 3-3,5 HP/ha vào năm 2020.
Mức độ cơ giới hoá các khâu như sau:
Khâu sản xuất
1. Trồng trọt (cây hàng năm)
Làm đất
Gieo trồng, cấy :
Chăm sóc
Tưới chủ động
Thu hoạch (chủ yếu lúa)
Sấy hạt
2. Chăn nuôi
- Chuồng trại
- Chế biến thức ăn

- Vắt sữa
3. Sản xuất muối
- SX nước chạt
- Thu gom, vận chuyển

Năm

Đơn vị
tính

2013

2020

%
%
%
%
%
%

80
30
60
90
35
35

95
75

80
95
70
70

%
%
%

35
40
45

60
80
80

%

50
60

85
80

Phần III
NỘI DUNG CƠ GIỚI HÓA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
I. CƠ GIỚI HOÁ CÁC NGÀNH SẢN XUẤT CHÍNH

1. Trồng trọt

1.1. Đối với cây hàng năm (lúa, mía, ngô, sắn, lạc): Tập trung tăng nhanh
tỷ lệ cơ giới hóa sản xuất:
- Khâu làm đất: Cơ bản được cơ giới hóa, chuyển sử dụng máy kéo 2
bánh sang máy kéo 4 bánh có năng suất, hiệu quả và điều kiện lao động thuận
lợi, đến năm 2020, mức độ cơ giới hoá làm đất bình quân cả nước đạt trên 90%,
riêng ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đạt 100%.
- Khâu gieo trồng, cấy: Chuyển dần từ gieo xạ bằng công cụ sang sử
dụng mạ khay, máy cấy lúa và máy cấy lúa tốc độ cao đưa mức độ cơ giới hóa
khâu gieo cấy hiện nay từ 30% lên cấy bằng máy đạt 70%. Gieo ngô bằng máy
ở các vùng sản xuất bằng phẳng tập trung đạt 70%. Trồng mía bằng máy ở vùng
tập trung, bằng phẳng từ 30% hiện nay lên 70%.
- Khâu chăm sóc: Sử dụng máy phun thuốc bảo vệ thực vật hiện nay 60%
lên 80% bằng các thiết bị phun thuốc bảo vệ thực vật có động cơ. Sử dụng máy
kéo đa năng chăm sóc (vun, xới) đạt 70-80%;
22


- Khâu tưới: Đưa công nghệ tưới tiết kiện nước (Tưới nhỏ giọt, tưới phun
mưa) để áp dụng nhanh mô hình tưới tiết kiệm nước cho mía, chè, cà phê và một
số cây công nghiệp khác.
- Khâu thu hoạch: Thực hiện thu hoạch lúa bằng máy đạt 70% vào năm
2020, trong đó khu vực đồng bằng sông Cửu Long đạt 95%, chủ yếu sử dụng
máy gặt đập liên hợp có tính năng kỹ thuật cao, mức độ gặt sót dưới 1,5%. Máy
thu hoạch ngô 1-2 hàng đạt 50%. Mía đạt 50%. Sắn, lạc 40%.
- Khâu sấy, bảo quản: Phát triển các loại máy sấy, phù hợp với quy mô,
trình độ sản xuất, từ năm 2015 trở đi năng lực sấy lúa cả nước đạt trên 12 triệu
tấn/năm. Chú trọng việc đầu tư các hệ thống sấy tiên tiến, gắn với các cơ sở xay
xát, dự trữ lương thực lớn. Chủ động làm khô đối với ngô, nhất là vào mùa mưa,
hạn chế tối đa tổn thất về chất lượng do nhiễm aflatoxin.
Chuyển giao các mẫu hình kho bảo quản lúa, ngô quy mô hộ gia đình

theo hướng tiện ích, an toàn. Cơ giới hóa các kho đạt 80%, với 20% được tự
động hóa, nâng cao năng suất lao động và kiểm soát các thông số kỹ thuật trong
quá trình bảo quản.
1.2. Đối với cà phê:
Áp dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước cho cà phê. Cải thiện điều kiện kỹ
thuật thu hái, làm khô, khuyến khích áp dụng kỹ thuật chế biến ướt, đầu tư hệ
thống kho chứa đảm bảo kỹ thuật để nâng cao chất lượng cà phê nhân xuất khẩu.
- Khâu thu hái: Lựa chọn loại máy thu hoạch phù hợp nhằm giảm tổn thất
về khối lượng và chất lượng trong thu hái quả, đạt khoảng 30%;
- Khâu làm khô: Cà phê quả tươi quy mô nông hộ được làm khô đúng kỹ
thuật để hạn chế sự nhiễm nấm và giảm phẩm cấp trong quá trình phơi sấy. Hỗ
trợ người dân và doanh nghiệp đầu tư sân phơi đúng kỹ thuật và các máy sấy
tiên tiến, hạn chế tối đa sự nhiễm achrotoxin A.
- Khâu bảo quản: Xây dựng hệ thống kho đạt tiêu chuẩn kỹ thuật để thu
mua hoặc tạo điều kiện cho dân ký gửi hàng hoá tại các vùng sản xuất hàng hoá,
nhất là địa bàn các tỉnh Tây nguyên.
1.3. Đối với rau quả
- Khâu thu hoạch: Ứng dụng công nghệ tiên tiến, xử lý cận thu hoạch
bằng các chất điều hòa sinh trưởng, kéo dài thời gian thu hoạch; cải tiến phương
tiện, dụng cụ thu hái đảm bảo chất lượng nguyên liệu trước thu hoạch.
- Khâu bảo quản: Thực hiện bảo quản rau quả tươi tại chỗ theo hướng
bọc màng bán thấm (coating); ứng dụng công nghệ chiếu xạ, tiệt trùng bằng
nước nóng đối với một số loại rau quả tươi xuất khẩu. Đầu tư phát triển hệ thống
sơ chế rau quả (Packing House) tại các chợ đầu mối, bảo đảm vệ sinh an toàn
thực phẩm và hạn chế đến mức thấp nhất tổn thất sau thu hoạch.
1.4. Đối với chè:
Ngoài khâu chăm sóc, xới cỏ bằng máy, khâu đốn, hái chè sử dụng máy
đạt 40%, tập trung ở Nghệ An, Lâm Đồng và một số tỉnh như Yên Bái, Thái
23



Nguyên. Áp dụng VIETGAP, QCVN 132:2013/BNNPTNT trong thu hoạch, vận
chuyển, bảo quản chè để giảm tổn thất về chất lượng. Đến năm 2020, đảm bảo
trên 80% chè nguyên liệu được thu hoạch, vận chuyển, bảo quản đúng yêu cầu
kỹ thuật.
2. Chăn nuôi
Áp dụng máy, thiết bị cho chăn nuôi nông hộ theo hình thức công nghiệp,
có kỹ thuật và công nghệ phù hợp để hạn chế dịch bệnh, giảm thiểu ô nhiễm môi
trường vừa bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm và tăng khả năng cạnh tranh của
ngành chăn nuôi. Trong đó nuôi lợn công nghiệp 37% (tổng đàn 35 triệu con
lợn), gà công nghiệp 33% (tổng đàn 300 triệu con).
- Cơ giới hoá chăn nuôi chuồng trại: hệ thống cung cấp thức ăn, nước
uống tự động đạt 60% vào năm 2020,
- Cơ giới hóa chế biến thức ăn thô (trâu, bò) từ 30% lên 60%;
- Cơ giới hóa: sử dụng máy vắt sữa đạt từ 35% lên 80%.
- Cơ giới hóa vệ sinh chuồng trại, xử lý tái tạo chất thải chăn nuôi thành
các sản phẩm dưới dạng năng lượng (nhiệt – điện) và phân bón hữu cơ đạt 70%.
3. Sản xuất muối
3.1. Sản xuất theo công nghệ phơi cát và phơi nước phân tán:
Đầu tư cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng, hệ thống thủy lợi đồng muối của
dân trong quy hoạch, áp dụng tiến bộ kỹ thuật sản xuất muối sạch, trang bị công
cụ cải tiến, máy móc thích hợp để giảm cường độ lao động, tăng năng suất 20%,
tăng GTGT các sản phẩm muối ít nhất 20% so với hiện nay và tạo nguồn
nguyên liệu sạch để chế biến muối tinh chất lượng cao.
3.2. Sản xuất muối theo công nghệ phơi nước tập trung, qui mô công
nghiệp:
Tập trung đầu tư phát triển sản xuất muối công nghiệp, áp dụng khoa học
công nghệ tiên tiến trong sản xuất muối, kết hợp thu hồi các sản phẩm phụ có
giá trị (thạch cao: bằng 6,5% sản lượng muối; nước ót: 0,7 m3/tấn muối).
Ứng dụng công nghệ phủ bạt che mưa ô kết tinh để khắc phục thời tiết.

Thực hiện cơ giới hóa, tự động hóa trong sản xuất, nhất là khâu thu hoạch
và rửa muối ngay sau thu hoạch để tăng năng suất, chất lượng trên 20% so với
hiện nay.
3.3. Về kho bảo quản muối
Xây dựng mới, nâng cấp một số kho hiện có và tăng cường trang thiết bị,
hiện đại hoá kho nhằm nâng cao chất lượng bảo quản muối.
II. CƠ GIỚI HÓA CÁC VÙNG SẢN XUẤT

1. Vùng Trung du và miền núi phía Bắc
Đây là vùng sản xuất nông nghiệp có thế mạnh là trồng chè, cây ăn quả,
chăn nuôi gia súc, trồng rừng bảo vệ. Đã hình thành một số vùng sản xuất hàng
24


hoá tập trung như: ngô, chè, chăn nuôi trâu, bò (thịt, sữa) ở Sơn La, chè các tỉnh
Thái Nguyên, Hà Giang, cam ở Hà giang, Tuyên Quang.
Cơ giới hoá sản nông nghiệp, đối với lúa chủ yếu sản xuất tự cung, tự cấp
hiện tại các loại máy kéo đa năng công suất nhỏ (dưới 15 HP) tương đối phù hợp
khâu làm đất, bơm nước, vận chuyển.
Các loại cây trồng khác như mía, sắn sử dụng các loại máy trồng, chăm
sóc, thu hoạch (loại công suất trung bình), máy đốn, hái chè phù hợp với điều
kiện canh tác và địa hình của vùng.
Đưa nhanh công nghệ bảo quản rau quả tươi một số sản phẩm hàng hóa
như cam (Hà Giang, Tuyên Quang), Vải (Bắc Giang).
Phát triển các máy bóc bẹ, tẽ hạt, sấy và kho bảo quản ngô phù hợp với
hình thức sản xuất, dịch vụ kinh doanh. Máy bóc vỏ lạc qui mô hộ gia đình.
Đối với các vùng sản xuất chè hàng hoá lớn sử dụng máy kéo đa năng
trong vun xới, máy phun thuốc bảo vệ thực vật, hệ thống tưới tiết kiệm nước,
máy đốn hái chè vv...
Đẩy mạnh cơ giới hóa trong chăn nuôi gia súc ăn cỏ (trâu, bò) chế biến

thức ăn thô, chăm sóc thu hoạch cỏ.
Mức độ (%) cơ giới hóa một số khâu chủ yếu như sau:
Khâu sản xuất

Trung du miền núi phía Bắc
2013

2020

Làm đất hàng năm

40

60

Gieo trồng, cấy

5

15

Chăm sóc mía, chè

30

60

Thu hoạch (lúa, mía, chè)

10


30

Sấy hạt (chủ yếu là ngô)

20

50

2. Vùng đồng bằng sông Hồng
Lợi thế của vùng: thâm canh lúa, lúa đặc sản, trồng cây vụ đông, chăn
nuôi, thủy sản ven biển có thị trường nông sản tại chỗ lớn, lao động nhiều, dân
trí cao, cơ sở hạ tầng phát triển, có nhiều làng nghề truyển thống.
Hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp thông qua phát triển các vùng rau, hoa
chuyên canh ứng dụng công nghệ cao; phát triển chăn nuôi tập trung theo kiểu
công nghiệp và bán công nghiệp;
Đẩy mạnh công tác ”dồn điền, đổi thửa” quy hoạch lại đồng ruộng, hoàn
thiện hệ thống thủy lợi tưới tiêu chủ động, phát triển mô hình sản xuất cánh
đồng lớn.
Các hộ nông dân và tổ hợp tác chủ yếu sử dụng máy kéo nhỏ, công suất
dưới 50 mã lực. Với những vùng có diện tích lớn, tương đối tập trung như: Thái
Bình, Nam Định, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nam phát triển các công ty dịch vụ
25


×