Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số rủi ro chủ yếu trong kinh doanh chứng khoán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.29 KB, 18 trang )

LỜI MỞ ĐẦU :
Kinh doanh chứng khoán có thể nói là một ngành kinh doanh có lợi
nhuận lớn và độ rủi ro cao. Bởi vậy, việc nghiên cứu những biện pháp nhằm
phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh chứng khoán là việc vô cùng
cần thiết và quan trọng góp phần lành mạnh hóa thị trường và đưa nền kinh
tế đất nước đi lên.
NỘI DUNG CHÍNH :
I.Khái niệm và đặc điểm của hoạt động kinh doanh chứng khoán.
1.Khái niệm
Ở Việt Nam, theo quy định tại khoản 19 Điều 6 Luật chứng khoán năm 2006
thì “kinh doanh chứng khoán là việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng
khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu
tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và
quản lý danh mục đầu tư chứng khoán”. Với định nghĩa này, khái niệm kinh
doanh chứng khoán ở Việt Nam được hiểu theo nghĩa khá rộng và cơ bản
tương đồng với khái niệm kinh doanh chứng khoán trong pháp luật các nước
trên thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực Đông Nam Á và châu Á
như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… Nói một cách khái quát, kinh
doanh chứng khoán là loại hình hoạt động thương mại đặc biệt mà ở đó, các
công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ và các chủ thể được phép kinh
doanh chứng khoán tiến hành các nghiệp vụ về chứng khoán cho chính mình
hoặc cho khách hàng vì mục tiêu lợi nhuận tối đa.
2. Đặc điểm


Thứ nhất, kinh doanh chứng khoán là nghề thương mại đặc thù có
liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích của các nhà đầu tư là công chúng và
các doanh nghiệp. Các chủ thể trên nếu muốn thực hiện nghề nghiệp này
nhất thiết phải thỏa mãn một số điều kiện rất khắt khe về mặt tài chính, thậm
chí kể cả những điều kiện về vật chất, kỹ thuật để thực hiện hoạt động kinh
doanh chứng khoán. Việc quy định các điều kiện thành lập và hoạt động


kinh doanh chứng khoán chính là nhằm đảm bảo cho thị trường chứng khoán
hoạt động an toàn, hiệu quả và đặc biệt là bảo đảm cho quyền lợi chính đáng
của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Thứ hai, đối tượng của hoạt động kinh doanh chứng khoán chính là
các chứng khoán – giá trị động sản và các dịch vụ về chứng khoán. Đây là
những hàng hóa và dịch vụ đặc biệt được giao dịch trên thị trường đặc biệt –
thị trường chứng khoán và các giao dịch đó phải tuân thủ quy chế pháp lý
đặc biệt do pháp luật về chứng khoán quy định.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh chứng khoán phải tuân thủ một số
nguyên tắc đặc thù của thị trường chứng khoán, chẳng hạn như nguyên tắc
công bằng, công khai, minh bạch và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các nhà
đầu tư.
II. Một số rủi ro chủ yếu trong kinh doanh chứng khoán.
1.rủi ro từ tính thanh khoản thấp của chứng khoán đầu tư:
Tính thanh khoản thấp của chứng khoán mà nhà đầu tư đang sở hữu có thể
do chứng khoán đó khó và thậm chí không thể bán được hoặc không được
phép bán hay chuyển nhượng nhằm thu hồi vốn đầu tư. Đối với chứng
khoán, tính thanh khoản của nó thấp do một số nguyên nhân sau:


- Tình trạng tài chính và triển vọng thị trường của công ty, tổ chức phát hành
chứng khoán không tốt. Thật không may cho nhà đầu tư chứng khoán, khi vì
một lý do nào đó, chứng khoán mà họ đã mua là của một công ty, tổ chức có
tình trạng tài chính thiếu lành mạnh và triển vọng cung cấp các yếu tố đầu
vào, cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm đầu ra của công ty, tổ chức đó
không đảm bảo hiệu quả vững chắc. Rủi ro đối với nhà đầu tư sẽ là tối đa
khi công ty, tổ chức phát hành chứng khoán bị phá sản hoặc đơn giản là lặng
lẽ “biến mất” trên thương trường sau những “pha” “tự đánh bóng” khá
chuyên nghiệp, giật gân nhằm thu hút, dẫn dụ những nhà đầu tư.
- Lựa chọn không đúng cơ cấu chứng khoán đầu tư. Nhà đầu tư chứng khoán

có thể chịu rủi ro từ việc “bỏ hết trứng vào một giỏ”. Việc sở hữu thuần túy
các cổ phiếu ưu đãi mà không được chuyển nhượng trong thời hạn nhất định
(thường từ 3-5 năm) cũng có thể khiến nhà đầu tư gặp rủi ro liên quan đến
tính thanh khoản thấp của các chứng khoán này, nhất là khi họ cần tiền để
trả lãi vay ngân hàng hoặc muốn rút vốn về để đầu tư vào nơi khác có lãi
hơn, an toàn hơn…
- Sự cạnh tranh khốc liệt và biến động khôn lường của thị trường. Ngay cả
những chứng khoán tốt nhất có sức hấp dẫn nhất, “hot” nhất thuộc dạng
“blue-chip” cũng có thể không giữ vững được vị thế của mình một cách ổn
định, lâu dài trước sự cạnh tranh và biến động tới chóng mặt của thị trường
trong xu thế toàn cầu hóa. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư
chứng khoán có thể phải hứng chịu cả hai dạng thiệt hại “khấu hao hữu
hình” và “khấu hao vô hình” giá trị và tính thanh khoản của các chứng
khoán mà họ nắm giữ.


2.Rủi ro từ các quy định và chất lượng của dịch vụ sàn giao dịch, trung
tâm giao dịch và công ty chứng khoán
Hoạt động kinh doanh chứng khoán là hoạt động kinh doanh đặc thù, một
nhà đầu tư muốn kinh doanh chứng khoán phải thông qua bên trung gian là
công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty môi
giới chứng khoán…. Việc mua và bán chứng khoán của các nhà đầu tư sẽ do
các tổ chức trung gian này thực hiện nên các nhà đầu tư chứng khoán có thể
phải chịu những rủi ro liên quan đến các quy định, quy trình nghiệp vụ và
chất lượng dịch vụ của các tổ chức trung gian này, điển hình là các rủi ro
liên quan đến việc tổ chức khớp lệnh và phân lô giao dịch cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán có tổ chức.
- Hình thức khớp lệnh định kỳ gây rủi ro cho nhà đầu tư vì họ không thể hủy
ngang lệnh đã đặt mua hàng bán trước khi kết thúc phiên khớp lệnh, bất
chấp những biến động mới bất lợi trên thị trường cho họ, nếu họ không

muốn chịu phạt về sự thay đổi quyết định này. Khớp lệnh định kỳ cũng có
thể gây rủi ro cho nhà đầu tư vì dễ gây tình trạng cung – cầu ảo trên thị
trường và cả tình trạng nghẽn mạch, quá tải hoặc phân biệt đối xử theo kiểu
bỏ rơi nhà đầu tư nhỏ ở các sàn, trung tâm và công ty chứng khoán. Tuy vậy,
việc khớp lệnh định kỳ có thể tạo cơ hội để nhà đầu tư giảm bớt thiệt hại khi
hủy lệnh đã đặt sau khi khớp lệnh đối với các chứng khoán còn dư chưa xử
lý hết trong phiên giao dịch gần nhất mà họ tham dự.
- Khớp lệnh liên tục là giao dịch trên cơ sở khớp liên tục các lệnh mua – bán
chứng khoán ngay khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch, không phải
chờ đến thời điểm định kỳ như kiểu khớp lệnh định kỳ. Trong nguyên tắc xử
lý khớp lệnh liên tục này thì quyền ưu tiên luôn dành cho các lệnh mua có


mức giá cao hơn và các lệnh bán có mức giá thấp hơn. Trường hợp các lệnh
mua và bán có đồng mức giá thì quyền ưu tiên sẽ dành cho lệnh nhập vào hệ
thống giao dịch trước. Việc tổ chức khớp lệnh liên tục cho phép các nhà đầu
tư đặt lệnh thận trọng, chính xác hơn, được giải quyết nhu cầu mua – bán
nhiều hơn, nhanh chóng, bình đẳng hơn và giảm thiểu tình trạng cung – cầu
ảo trên thị trường chứng khoán.
Bên cạnh những ưu điểm trên, việc khớp lệnh liên tục có thể gây rủi ro cho
nhà đầu tư theo 2 cách: hoặc rủi ro vì lệnh mua – bán của họ bị nhập vào hệ
thống chậm hơn so với các nhà đầu tư khác có lệnh tương tự nên không thực
hiện được sớm hoặc hết các lệnh đã đặt (thực tế ở Thành phố Hồ Chí Minh
khi khớp lệnh định kỳ thường chỉ khớp được khoảng 60% số lệnh đã được
nhập vào hệ thống); hoặc rủi ro vì họ buộc phải mua – bán bằng hết các
chứng khoán đã đặt lệnh theo mức giá thị trường thời điểm hiện hành cao
(khi mua vào) hoặc thấp hơn (khi bán ra) so với mức lệnh đã đặt.
Đối với các nhà đầu tư nhỏ lẻ trên thị trường chứng khoán còn có thể phải
đối diện với các rủi ro gắn với sự điều chỉnh quy định về số lượng giao dịch
cổ phiếu thực hiện, cụ thể từ mức 10 cổ phiếu trước đây, đã nâng lên tối

thiểu 100 cổ phiếu mỗi lô giao dịch trong quá trình khớp lệnh liên tục ở
Thành phố Hồ Chí Minh. Các rủi ro đối với nhà đầu tư nhỏ lẻ sẽ có thể gồm:
- Không thể xé nhỏ các khoản đầu tư như trước, vì đã “bỏ hết trứng vào một
giỏ”.
- Không có cơ hội mua các hàng – chứng khoán tốt vì chúng chỉ được giao
dịch theo lô lớn.


- Chịu thiệt hại do phải là người “bán lẻ”, “mua lẻ” với giá thấp hơn (tới
10%) so với các nhà đầu tư có số lượng cổ phiếu đủ lô quy định, trong khi
đó họ cũng không có cơ hội mua lẻ thêm cổ phiếu (giả sử đã có 90) để làm
tròn 100 cổ phiếu cho đủ lô theo quy định.
- Chịu nhiều cảnh phân biệt đối xử khác khi thụ hưởng các dịch vụ chứng
khoán nếu vẫn muốn là người trực tiếp đầu tư, không muốn thông qua các
quỹ đầu tư đại chúng, quỹ tín thác và các công ty chứng khoán.
3.Rủi ro từ các chấn động thị trường trong nước và nước ngoài :
Các nhà đầu tư chứng khoán (nhất là các nhà đầu tư nhỏ, lẻ) có thể phải
gánh chịu nhiều rủi ro liên quan đến các chấn động thị trường trong nước
hoặc nước ngoài, bởi:
- Các trào lưu mua, bán chứng khoán theo tâm lý đám đông, đầy cảm tính và
xúc cảm, làm phá vỡ các quy luật vận động bình thường của thị trường.
- Các hoạt động đầu cơ, tung tin đồn thất thiệt, gây nhiễu thông tin và tự
“đánh bóng”, thổi giá hoặc thậm chí lừa đảo và thông đồng có tổ chức của
một số nhà đầu tư chuyên nghiệp có tiềm lực tài chính và sức mạnh khác đủ
tạo nên động thái thăng, trầm của thị trường để trục lợi.
- Các chấn động thị trường khác từ nước ngoài (cuộc khủng hoảng tài chính
– tiền lệ những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX ở châu Á là một thí dụ
điển hình).
Ngoài ra, các nhà đầu tư còn chịu các rủi ro liên quan đến động thái chính
sách của Chính phủ, chẳng hạn như: chính sách 2 giá trong phát hành cổ

phiếu (giảm giá từ 20-40% cho các nhà đầu tư chiến lược hoặc cán bộ, công


nhân viên của công ty cổ phần hóa lần đầu); những thay đổi trong chính sách
tỷ giá, lạm phát, tỷ lệ nắm giữ cổ phần trong công ty cổ phần của các nhà
đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư nước ngoài; chính sách xuất – nhập khẩu,
độc quyền hoặc các quan hệ quốc tế song phương – đa phương v.v..
Cuối cùng, rủi ro lớn nhất và cũng là nguồn cội của mọi rủi ro trong đầu tư
chứng khoán là sai lầm do thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích
và phản ứng thị trường một cách nhạy bén, chính xác của bản thân nhà đầu
tư…
4.Rủi ro thong tin trong đầu tư chứng khoán
Các nhà đầu tư chứng khoán luôn háo hức trước mọi tin đồn và hăng hái
góp phần vào tin đồn; luôn cảnh giác đề phòng nhưng cũng dễ nhẹ dạ, cả tin;
tinh khôn và nhạy cảm; quen biết nhiều, nhưng không kết thân với ai trong
làng chứng khoán . Trong số họ, ai là người nắm được nhiều, nhanh, chính
xác thông tin, người đó sẽ dễ dàng chiến thắng và chiếm thế thượng phong,
giảm thiểu những rủi ro “chết người” do mù mờ thông tin. Khả năng lắng
nghe, phân tích đọc “vị” các “chiêu thức” và cả nghệ thuật “tung tin đồn”,
gây nhiễu trên thị trường chứng khoán của cả các “đại gia” hoặc “đại bợm”
kinh doanh chứng khoán, hay của bản thân các công ty, tổ chức phát hành
chứng khoán, là biện pháp đặc hiệu để nhà đầu tư tự bảo vệ mình, tránh
những cạm bẫy và rủi ro gắn với các loại thông tin “mờ ảo” trên thị trường
đặc thù này.
5.Rủi ro từ hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán.
So với các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán khác như bảo lãnh phát
hành chứng khoán hay môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán…


thì nghiệp vụ tự doanh chứng khoán được đánh giá là có mức độ rủi ro cao

hơn cho chủ thể thực hiện nghiệp vụ này bởi lẽ trong nghiệp vụ tự doanh
chứng khoán, người kinh doanh phải sử dụng chính nguồn vốn, tài sản của
mình để thực hiện các hành vi mua và bán chứng khoán trên thị trường nhằm
đem lại lợi nhuận cho mình.
Theo quy định của Luật chứng khoán 2005 thì chỉ có công ty chứng khoán
mới được thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán, vốn pháp định cho
nghiệp vụ tự doanh của công ty chứng khoán là 100 tỷ đồng. Do có tính đặc
thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên công ty
chứng khoán có những lợi thế nhất định khi tiến hành hoạt động tự doanh
như có thể dự đoán diễn biến của thị trường, nắm được xu thế giao dịch; có
nhân viên đại diện sàn nên họ biết thông tin đầy đủ về quan hệ cung cầu đối
với từng chứng khoán và không phải nghĩ đến phí giao dịch khi thực hiện
nghiệp vụ tự doanh.Mặt khác, hoạt động tự doanh của mỗi công ty chứng
khoán với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn được coi là hoạt động
giao dịch của một nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp có những tác động nhất
định tới giá cả thị trường. Do đó, công ty chứng khoán có thể thông qua hoạt
động tự doanh góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả
của các loại chứng khoán trên thị trường. Do có tầm ảnh hưởng lớn đến thị
trường nên khi thị trường có chiều hướng đi xuống, các công ty chứng khoán
hoạt động tự doanh sẽ thua lỗ nặng và trở nên lao đao. Đầu năm 2009, hàng
loạt công ty chứng khoán đã nộp đơn lên Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
xin rút bớt nghiệp vụ tự doanh do cổ phiếu xuống giá, khiến nhiều công ty
chứng khoán lỗ nặng ở mảng tự doanh. theo bài báo “Công ty chứng khoán
đua nhau đóng cửa nghiệp vụ tự doanh” – www.doanhnhan360.com).


III.Một số giải pháp góp phần hạn chế rủi ro trong kinh doanh chứng
khoán
1.Đảm bảo sự minh bạch và lành mạnh của thị trường chứng khoán bằng
pháp luật

Để phòng tránh và giảm thiểu những vi phạm trên, cần tuân thủ các quy định
của Nhà nước về hoạt động của TTCK, nhất là những điều cấm trong Luật
Kinh doanh chứng khoán. Đặc biệt, cần coi trọng những giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy, môi trường pháp
lý và cả những định chế cần thiết cho hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Đặc biệt, cần có những quy định rõ ràng, thống nhất, phù hợp thông lệ quốc
tế về chế độ kế toán, kiểm toán và thông tin phục vụ hoạt động của TTCK
đối với các công ty có niêm yết cổ phiếu trên TTCK. Phát triển rộng rãi cơ
chế và mạng lưới thông tin chuyên đề, chuyên ngành, và thông tin đại chúng
về chứng khoán và TTCK. Việt Nam cần bám sát các chuẩn mực kế toán
quốc tế do Tổ chức quốc tế các uỷ ban chứng khoán (IOSCO) đã thông qua
để “chuẩn hoá và quốc tế hoá” các quy định kế toán cần thiết, tạo thuận lợi
cho sự hội nhập của TTCK Việt Nam vào môi trường chung của kinh doanh
chứng khoán quốc tế, tạo điều kiện cho việc phát hành chứng khoán của các
doanh nghiệp Việt Nam tại các TTCK nước ngoài.
Thứ hai, cần coi trọng công tác thẩm định chất lượng thông tin từ cơ sở.
Hạn chế ở việc công bố thông tin không chuẩn xác gây thua thiệt rất nhiều
cho nhà đầu tư. "Có những bản cáo bạch theo đánh giá là không có giá trị
gì, trái lại nó dẫn nhà đầu tư đi rất xa với bản chất những vấn đề họ cần nắm
được. Vì vậy, Bộ Tài chính cần có một cơ chế kết hợp chặt chẽ với ngân
hàng Nhà nước trong việc trao đổi thông tin, nắm bắt luồng tiền thông qua


quản lý ngoại hối, giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng liên quan đến
thị trường chứng khoán như cầm cố, repo, hoán đổi. các tổ chức tài chính sẽ
phải báo cáo và công bố thông tin thường xuyên với hoạt động này.
Bên cạnh các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm phi chính phủ, Nhà nước cần
có những quy định và đơn vị của mình có chức năng chuyên về công tác
thông tin, đảm bảo cung cấp đầy đủ, rộng rãi, cập nhật, chính xác và minh
bạch các thông tin cần thiết phục vụ hoạt động TTCK. Cần phân công trách

nhiệm rõ ràng nhằm tránh những chồng chéo về hoạt động của các tổ chức
tự quản và cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực thông tin chứng khoán.
Thứ ba, tăng cường giáo dục nhận thức và năng lực xử lý thông tin thị
trường và khả năng tự bảo vệ mình cho các nhà đầu tư chứng khoán, giúp họ
hiểu đúng đắn chất lượng hàng hoá (tức chứng khoán) có trong tay họ, cũng
như về đặc điểm của kinh doanh trên TTCK, từ đó tự định hướng, điều chỉnh
và giảm thiểu thiệt hại, rủi ro trong kinh doanh chứng khoán từ những dại
dột của chính mình. Đồng thời, tổ chức đào tạo dưới các hình thức thích hợp
nhằm không ngừng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ về TTCK cho đội ngũ
cán bộ quản lý và phục vụ kinh doanh chứng khoán.
Thứ tư, có cơ chế chế tài nghiêm khắc, kịp thời, hiệu quả đối với các sai
phạm trong việc bảo đảm chất lượng thông tin và cung cấp các dịch vụ phục
vụ kinh doanh chứng khoán. Cần tăng cường hoạt động kiểm tra giám sát
của các ban thanh tra liên ngành (Ủy ban chứng khoán, công an, cơ quan
thuế...) đối với việc phát hành cổ phiếu “chui”, huy động vốn một cách tùy
tiện, sử dụng vốn thiếu trách nhiệm, kém hiệu quả, thậm chí “ôm” vốn đi
đầu tư bất hợp pháp gây thua lỗ cho doanh nghiệp. Tăng cường kiểm tra,
giám sát thi hành pháp luật về chứng khoán - kinh doanh chứng khoán, áp


dụng linh hoạt các biện pháp cấp, đình chỉ và thu hồi các loại giấy phép
trong lĩnh vực chứng khoán và kinh doanh chứng khoán đối với các đơn vị
và cá nhân vi phạm các quy định về phổ biến và bảo đảm chất lượng, an toàn
thông tin chứng khoán. Đặc biệt, cầntăng cường mức xử phạt (tịch thu toàn
bộ khoản lợi bất chính, và phạt thêm gấp nhiều lần khoản lợi đó, cấm hành
nghề vĩnh viễn, thậm chí đưa một số hành vi vi phạm nguy hiểm vào Bộ
Luật hình sự để xử lý như những loại tội phạm mới) và thông tin rộng rãi về
các đối tượng và hành vi vi phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng,
nhằm giữ nghiêm kỷ cương trên TTCK.
Thứ năm, không ngừng rút kinh nghiệm các hoạt động nghiệp vụ mà trên

thực tế còn hết sức mới mẻ đối với cả người mua, người bán, và người trung
gian, cũng như các cơ quan quản lý chứng khoán. Kết hợp học tập kinh
nghiệm nước ngoài để ngày càng hoàn thiện môi trường kinh doanh chứng
khoán Việt Nam, tìm ra, sử dụng hiệu quả các “thanh hãm” an toàn cho sự
vận hành của TTCK Việt Nam.
Ngoài ra, cần nâng cao các tiêu chuẩn thành lập và kiểm tra chất lượng hoạt
động của các công ty chứng khóan, đề cao các yêu cầu về hạ tầng kỹ thuật,
chất lượng dịch vụ và đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động kinh doanh, thực
hiện triệt để việc tách tài khoản tiền chứng khoán của các nhà đầu tư sang
ngân hàng, hạn chế sự lợi dụng tài khoản của nhà đầu tư của một số nhân
viên công ty chứng khoán để trục lợi…
2.Nâng cao hiệu quả của pháp luật công ty và vai trò của quản trị công ty
hoạt động kinh doanh chứng khoán,


Quản trị công ty là một hoạt động phổ biến trên thế giới trong việc
điều hành bộ máy công ty của các doanh nghiệp. Nhưng với các doanh
nghiệp việt nam nó vẫn còn là hoạt đông hoạc định chính sách và cả người
nghiên cứu pháp lý. Đã có nhiều cái giá phải trả cho các doanh nghiệp khi
hoạt động quản trị công ty quá yếu kém , dẫn đến công ty đầu tư kinh doanh
có nhiều thất thoát và thua lỗ. . Để bảo đảm hiệu quả pháp luật về quản trị
công ty trong trong mối liên hệ với việc hoàn thiện pháp luật về công bố
thông tin trên TTCK cần tập trung vào một số giải pháp sau đây:
- Cần coi việc tuân thủ các quy định về quản trị công ty là một trong
những yêu cầu bắt buộc trước khi thực hiện việc niêm yết trên TTCK;
- Các công ty niêm yết tại Trung tâm/Sở Giao dịch chứng khoán phải
thường xuyên báo cáo việc tuân thủ các quy định về quản trị công ty và báo
cáo cho Trung tâm/Sở Giao dịch chứng khoán những thay đổi về nhân sự
của công ty một cách kịp thời;
- Khi thiết kế Điều lệ công ty, quy chế hoạt động của Hội đồng quản

trị, người quản lý công ty và Ban kiểm soát công ty phải xác định rõ nội
dung, thẩm quyền và cơ chế phối hợp trong việc thực hiện các nhiệm vụ về
quản trị công ty; nội dung và phương pháp phối hợp giữa các bộ phận trong
công ty khi giải quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền của mình.
- Các công ty tự mình hoặc dưới sự trợ giúp, tư vấn của các chuyên
gia khẩn trương rà soát hệ thống quản trị công ty của mình nhằm phát hiện
những thiếu sót, lỗ hổng, những điểm chưa hợp lý từ đó đề ra biện pháp
khắc phục.


Song song với việc nâng cao hiệu quả của quản trị công ty thì vấn đề
nâng cao hiệu quả của người điều hành trong ban quản trị cũng là một vấn
đề đáng quan tâm . Vì:
- Là người trực tiếp điều hành hoạt động của công ty nên người quản trị
công có rất nhiều thông tin và những thông tin đó cần phải được công
bố, báo cáo cho cổ đông biết để họ thực hiện quyền của mình.
- Ở nước ta hiện nay, thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát
thường nắm giữ rất ít cổ phần trong công ty, thêm vào đó họ lại
thường xuyên chuyển nhượng cổ phần của mình khi thị trường tăng
nóng hay sụt giảm làm ảnh hưỏng đến niềm tin của nhà đầu tư. Như
vậy, để người quản trị công ty gắn bó với sự sống còn của công ty thì
phải có các tiêu chuẩn vật chất đối với những người này. Tức là họ
phải nắm giữ một số cổ phần nhất định đối với công ty, và mức cổ
phần nắm giữ không được quá thấp.

3.Nâng cao vai trò của Hiệp hội kinh doanh chứng khoán trong việc bảo
đảm tính minh bạch trên thị trường.
Ngày 14/5/2004, tại Hà Nội, Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán Việt Nam đã chính thức
đi vào hoạt động. Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động sẽ tạo
thêm sức mạnh cho hoạt động kinh doanh chứng khoán, tăng niềm tin cho công chúng

đầu tư trong bối cảnh thị trường đang khó khăn hiện nay. Thời gian trước mắt Hiệp

hội sẽ tập trung tham gia ý kiến để nâng cao hiệu quả của thị trường chứng
khoán với tư cách là một kênh huy động vốn; phát hành chứng khoán ra
công chúng; tham gia vào việc xây dựng các chính sách nhằm bảo vệ tốt hơn


các nhà đầu tư đơn lẻ, nhằm tạo bước đột phá trong thời gian tới cho thị
trường chứng khoán cả về quy mô và lượng hàng hóa..

Với vai trò là cầu nối giữa các nhà kinh doanh chứng khoán với
các cơ quan quản lý nhà nước và công chúng đầu tư, Hiệp hội sẽ
tham gia tích cực và đóng góp ý kiến vào việc ban hành các cơ
chế, chính sách của các cơ quản lý nhà nước nhằm góp phần thúc
Đẩy thị trường chứng khoán việt nam phát triển.
4.. Nâng cao hiệu quả hoạt động của báo giới, làm rõ vai trò của báo giới
trong hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán.
Thông qua kênh báo chí giúp cho tổ chức phát hành tiếp cận được với
công chúng đầu tư và công chúng đầu tư tiếp cận được với tổ chức phát
hành. Điều mà chúng ta quan tâm hiện nay, đó là bản thân doanh nghiệp
không muốn tiếp cận với báo chí, bởi khi khai thác thông tin báo giới thường
quá nhấn mạnh tới những thông tin nhỏ hay cường điệu hoá thông tin gây
nên những hiểu nhầm cho nhà đầu tư. Vai trò của báo giới đối với hoạt động
công bố thông tin trên TTCK thể hiện ở những điểm sau:
- Báo giới phải góp phần định hướng cho công chúng đầu tư, đưa các
thông tin chính xác, khách quan và tránh những bình luận gây hại cho doanh
nghiệp;
- Báo giới phải trở thành công cụ để cho doanh nghiệp quảng bá và
khuếch trương thương hiệu của mình trên thị trường;



- Khi phản ánh các thông tin về doanh nghiệp phải bảo đảm tính
khách quan, công bằng, không cường điệu hoá thông tin, không đưa những
thông tin “gây nhiễu” làm khó khăn cho nhà đầu tư.
5. Củng cố lòng tin của nhà đầu tư cũng như tăng cường sự quản lý Nhà
nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
TTCK rất nhạy cảm với thông tin. Thông tin càng minh bạch, càng rõ ràng
thì niềm tin của công chúng đầu tư vào TTCK càng lớn. Niềm tin của công
chúng đầu tư là động lực thúc đẩy thị trường ngày càng phát triển, vượt qua
những giai đoạn khó khăn thử thách.Vì vậy việc minh bạch hóa thông tin là
việc vô cùng cần thiết. Điều đó có nghĩa là : không thể có trường hợp cùng
một thông tin mà một cơ quan nhà nước cấp Bộ đưa ra một dạng, một đơn vị
quản lý nhà nước khác lại cung cấp dạng khác. Minh bạch là thông tin phải
có tính dự báo. Minh bạch còn là sự cởi mở của chính cơ quan cung cấp
thông tin. Mọi văn bản pháp luật, mọi chính sách của Nhà nước cũng như
các thông tin có tính minh bạch của doanh nghiệp sẽ không đi đến đâu nếu
những người nắm thông tin, những người cung cấp thông tin không cởi mở,
khi đó mọi thông tin đều nằm một chỗ và không thể phát huy tính minh
bạch. Như vậy, minh bạch trong hệ thống pháp luật cũng như cơ chế chính
sách là yếu tố rất quan trọng vì nó có ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của
người dân đối với nhà nước và trong thị trường, đó chính là niềm tin của nhà
đầu tư. Lòng tin trong đầu tư chứng khoán được coi là quan trọng nhất, vì nó
có tác động đến việc nhà đầu tư đưa ra quyết định đầu tư hay không.
Công tác quản lý nhà nước về TTCK cũng cần phải dựa trên hệ thống thông
tin đầy đủ, chính xác, khách quan và kịp thời. Các giao dịch bất hợp pháp
trong lĩnh vực chứng khoán phải được phát hiện và xử lý kịp thời .


Đối với cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán (Uỷ ban Chứng khoán
nhà nước) trong việc duy trì, củng cố lòng tin của nhà đầu tư vào TTCK phải

kết hợp đồng bộ nhiều các biện pháp khác nhau như: điều chỉnh biên độ
giao dịch, tăng cường các biện pháp hỗ trợ cho thị trường, xử lý vi phạm
pháp luật về chứng khoán và TTCK… Tất cả những nỗ lực đó đã góp phần
không nhỏ vào việc củng cố lòng tin của nhà đầu tư vào thị trường. Việc
củng cố lòng tin của nhà đầu tư vào thị trường là công việc khó khăn và phải
được tiến hành thường xuyên, bởi nếu không chú tâm vào việc giám sát thị
trường thì ngay lập tức có thể ảnh hưởng đến niềm tin của công chúng vào
thị trường.
6. Giải pháp thu hẹp thị trường tự do nhằm giảm thiểu rủi ro trên thị
trường
Theo Luật Chứng khoán, những hoạt động như rao mua, rao bán chứng
khoán trên các trang web rao vặt, hay các giao dịch tại "chợ đen" sẽ không
được chấp nhận. Công ty cổ phần phải thực hiện chế độ báo cáo thông tin,
thực hiện lưu ký thanh toán chứng khoán tập trung thay vì mạnh ai nấy làm
như hiện nay.
KẾT LUẬN.
Rủi ro đối với việc kinh doanh chứng khoán chủ yếu là do sự thiếu
hiểu biết, thiếu kỹ năng tổng hợp, phân tích và phản ứng thị trường một cách
nhạy bén, chính xác của bản thân nhà đầu tư…Muốn cho hoạt động kinh
doanh được thuận lợi, không còn cách nào khác, các nhà đầu tư phải không
ngừng học hỏi, tích lũy kinh nghiệm


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Luật chứng khoán 2006.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật chứng khoán, Nxb CAND,
Hà Nội, 2008. (Chương VIII, Pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh
chứng khoán).
3. TS. Nguyễn Minh Phong, “Nhận diện những rủi ro trong đầu tư chứng

khoán”, Tạp chí cộng sản số 10 năm 2007.
4. Báo cáo của Bộ Tài chính về tình hình thi hành luật chứng khoán và hoạt
động thị trường chứng khoán.
5. “Nhận diện rủi ro thông tin trong đầu tư chứng khoán”, Tạp chí ngân hàng
số 21/2008.
6. “Nghiệp vụ tự doanh của công ty chứng khoán”, Bộ phận Tư vấn và Phân
tích, CTCK Hà Nội – HSSC
7. “Công ty chứng khoán đua nhau đóng cửa nghiệp vụ tự doanh” –
www.doanhnhan360.com.
8. “Tăng xử phạt vi phạm hành chính để thị trường chứng khoán hoạt động
lành mạnh, minh bạch hơn” – www.tapchicongsan.org


MỤC

.

-

LỤC



×