Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Hình phạt chẳng qua là thủ đoạn tự vệ của xã hội với những hành vi xâm phạm những điều kiện tồn tại của xã hội đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.86 KB, 68 trang )

Khoá luận tốt nghiệp

1

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực có tính nguy hiểm cao cho xã
hội, mang tính lịch sử và bản chất giai cấp sâu sắc. Đấu tranh phòng chống tội
phạm, ổn định trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là
nhiệm vụ của bất kỳ nhà nước nào trong bất kỳ xã hội nào. Một trong những
công cụ hữu hiệu để nhà nước thực hiện nhiệm vụ đó là hình phạt. C. Mac đã
từng viết: “Hình phạt chẳng qua là thủ đoạn tự vệ của xã hội với những hành vi
xâm phạm những điều kiện tồn tại của xã hội đó”[4, 531]. Tuy nhiên, hiệu quả
của hình phạt phụ thuộc rất nhiều vào việc quy định và áp dụng các quy định đó
như thế nào trong thực tế.
Tội phạm xảy ra trong xã hội rất khác nhau về tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi, do đó đòi hỏi nhà làm luật phải quy định nhiều loại
hình phạt khác nhau để xử lí cho phù hợp, vừa đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật vừa thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước. Do vậy, BLHS Việt
Nam quy định nhiều loại hình phạt khác nhau phù hợp với từng loại tội phạm và
hành vi phạm tội. Trong đó hình phạt tiền có vị trí và vai trò quan trọng.
Hình phạt tiền được quy định từ khá sớm trong pháp luật hình sự Việt
Nam và đang dần được hoàn thiện trong các quy định của BLHS hiện hành
nhằm đảm bảo sự phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế đất nước
trong thời kì đổi mới. Hình phạt tiền được áp dụng rất phổ biến, đạt hiệu quả
cao. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2009 đã có những sửa
đổi bổ sung nhất định đối với các quy định về hình phạt tiền. Tuy nhiên, thực tế
áp dụng hình phạt này còn cho thấy nhiều bất cập, hiệu quả áp dụng hình phạt
tiền còn thấp, chưa tương xứng với vị trí và vai trò của hình phạt tiền trong hệ


thống hình phạt.
Trong khi đó, với sự phát triển của nền kinh tế thị trường hiện nay su
hướng áp dụng hình phạt tiền ngày càng cao đặc biệt là ở các nước phát triển


Khoá luận tốt nghiệp

2

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

như: Pháp, Đức, Nhật Bản… Tất cả những điều đó đòi hỏi chúng ta phải có
những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt tiền để hình phạt tiền
thực sự phát huy vai trò của nó trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm
mà vẫn đảm bảo được ý nghĩa và mục đích của hình phạt. Chính vì vậy, em chọn
đề tài “Hình phạt tiền trong Bộ luật Hình sự Việt Nam – những vấn đề lí luận
và thực tiễn” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Mục đích của đề tài: trên cơ sở những nhận thức toàn diện, có hệ thống về
hình phạt tiền trong BLHS Việt Nam và đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt
tiền để đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả của hình phạt này trong thực
tiễn áp dụng.
3. Phạm vi nghiên cứu: trong phạm vi cho phép của một khóa luận tốt nghiệp,
em chủ yếu tập trung vào khái niệm, mục đích, ý nghĩa , nội dung, điều kiện áp
dụng của hình phạt tiền trong BLHS Việt Nam, tìm hiểu lịch sử lập pháp về hình
phạt tiền. Khóa luận cũng nghiên cứu cả những quy định về hình phạt tiền đối
với người chưa thành niên phạm tội. Việc khảo sát thực tiễn áp dụng hình phạt
tiền trên cả nước và hai địa bàn quan trọng là Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí
Minh
4. Phương pháp nghiên cứu : Khóa luận tốt nghiệp dựa trên cơ sở phương
pháp luận khoa học của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

được sử dụng bao gồm phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê…
5. Cơ cấu của khóa luận: ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu, gồm có
ba chương
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về hình phạt tiền theo pháp luật hình sự
Việt Nam.
Chương 2: Hình phạt tiền theo quy định của BLHS năm 1999
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng của hình phạt tiền
Thông qua việc nghiên cứu những quy định về hình phạt tiền trong BLHS
hiện hành, đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt này trên cả nước, em mong


Khoá luận tốt nghiệp

3

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

muốn góp phần vào việc tạo ra nhận thức đúng đắn hơn về vai trò, mục đích, ý
nghĩa… của hình phạt tiền, đồng thời đưa ra một số giải pháp có tính chất tham
khảo để nâng cao hiệu quả áp dụng của hình phạt này.
Đây là lần đầu tiên em thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học độc
lập, mặt khác do trình độ kiến thức còn hạn chế nên không tránh khỏi những
thiếu sót nhất định, em rất mong quý thầy cô, các bạn sinh viên đóng góp, cho ý
kiến để kiến thức của em được hoàn thiện hơn.


Khoá luận tốt nghiệp

4


Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TIỀN THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm hình phạt tiền
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được
luật hình sự quy định và do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội nhằm cải
tạo, giáo dục họ cũng như nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu
tranh phòng chống tội phạm.
BLHS đã quy định một hệ thống hình phạt được áp dụng đối với người
phạm tội căn cứ vào tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, trong đó có hình
phạt tiền.
Mặc dù được ghi nhận khá sớm trong pháp luật hình sự, song vẫn chưa có
một khái niệm pháp lí chính thức nào về hình phạt tiền trong các Văn bản pháp
luật hình sự và cho đến nay hình phạt tiền mới chỉ được ghi nhận trong các giáo
trình, sách báo pháp lý chuyên ngành. Có thể kể đến một số quan điểm sau:
“Phạt tiền là một loại hình phạt được áp dụng là hình phạt chính hoặc
hình phạt bổ sung, khi hình phạt chính là loại hình phạt khác. Phạt tiền do Tòa
án quyết định trong những trườnghợp do luật định mà theo đó người bị kết án bị
tước một số tiền tùy theo mức độ nghiêm trọng của tội phạm, đồng thời xem xét
đến tình hình tài sản của người bị kết án và sự biến động của giá cả” [45, 11].
“Phạt tiền là hình phạt tước của người phạm tội một khoản tiền nhất định
sung công quỹ nhà nước”.[10 ,195]
“Phạt tiền là hình phạt không tước tự do, nhẹ hơn hình phạt cải tạo
không giam giữ, buộc người bị kết án phải nộp sung công quỹ nhà nước một
khoản tiền nhất định”. [12, 51]
Các khái niệm trên mặc dù đã cố gắng chỉ ra các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng của hình phạt tiền nhưng dài dòng, chưa phù hợp với một khái niệm mang

tính chất pháp lý. Khái niệm “ Phạt tiền là hình phạt tước của người phạm tội


Khoá luận tốt nghiệp

5

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

một khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước” sử dụng thuật ngữ pháp lý “
người phạm tội” để chỉ đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền là chưa hợp lý vì chỉ
những người bị Tòa án quyết định áp dụng hình phạt tiền mới bị tước một khoản
tiền nhất định sung công quỹ nhà nước. Do vậy, thể sử dụng thuật ngữ “người bị
kết án” thay cho thuật ngữ “người phạm tội” sẽ là chính xác hơn.
“Phạt tiền là hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự Việt Nam
tước đi của người bị kết án một khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước”
là khái niệm ngắn gọn phản ánh tương đối đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng cũng
như nội dung pháp lý của hình phạt tiền.
Là một hình phạt trong hệ thống hình phạt được quy định trong BLHS
hình phạt tiền cũng mang đầy đủ các đặc điểm đặc trưng của hình phạt với tư
cách là chế tài hình sự, đó là:
- Là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước.
- Chỉ có thể áp dụng với người phạm tội.
- Được quy định trong Bộ luật hình sự.
- Được áp dụng theo trình tự riêng biệt.
Ngoài ra hình phạt tiền còn mang một số điểm đặc trưng riêng so với các
hình phạt khác trong hệ thống hình phạt:
- Hình phạt tiền được luật hình sự quy định với nội dung pháp lí là tước
bỏ một phần quyền lợi vật chất của người phạm tội. Do vậy, hình phạt tiền là
hình phạt có khả năng tác động trực tiếp và mạnh mẽ về mặt kinh tế đối với

người phạm tội, nó đặc biệt có hiệu quả trong việc đấu tranh với các loại tội có
tính chất vụ lợi, các tội dùng tiền làm phương tiện hoạt động, các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, an toàn công cộng, trật tự quản lí hành
chính… mà chưa đến mức áp dụng các hình phạt nghiêm khắc hơn, hạn chế
hoặc tước tự do của người bị kết án.
- Khi bị áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính, ngoài khoản tiền nhất
định phải nộp, người bị kết án còn phải mang án tích như các hình phạt chính
khác nói chung.


Khoá luận tốt nghiệp

6

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

- Người bị kết án được giáo dục cải tạo, thi hành án trong một môi trường
hoàn toàn bình thường và không bị cách ly khỏi xã hội.
1.2. Mục đích, ý nghĩa của hình phạt tiền
1.2.1. Mục đích của hình phạt tiền
Là một loại hình phạt trong hệ thống hình phạt, khi áp dụng hình phạt tiền
Tòa án cũng nhằm hướng tới những mục đích như trừng trị người phạm tội,
đồng thời giáo dục, cải tạo họ và phòng ngừa tội phạm. Tước đi một khoản tiền
nhất định của người bị kết án, làm cho họ nhận ra được hành vi sai lầm của họ
và tính tất yếu của hình phạt đối với tội phạm mà họ đã thực hiện để giáo dục và
tự giáo dục trở thành người có ích trong xã hội và đạt được mục đích phòng
ngừa chung của hình phạt.
Hình phạt tiền mặc dù là một loại hình phạt tác động trực tiếp về kinh tế
đối với người phạm tội song loại hình phạt này không chỉ mang bản chất kinh tế
thuần túy vì ngoài việc bị tước đi một khoản tiền nhất định người phạm tội còn

bị mang án tích trong một thời gian nhất định và đây chính là đặc điểm cơ bản
phân biệt hình phạt tiền với các biện pháp cưỡng chế khác như tịch thu tài sản,
tịch thu vật tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm, hay phạt tiền với tư cách là
một hình thức xử lý vi phạm hành chính. Vì vậy, khi quy định và áp dụng hình
phạt tiền trên thực tế luật hình sự không đặt ra mục đích kinh tế với hình phạt
tiền, không phải dùng hình phạt tiền để tăng thu cho ngân sách nhà nước mặc dù
khoản tiền người bị kết án phải nộp được sung công quỹ nhà nước sẽ tạo nguồn
thu cho ngân sách nhà nước nhưng “ nguồn thu này chỉ là hệ quả của việc áp
dụng hình phạt tiền, chứ không phải mục đích của hình phạt tiền” [46, 167].
1.2.2. Ý nghĩa của hình phạt tiền
Việc quy định hình phạt tiền trong luật hình sự nước ta đã góp phần đa
dạng hóa các biện pháp xử lý hình sự trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội
phạm. “đa dạng hóa hình phạt trong hệ thống hình phạt là điều kiện đảm bảo
tính thống nhất trong thực tiễn xét xử của các tòa án, đảm bảo cho việc xét xử
được bình đẳng, công bằng” [14, 2]. Quy định hình phạt tiền và cải tạo không


Khoá luận tốt nghiệp

7

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

giam giữ trong hệ thống hình phạt đã rút ngắn, thu hẹp khoảng cách về mức độ
nghiêm khắc giữa hình phạt cảnh cáo và hình phạt tù có thời hạn giúp tòa án có
cơ sở để thực hiện việc xét xử một cách công bằng.
Áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội sẽ tiết kiệm được những
chi phí xã hội cho việc giáo dục, cải tạo, hạn chế mặt tiêu cực có thể phát sinh
do áp dụng hình phạt tù mà vẫn đạt được mục đích cải tạo, giáo dục, phòng
ngừa. Người phạm tội không bị cách ly khỏi xã hội, được sống và làm việc trong

một môi trường hoàn toàn bình thường qua đó cũng thể hiện nguyên tắc nhân
đạo của pháp luật hình sự nhà nước ta.
Hình phạt tiền tạo ra khả năng cá thể hóa hình phạt đối với các trường hợp
phạm tội khác nhau về tính chất cũng như mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi, góp phần thực hiện chính sách nghiêm trị kết hợp với khoan hồng của
luật hình sự Việt Nam.
Ngoài ra, hình phạt tiền còn là loại hình phạt vừa được áp dụng là hình
phạt chính vừa được áp dụng là hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, hình phạt tiền
không thể được áp dụng đồng thời vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ
sung đối với một trường hợp phạm tội cụ thể với một loại tội cụ thể. Việc quy
định về tính chất “lưỡng tính” của hình phạt tiền chỉ tăng cường sự linh hoạt
trong việc áp dụng hình phạt tiền đối với các loại tội trong các trường hợp cụ thể
khác nhau. Với tư cách là hình phạt chính, xét theo thứ tự từ nặng đến nhẹ, hình
phạt tiền được xếp ở vị trí thứ hai, nặng hơn hình phạt cảnh cáo nhưng lại nhẹ
hình phạt cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn. Như vậy hình phạt tiền đóng
vai trò làm cầu nối giữa hình phạt cảnh cáo, biện pháp ít nghiêm khắc nhất trong
hệ thống hình phạt với cải tạo không giam giữ là biện pháp xử lý nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn tạo ra sự liên tục theo hướng tăng dần mức độ nghiêm khắc
của các hình phạt tạo ra tính thống nhất trong hệ thống hình phạt. Với tư cách là
hình phạt bổ sung, phạt tiền cung với các hình phạt bổ sung khác trong hệ thống
hình phạt (Điều 28 khoản 2 BLHS) đã làm phong phú các biện pháp hình sự
được áp dụng nhằm thực hiện chức năng xã hội của hình phạt.


Khoá luận tốt nghiệp

8

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C


1.3. khái quát lịch sử lập pháp về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự
Việt Nam
1.3.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt tiền giai đoạn
1945 – 1975
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời đã mở ra trang sử mới cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên,
nhiệm vụ quan trọng đặt ra lúc này là phải bảo vệ chính quyền nhà nước non trẻ
trước các thế lực phản động, chống phá cách mạng và tiếp tục cuộc kháng chiến
chống thực dân pháp đưa dân tộc ta đi đến thắng lợi cuối cùng. Nhiệm vụ đó đặt
ra yêu cầu nhà nước ta phải xây dựng được hệ thống pháp luật đặc biệt là pháp
luật hình sự đủ mạnh để trấn áp các lực lượng phản động và duy trì trật tự xã
hội.
Dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước ta đã ban hành
Hiến pháp năm 1946 ghi nhận chế độ xã hội, các nguyên tắc pháp lý của nền dân
chủ nhân dân…trên cơ sở đó hàng loạt các văn bản pháp luật trong lĩnh vực hình
sự đã được ban hành như: Sắc lệnh số 27 SL ngày 28/2/1946 quy định việc trừng
trị những hành vi bắt cóc, tống tiền và ám sát; Sắc lệnh số 223 SL ngày
17/11/1946 về trừng trị các tội hối lộ; Sắc lệnh số 61 SL ngày 5/7/1947 cấm xuất
cảng tư bản…ngoài ra, giai đoạn này nhà nước ta cũng ban hành nhiều văn bản
pháp luật quy định về hình phạt đối với các tội phá hoại tiền tệ, phá hoại giá trị
bạc Việt Nam như Sắc lệnh số 150 ngày 20/12/19950 hay Sắc lệnh số 001 SL
ngày 19/4/1957 cấm mọi hành vi đầu cơ kinh tế. Đặc biệt giai đoạn này Ủy ban
thường vụ quốc hội nước ta còn cho ban hành 4 pháp lệnh quan trọng: Pháp lệnh
ngày 30/7/1967 trừng trị các tội phản cách mạng, Pháp lệnh ngày 21/10/1970
trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN, Pháp lệnh ngày 21/10/1970 trừng trị
các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân, Pháp lệnh ngày 6/9/1972 quy định
về việc bảo vệ rừng. Đồng thời, Nhà nước ta còn cho phép áp dụng một số quy
định của pháp luật hình sự phong kiến như một số điều luật của bộ luật hình sự
Bắc Kỳ, bộ luật hình sự Trung Kỳ và bộ luật hình sự Nam Kỳ. Theo Sắc lệnh số



Khoá luận tốt nghiệp

9

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

47 SL ngày 10/10/1945 “giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Nam, Trung
bộ cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho toàn quốc”. Điều 12
của Sắc lệnh cũng quy định chỉ cho phép giữ lại “ những điều khoản mà nội
dung không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ
cộng hòa”. Tuy nhiên, ngày 10/7/1959 Tòa án nhân dân tối cao đã có chỉ thị số
T2-TATC về đình chỉ áp dụng pháp luật cũ của đế quốc và phong kiến.
Mặc dù đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật hình sự nhưng trong
giai đoạn này vẫn chưa có một văn bản nào quy định về hệ thống hình phạt. Căn
cứ vào các đạo luật, lệnh, pháp lệnh, nghị định… quy định việc trừng trị các tội
phạm có thể kết luận trong giai đoạn này hình phạt gồm các loại sau đây:
- Hình phạt chính: Tử hình, Tù chung thân, tù có thời hạn (6 ngày đến 20
năm), Cảnh cáo.
- Hình phạt phụ: Tước một số quyền lợi của công dân, tịch thu tài sản, cư
trú bắt buộc và cấm cư trú từ 1 – 5 năm, cấm thực hành một số nghề nghiệp nhất
định hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ liên quan trực tiếp đến tài sản XHCN.
- Các hình phạt vừa áp dụng là hình phạt chính vừa áp dụng là hình phạt
phụ (tùy trường hợp): Quản chế (từ 1 – 5 năm), phạt tiền.
Trong các loại hình phạt nêu trên, hình phạt tiền vừa có thể là hình phạt
chính hoặc là hình phạt phụ theo quy định của pháp luật đối với từng tội phạm
cụ thể. Hình phạt tiền được áp dụng chủ yếu đối với các tội phạm có tính chất vụ
lợi trong trường hợp phạm tội không thật nguy hiểm (ít nghiêm trọng), nhân
thân người phạm tội tương đối tốt đáng được chiếu cố khoan hồng nhằm tước
đoạt các món lợi bất chính mà người phạm tội đã thu được, tác động về kinh tế

đối với người phạm tội và ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Mức tiền phạt được quy định với mức tối đa và tối thiểu tùy thuộc vào
tính chất nghiêm trọng của tội phạm, tiền phạt cũng có thể được quy định bằng
một số lần giá trị hàng phạm pháp:
Ví dụ:


Khoá luận tốt nghiệp

10

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

Phạm tội đầu cơ: “…những người phạm pháp bị truy tố trước tòa án có
thể bị phạt tiền từ 10 vạn đồng đến 100 triệu đồng và phạt tù từ 1 tháng đến 5
năm, hoặc 1 trong 2 hình phạt trên” [21].
Phạm tội nấu rượu trái phép:
“Ai vi phạm điều 1 trên đây sẽ bị xử lý như sau:
1.Bị xử phạt hành chính từ 20 đồng đến 100 đồng
2.Bị truy tố trước tòa án và có thể bị phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm và bị
phạt tiền từ 100 đồng đến 500 đồng hoặc 1 trong 2 hình phạt đó…
Trong trường hợp phạm pháp có nhiều tình tiết nghiêm trọng thì có thể bị
phạt tù đến 2 năm và phạt tiền đến 1000đ hoặc một trong hai hình phạt đó”
[48].
Số tiền phạt cụ thể có thay đổi qua các thời điểm khác nhau theo mệnh giá
đồng bạc ngân hàng Nhà nước tại thời điểm đó. Điểm đặc biệt trong việc quy
định hình phạt tiền trong giai đoạn này là tiền phạt được ấn định theo một số
lượng gạo khi tuyên án và khi thi hành sẽ quy đổi số lượng gạo thành tiền. “…
Tiền phạt vi cảnh tối đa bằng giá 5 kg gạo; riêng về tội đánh bạc, tiền phạt ấn
định ở điều 2 sắc lệnh số 168 SL ngày 14/4/1948 bằng giá 200 đến 100 kg gạo

đối với các con bạc, về việc bảo vệ công trình thủy nông tiền phạt tối đa ấn định
ở điều 8 Sắc lệnh số 68 SL ngày 18/6/1949 bằng giá 1000 kg gạo”[1].
Phạt tiền được áp dụng vừa là hình phạt chính vừa là hình phạt bổ sung.
Luật hình sự trước đây không có văn bản nào quy định biện pháp dân sự như:
tịch thu tiền bạc, vật trực tiếp liên quan đến vụ án. Do vậy, hình phạt tiền được
coi như hình phạt bổ sung nhằm thu hồi lại số tài sản bị thiệt hại, số lãi bất chính
mà người phạm tội thu được. Áp dụng hình phạt tiền với tính chất là hình phạt
bổ sung nhằm chủ yếu loại trừ các điều kiện vật chất để người phạm tội không
phạm tội mới: “…cần phạt tiền (dưới cả 2 hình thức chính và hình phạt phụ) với
mức cao nhất mới đảm bảo tác dụng thiết thực ngăn ngừa, giáo dục trong
những trường hợp phạm pháp nghiêm trọng…phạt tiền có thể là hình phạt
chính, hoặc là hình phạt phụ…trong đại đa số trường hợp phạt tiền là hình phạt


Khoá luận tốt nghiệp

11

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

phụ đi kèm với án tù giam hoặc án treo. Phạt tiền là hình phạt chính hay phụ
đều nhằm vào mục đích sau đây: đánh vào động cơ tham lam vụ lợi của bị cáo,
bổ sung cho cho biện pháp tịch thu tiền, tang vật…”[ 39].
Tòa án nhân dân tối cao đã có nhiều văn bản hướng dẫn áp dụng hình phạt
tiền, mức tiền phạt trong từng trường hợp cụ thể phải căn cứ vào tính chất, mức
độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, phạt tiền phải căn cứ các điều kiện, hoàn
cảnh, khả năng kinh tế của người đó, không xử phạt liên đới. Phạt tiền chỉ áp
dụng trong những trường hợp có điều khoản pháp luật quy định cụ thể “…khi xử
lý cần phải cân nhắc kỹ lưỡng, ngoài việc chú ý đến quy mô phạm tội…còn cần
phải xét đến cả khả năng kinh tế, tránh khuynh hướng phạt tiền quá nhiều làm

cho bản án không thể chấp hành được, ảnh hưởng đến sinh hoạt gia đình người
bị kết án. Căn cứ vào hoàn cảnh của người phạm tội, Tòa án có thể không phạt
tiền, hoặc phạt dưới mức tối thiểu…”[40].
Chỉ nên xử phạt tiền như hình phạt chính trong những trường hợp cá biệt:
“tội phạm nhẹ, hoàn cảnh bản thân hoặc gia đình đáng được chiếu cố đặc biệt (
tuổi già, bệnh tật…) phạt tiền đến mức nào phải tùy tính chất hành vi và đối
tượng và cũng cần xem xét đến khả năng kinh tế …để bản án có thể thi hành
được và việc phạt tiền không ảnh hưởng qua nhiều đến sinh hoạt của gia đình
người phạm tội…”[41].
Tòa án nhân dân tối cao cũng có văn bản quy định trong bất cứ trường
hợp nào cũng không đổi hình phạt tiền thành hình phạt tù và ngược lại.
1.3.3. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về hình phạt tiền
Ngày 30/4/1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, cuộc kháng chiến
chống Mỹ đi đến thắng lợi cuối cùng, đất nước thống nhất và bắt tay vào nhiệm
vụ mới là xây dựng chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Có rất nhiều hoạt
động được tiến hành trong đó đặc biệt quan trọng là xây dựng một hệ thống
pháp luật thống nhất có thể thi hành trong cả nước. Theo đó các văn bản pháp
luật hiện hành của hai miền đều được áp dụng trong phạm vi cả nước, các văn
bản về Hình sự trước đây được ban hành ở miền Bắc vẫn được tiếp tục áp dụng


Khoá luận tốt nghiệp

12

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

ở miền Nam. Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đã
ban hành rất nhiều sắc lệnh trong lĩnh vực hình sự nhưng đáng chú ý nhất là Sắc
luật số 03 SL ngày 25/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt. Sắc luật này

được xem như bộ luật hình sự thu hẹp, quy định 7 nhóm tội khác nhau trong đó
có hai nhóm tội là tội phạm về kinh tế và nhóm tội phạm xâm phạm trật tự công
cộng, an toàn công cộng và sức khỏe của công dân, có quy định về hình phạt
tiền áp dụng cùng hình phạt tù.
Ví dụ: Điều 6: “…phạt tiền đến 50.000đ ngân hàng”
Điều 9: “…phạt tiền đến 1.000đ ngân hàng”
Giai đoạn 1980 – 1985 cùng với việc ban hành bản Hiến pháp mới – Hiến
pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1980, Quốc hội nước ta cũng đã ban hành
nhiều luật, pháp lệnh quan trọng như Pháp lệnh ngày 20/5/1981 trừng trị các tội
hối lộ; Pháp lệnh ngày 30/6/1982 trừng trị các tội đầu cơ buôn lậu, làm hàng giả,
kinh doanh trái phép. Hai pháp lệnh này đã có quy định hình phạt tiền là hình
phạt chính và mức phạt tiền đã được nâng cao đáng kể đến 10 lần giá trị hàng
phạm pháp (khoản 3 Điều 3 Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu).
* Đặc điểm hình phạt tiền giai đoạn 1945 – 1985
Giai đoạn này chưa có BLHS nên hình phạt tiền được quy định trong
nhiều loại văn bản khác nhau như: Pháp lệnh, sắc luật, nghị định, thông tư,
hướng dẫn tổng kết của Tòa án…hình phạt tiền đã được quy định vừa là hình
phạt chính vừa là hình phạt phụ, được áp dụng tương đối phổ biến trong các lĩnh
vực: xuất bản, kinh doanh, tiền tệ, kinh tế, trật tự công cộng, tội phạm về chức
vụ…chủ yếu đối với các tội phạm có tính chất vụ lợi nhằm tước đoạt các món
lợi bất chính của người phạm tội, trừng phạt về mặt kinh tế. Mức phạt tiền được
ấn định với mức tối đa và tối thiểu tùy theo tính chất và mức độ nghiêm trọng
của hành vi phạm tội. Tiền phạt còn có thể được quy định theo giá một số lượng
gạo, bằng một số lần giá trị hàng phạm pháp. Đáng lưu ý là từ sau năm 1955
không cho phép chuyển từ hình phạt tù thành hình phạt tiền và không dùng hình
phạt tiền để thay thế hình phạt tù (trước năm 1955 không có quy định nhưng do


Khoá luận tốt nghiệp


13

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

áp dụng luật của chế độ cũ nên Tòa án vẫn có thể chuyển đổi và thay thế).
Hình phạt tiền nói riêng và các hình phạt nói chung trong giai đoạn này đã
có nhiều quy định tiến bộ nhưng chưa được rõ ràng, chưa quy định rõ nội dung
và điều kiện áp dụng cho mỗi loại tội phạm. Trong thời kỳ đầu xây dựng pháp
luật quy định về hình phạt tiền chưa phân định rõ ràng (giữa chế tài hình sự với
các chế tài khác), chưa phân biệt rõ ranh giới giữa biện pháp xử phạt hành chính
và hình phạt. Tuy nhiên, từ năm 1970 – 1985 những tồn tại này đã dần được
khắc phục.
1.3.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt tiền Giai đoạn
1985 đến trước khi BLHS năm 1999 có hiệu lực
Trước yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngày
27/6/1985 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Bộ luật hình sự
năm 1985. Đây là Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta có hiệu lực pháp lý kể từ
ngày 1/1/1986. Trải qua bốn lần sửa đổi bổ sung, BLHS 1985 đã thể chế hóa về
mặt hình sự đường lối xây dựng CNXH ở thời kì quá độ đi lên CNXH do Đại
hội Đảng lần thứ IV đề ra và ra đời trên cơ sở tổng kết, kế thừa các quy phạm
pháp luật hình sự ban hành trước đó đã được thực tiễn kiểm nghiệm tạo cơ sở
pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trên cả nước.
Khắc phục những tồn tại của pháp luật hình sự giai đoạn trước đó khi quy
định về hình phạt, BLHS năm 1985 đã quy định khái quát về hệ thống hình
phạt . Theo quy định tại Điều 21 khoản 1 BLHS, các hình phạt chính bao gồm:
Cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; cải tạo tại đơn vị kỷ luật của quân
đội; tù có thời hạn; tù chung thân; tử hình. Theo Điều 21 khoản 2 BLHS năm
1985, các hình phạt bổ sung bao gồm: Cấm cư trú;…; phạt tiền, khi không áp
dụng là hình phạt chính.

Như vậy, hình phạt tiền trong BLHS 1985 vừa là hình phạt chính vừa là
hình phạt bổ sung và là một bộ phận cấu thành hệ thống hình phạt, góp phần đa
dạng hóa các loại hình phạt, thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật nhà nước ta.


Khoá luận tốt nghiệp

14

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

Phạm vi, điều kiện áp dụng và mức phạt tiền được quy định tại Điều 23
BLHS năm 1985 như sau:
“ Phạt tiền được áp dụng đối với người phạm các tội có tính chất vụ lợi,
tham nhũng, các tội có tiền dùng làm phương tiện hoạt động hoặc những trường
hợp khác do pháp luật quy định.
Mức phạt tiền được quy định theo mức độ nghiêm trọng của tội phạm,
đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động giá cả”.
(Điều 23 BLHS năm 1985).
Như vậy, theo BLHS 1985, hình phạt tiền là hình phạt tước đi của người
bị kết án một khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước. Hình phạt tiền tác
động trực tiếp đến lợi ích kinh tế của người phạm tội. Hình phạt tiền được áp
dụng trong các trường hợp sau:
- Áp dụng đối với người phạm tội có tính chất vụ lợi;
- Áp dụng đối với người phạm tội có tính chất tham nhũng;
- Áp dụng đối với các trường hợp khác do luật định như : Tội vi phạm các
quy định về hàng không (Điều 90), Tội vi phạm các quy định về hàng hải (Điều
91), Tội chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 201), Tội tổ
chức mại dâm, tội làm môi giới mại dâm (Điều 202)…
Căn cứ vào các quy định của BLHS năm 1985 thì phạt tiền chỉ được áp

dụng là hình phạt chính trong trường hợp điều luật quy định tội phạm cụ thể đó
có hình phạt tiền và luật hình sự không cho phép áp dụng hình phạt tiền để thay
thế cho hình phạt khác và cũng không cho phép chuyển từ hình phạt chính khác
thành hình phạt tiền.
Từ quy định chung tại điều 23, hình phạt tiền đã được cụ thể hóa tại phần
các tội phạm. Số lượng điều luật quy định về hình phạt tiền trong BLHS 1985 là
215 điều, trong đó số lượng điều luật có quy định hình phạt tiền là hình phạt
chính là 11\215 điều, với tư cách là hình phạt bổ sung hình phạt tiền được quy
định ở 52\215 điều (phần các tội phạm).
Hình phạt tiền được quy định trong các chương, tội với các điều khoản


Khoá luận tốt nghiệp

15

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

tương ứng sau:
Chương I: Các tội xâm phạm an ninh quốc gia.
- Tội vi phạm các quy định về hàng không (Điều 90 khoản 1 và 2)
- Tội vi phạm các quy định về hàng hải (Điều 91 khoản 1 và 2)
Chương III: Các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân.
- Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền sáng chế phát minh (Điều 126)
chương VII: các tội phạm về kinh tế.
- Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác và bảo vệ
tài nguyên trong lòng đất, trong các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam
(Điều 179).
Chương VIIA: Các tội phạm về ma túy.
- Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào

việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 185g khoản 1).
- Tội sản xuất, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào
việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185h khoản 1).
- Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185k khoản 1).
- Tội vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng chất gây nghiện hoặc các
chất ma túy khác (Điều 185n khoản 1).
Chương VIII: Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng và trật tự quản
lý hành chính.
- Tội vi phạm các quy định về xuất bản và phát hành sách, báo, ấn phẩm
khác (Điều 215).
Hình phạt tiền là hình phạt bổ sung được quy định trong Bộ luật hình sự
1985 có 42 tội. Trong đó có 8 tội thuộc nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc
gia, 12 tội thuộc nhóm các tội xâm phạm về ma túy, 4 tội thuộc nhóm tội xâm
phạm trật tự quản lý hành chính, 7 tội thuộc nhóm các tội phạm về chức vụ.
BLHS 1985 có hai cách quy định mức phạt tiền khi là hình phạt chính:
+ Quy định mức phạt tiền khi được áp dụng là hình phạt chính bằng cách
ấn định mức thấp nhất và cao nhất.


Khoá luận tốt nghiệp

16

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

Ví dụ:
Điều 185g khoản 1 quy định: “…thì bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng
đến một trăm triệu đồng”.
Điều 215 quy định: “…phạt tiền từ hai trăm năm mươi nghìn đồng đến
mười triệu đồng”.

+ Quy định mức phạt tiền khi được áp dụng là hình phạt chính bằng cách
ấn định mức cao nhất mà không quy định thấp nhất.
Ví dụ:
Điều 90 khoản 1 quy định: “…bị phạt tiền đến năm trăm triệu đồng”.
Điều 91 khoản 1 quy định: “…bị phạt tiền đến ba trăm triệu đồng”.
Mức phạt tiền khi áp dụng là hình phạt bổ sung, BLHS 1985 quy định.
+ Quy định mức phạt tiền khi được áp dụng là hình phạt bổ sung bằng
cách ấn định mức thấp nhất và mức cao nhất.
Ví dụ:
Điều 229 khoản 2 quy định: “…phạm một trong các tội quy định tại điều
221, 221a …thì có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng…”.
Điều 218 khoản 3 quy định: “…phạm một trong các tội quy định từ điều
199 đến điều 202 thì bị phạt tiền từ một triệu đến năm triệu đồng”.
+ Quy định mức phạt tiền khi được áp dụng là hình phạt bổ sung bằng
cách quy định mức phạt tiền theo bội số tiền thu lời bất chính hoặc giá trị hàng
phạm pháp.
Ví dụ:
Điều 100 khoản 3 quy định:“…bị phạt tiền đến mười lần giá trị hàng
phạm pháp”.
Điều 289 khoản 2 quy định: “phạt tiền từ một đến năm lần giá trị của hối
lộ”.
+ Quy định mức phạt tiền khi được áp dụng là hình phạt bổ sung bằng
cách ấn định mức cao nhất:
Ví dụ: Điều 142 khoản 3 quy định “Người nào phạm một trong các tội


Khoá luận tốt nghiệp

17


Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

quy định ở chương này, trừ các Điều 136, 139 và 140, thì tuỳ theo tính chất
nghiêm trọng của tội phạm mà có thể bị phạt tiền đến một triệu đồng (1.000.000
đồng) và bị tịch thu một phần hay toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt
đó”.
BLHS 1985 không quy định mức phạt tối thiểu mà chỉ quy định mức phạt
tối đa là một tỷ đồng (Điều 90, Điều 179). Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải
căn cứ vào mức độ nghiêm trọng của tội phạm, đồng thời xét đến tình hình tài
sản của người phạm tội và sự biến động giá cả. Có nghĩa là hình phạt tiền được
tuyên phải tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm, có tính
đến khả năng chấp hành hình phạt tiền trong thực tế.
Qua các phân tích trên có thể đưa ra nhận xét về hình phạt tiền trong
BLHS năm 1985 như sau:
BLHS năm 1985 có 9 tội tương ứng với 11 khung có quy định hình phạt
tiền là hình phạt chính, trong đó có 2 tội thuộc nhóm các tội phạm xâm phạm an
ninh quốc gia (mục B), 1 tội thuộc nhóm các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ
của công dân, 4 tội thuộc nhóm các tội phạm về ma túy, 1 tội trong nhóm các tội
xâm phạm trật tự quản lý hành chính, 1 tội thuộc nhóm các tội xâm phạm về
kinh tế. Như vậy, BLHS 1985 không quy định hình phạt tiền đối với các tội
thuộc nhóm các tội xâm phạm sở hữu, là những tội có nhiều tội phạm có tính
chất vụ lợi và cũng không quy định hình phạt tiền đối với các tội thuộc nhóm tội
phạm về chức vụ là những tội phạm có tính chất tham nhũng.
Số tội phạm có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính chiếm tỷ lệ rất
thấp chỉ có khoảng 4,3 % trong tổng số các tội được BLHS năm 1985 quy định
(9/209 tội). Phạt tiền được quy định là hình phạt chính và chỉ khi không áp dụng
là hình phạt chính thì mới có thể áp dụng là hình phạt bổ sung. Luật quy định
hình phạt tiền được áp dụng đối với các tội phạm có tính chất tham nhũng, dùng
tiền làm phương tiện hoạt động nhưng trong số các tội có quy định hình phạt
tiền là hình phạt chính không có các nhóm tội nói trên. Do vậy, những quy định

tại Điều 32 phần chung BLHS năm 1985 đã không được cụ thể hóa trong phần


Khoá luận tốt nghiệp

18

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

riêng dẫn đến thu hẹp phạm vi áp dụng của hình phạt tiền.
Số tội có phạt tiền là hình phạt bổ sung bắt buộc còn ít (chiếm 24 % số tội
có phạt tiền là hình phạt bổ sung). Đa số trường hợp phạt tiền là hình phạt bổ
sung không bắt buộc đối với hình phạt bổ sung khác hoặc tùy nghi lựa chọn có
thể áp dụng hoặc không áp dụng. Quy định này cho thấy Tòa án có thể áp dụng
hoặc không áp dụng hình phạt tiền làm cho phạm vi áp dụng của loại hình phạt
này bị thu hẹp trên thực tế.
BLHS năm 1985 không quy định mức tối thiểu của hình phạt tiền, đa số
các chế tài có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính cũng không quy định
mức thấp nhất (Điều 90 khoản 1,2; Điều 91 khoản 1,2; Điều 126,179) mà chỉ
quy định mức cao nhất dẫn đến việc áp dụng tùy tiện, không đảm bảo nguyên
tắc công bằng và nhất là trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Tòa án rất
khó có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật quy định
như quy định tại Điều 38 khoản 3 BLHS năm 1985.
Đối với những tội có quy định mức thấp nhất và mức cao nhất thì khoảng
cách tối thiểu và tối đa của hình phạt tiền lại quá rộng. Điển hình như điều 215
quy định mức tối đa cao gấp 40 lần mức tối thiểu (5.000.000 đồng so với
250.000 đồng). Điều này vừa tạo ra sự tùy tiện trong áp dụng hình phạt tiền vừa
không đảm bảo khả năng cá thể hóa hình phạt.
BLHS năm 1985 quy định hình phạt tiền không được áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội.

BLHS năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung ngày 28 tháng 12 năm 1989,
ngày 12 tháng 8 năm 1991, ngày 22 tháng 12 năm 1992 và ngày 10 tháng 5 năm
1997. Qua các lần sửa đổi, bổ sung, các quy định liên quan đến hình phạt tiền
cũng có nhiều thay đổi nhưng những thay đổi đó vẫn chưa hoàn thiện, điều kiện
áp dụng và nội dung của hình phạt tiền chưa được quy định một cách cụ thể,
chặt chẽ, phạm vi áp dụng hình phạt tiền chưa được quy định một cách đúng
mức đối với các tội phạm về kinh tế, các tội có mục đích vụ lợi, các tội dùng tiền
làm phương tiện phạm tội và một số loại tội khác do BLHS 1985 quy định. Xuất


Khoá luận tốt nghiệp

19

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

phát từ những bất cập đó mà vị trí và vai trò của hình phạt tiền trong hệ thống
hình phạt chưa được đánh giá đúng, làm giảm đáng kể hiệu quả trừng trị, giáo
dục của hình phạt tiền trên thực tế.


Khoá luận tốt nghiệp

20

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

CHƯƠNG 2
HÌNH PHẠT TIỀN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999
Trước những yêu cầu mới của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo

đảm quyền làm chủ của nhân dân và hiệu lực quản lý nhà nước, góp phần thực
hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, ngày
21/12/1999 Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 6 đã chính thức thông qua BLHS năm
1999 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2000. BLHS năm 1999 đã có những
thay đổi căn bản, thể hiện bước phát triển mới của pháp luật hình sự nước ta,
trong đó phải kể đến những quy định về hình phạt tiền.
Hình phạt tiền trong BLHS năm 1999 là hình phạt vừa được áp dụng là
hình phạt chính vừa được áp dụng là hình phạt bổ sung (khi không áp dụng là
hình phạt chính).
Khắc phục những hạn chế của BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 đã có
những quy định cụ thể về điều kiện, phạm vi áp dụng hình phạt tiền là hình phạt
chính hay hình phạt bổ sung , mức tối thiểu, cách thức nộp tiền phạt…tại Điều
30 phần chung BLHS năm 1999 tạo cơ sở cho việc quy định trong phần các tội
phạm và việc áp dụng hình phạt trên thực tế.
“1.Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít
nghiêm trọng, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản
lý hành chính và một số tội phạm khác do bộ luật này quy định.
2.Phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm các tội
về tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do bộ luật này quy định.
3.Mức phạt tiền được quyết định tùy theo tính chất và mức độ nghiêm
trọng của tội phạm đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội,
sự biến động của giá cả, nhưng không được thấp hơn mức mức một triệu đồng.
4.Tiền phạt có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Tòa
án quy định”.
Để bảo đảm sự phù hợp giữa các quy định của pháp luật với tình hình


Khoá luận tốt nghiệp

21


Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

phát triển kinh tế xã hội và những thay đổi trong chủ trương chính sách của
Đảng và nhà nước, ngày 19 tháng 6 năm 2009, tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa
XII đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS và có hiệu lực thi
hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS là một bước kế thừa và phát
triển mới nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan và hết sức bức xúc của công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Quốc hội cũng đã thông
qua Nghị quyết số 33/2009/QH12 về việc thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật hình sự trong đó, những quy định về hình phạt tiền cũng có
những sửa đổi quan trọng và cần thiết như: tăng số điều luật quy định hình phạt
tiền là hình phạt chính (từ 68 điều luật lên 76 điều luật), tăng số điều luật quy
định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung (từ 104 điều luật lên 111 điều luật), tăng
mức phạt tiền thấp nhất và cao nhất ở một số điều luật cho phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế.
2.1. Hình phạt tiền khi được áp dụng là hình phạt chính
2.1.1. Phạm vi và điều kiện áp dụng
Khoản 1 Điều 30 BLHS năm 1999 quy định “ phạt tiền được áp dụng là
hình phạt chính đối với người phạm các tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm
khác do bộ luật này quy định”.
Như vậy, BLHS năm 1999 quy định phạm vi áp dụng hình phạt tiền
không phải căn cứ vào tính chất của tội phạm như tính chất vụ lợi, tính chất
tham nhũng… mà căn cứ theo nhóm tội nhất định – căn cứ vào khách thể của tội
phạm. Theo đó, hình phạt tiền được áp dụng đối với các trường hợp sau:
- Trường hợp thứ nhất: Áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Người phạm tội đã có những hành vi nguy
hiểm cho xã hội, xâm phạm những quy định của nhà nước trong quản lý kinh tế,

xâm phạm đến các quan hệ xã hội đảm bảo cho sự ổn định và phát triển của nền
kinh tế quốc dân. Những quy định của nhà nước trong lĩnh vực này có thể là


Khoá luận tốt nghiệp

22

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

những quy định chung cho toàn bộ hệ thống kinh tế, nhưng cũng có thể chỉ có
tính chất riêng cho từng ngành, từng lĩnh vực. Ví dụ: Tội buôn lậu (Điều 153
BLHS); Tội trốn thuế (Điều 161 BLHS); Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm (Điều 155 BLHS)…
- Trường hợp thứ hai: Áp dụng đối với các tội ít nghiêm trọng xâm phạm
trật tự công cộng. Trong 55 tội quy định tại chương Các tội xâm phạm trật tự
công cộng, an toàn công cộng (chương XIX) thì hình phạt tiền được áp dụng là
hình phạt chính chủ yếu với các tội có tính chất vụ lợi, dùng tiền làm phương
tiện phạm tội. Ví dụ: Tội đánh bạc ( Điều 248 BLHS ); Tội chứa chấp tài sản do
người khác phạm tội mà có ( Điều 250 )…hoặc các tội phạm khác tuy không có
tính chất vụ lợi hoặc dùng tiền làm phương tiện phạm tội, nhưng việc áp dụng
hình phạt tiền vẫn đảm bảo được mục đích của hình phạt. Ví dụ: Các tội vi phạm
các quy định về điều khiển phương tiện giao thông (Điều 202, 208, 216 BLHS);
Các tội về tin học (Điều 224, 225, 226 BLHS).
- Trường hợp thứ ba: Áp dụng đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý
hành chính. Đó là các trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm hoạt động
bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong lĩnh vực quản lý hành
chính nhà nước. Ví dụ: Tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều
267 BLHS); Tội vi phạm các quy định về xuất bản phát hành sách báo, đĩa âm
thanh, băng âm thanh, đĩa hình hoặc các ấn phẩm khác (Điều 271 BLHS).

- Trường hợp thứ tư: Áp dụng với các tội phạm khác do BLHS năm 1999
quy định. Đây là những trường hợp không xâm phạm các tội thuộc nhóm các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự an toàn công cộng, trật tự quản lý hành
chính nhưng nhà làm luật cho rằng khi áp dụng hình phạt tiền vẫn đạt được mục
đích của hình phạt. Ví dụ: Các tội phạm về môi trường (Tội gây ô nhiễm không
khí – Điều 182 BLHS); Các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân
(Tội xâm phạm quyền tác giả - Điều 131); Các tội phạm về ma túy (Tội vi phạm
các quy định về quản lý sử dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác Điều 201 BLHS)


Khoá luận tốt nghiệp

23

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

Phạt tiền chỉ được áp dụng là hình phạt chính khi điều luật có quy định áp
dụng hình phạt này là hình phạt chính. BLHS năm 1999 không cho phép áp
dụng hình phạt tiền thay cho các hình phạt khác và ngược lại. Điều 50 khoản 2,
điểm đ quy định: “ phạt tiền không tổng hợp với các hình phạt khác, các khoản
phạt tiền được cộng lại thành hình phạt phải chấp hành”. Chủ thể bị áp dụng
hình phạt tiền là người từ đủ 16 tuồi trở lên, không áp dụng đối với người phạm
tội từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi. Khi Tòa án xét xử không được xử phạt liên
đới đối với hình phạt tiền có nghĩa là Tòa án không được tuyên các bị cáo phải
liên đới cùng nhau nộp số tiền phạt mà phải cá thể hóa đối với từng bị cáo.
BLHS năm 1999 có 68 tội có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính,
chiếm xấp xỉ 24% tổng số các Điều luật quy định tội phạm cụ thể. Luật sửa đổi
bổ sung một số điều của BLHS năm 2009 đã tăng số tội có quy định hình phạt
tiền là hình phạt chính lên 76 tội chiếm xấp xỉ 27,8 % tổng số các điều luật quy
định tội phạm cụ thể (phụ lục 1), tăng hơn 8 lần so với BLHS năm 1985 ( con số

này trong BLHS năm 1985 là 9 tội ), cho thấy xu hướng mở rộng phạm vi áp
dụng hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với tội phạm ít nghiêm
trọng thuộc các nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng,
trật tự quản lý hành chính. Cụ thể như sau:
- Có 24/35 điều luật có quy định áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính
trong chương các tội xâm phạm trật tự kinh tế (chương XVI)
- Có 32/59 điều luật có quy định áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính
trong chương các tội xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng. (chương
XIX)
- Có 7/20 điều luật quy định áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính
trong chương các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính.(chương XX)
Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính với một số tội phạm khác do
BLHS quy định:
- Có 10/11 điều luật có quy định áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính


Khoá luận tốt nghiệp

24

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C

trong chương các tội phạm về môi trường (chương XVII).
- Có 1/9 điều luật có quy định việc áp dụng hình phạt tiền là hình phạt
chính trong chương các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân.
(chương XIII).
- Có 1/9 điều luật có quy định áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính
trong chương các tội phạm về ma túy (chương XVIII).
- Có 1/13 điều luật có quy định áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính

trong chương các tội xâm phạm sở hữu (chương XIV).
Trong 76 điều luật quy định áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính nhà
làm luật đều quy định hình phạt này trong chế tài lựa chọn với các hình phạt
chính khác như cải tạo không giam giữ, cảnh cáo…Điều này tạo điều kiện cho
Tòa án tùy từng trường hợp phạm tội cụ thể có thể lựa chọn một hình phạt phù
hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Theo quy định tại phần chung BLHS 1999 thì chỉ áp dụng hình phạt tiền
là hình phạt chính với các tội phạm ít nghiêm trọng nhưng tại phần các tội phạm
lại có tương đối nhiều điều luật quy định áp dụng hình phạt tiền là hình phạt
chính đối với các tội phạm nghiêm trọng . Ví dụ: khoản 1 Điều 155, khoản 1
Điều 158… Thậm chí, có 1 điều luật còn quy định áp dụng hình phạt tiền là hình
phạt chính đối với tội rất nghiêm trọng là Điều 222 khoản 3. Quy định như vậy
đã tạo nên sự không thông nhất giữa các quy định ở phần chung với các quy
định ở phần các tội phạm trong BLHS Việt Nam.
2.1.2. Mức phạt tiền và cách thức nộp tiền phạt
* Mức phạt tiền
Khoản 3 Điều 30 quy định: “ Mức phạt tiền được quyết định tùy theo tính
chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm đã thực hiện đồng thời có xét đến
tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động giá cả, nhưng không được
thấp hơn một triệu đồng”
BLHS 1985 không quy định mức phạt tiền tối thiểu gây khó khăn cho
việc áp dụng trong thực tế. khắc phục bất cập này, BLHS hiện hành đã quy định


Khoá luận tốt nghiệp

25

Nguyễn Thị Tiệp – Lớp HS31C


mức tối thiểu của hình phạt tiền là một triệu đồng, mức cao nhất tùy thuộc vào
từng trường hợp cụ thể quy định trong phần các tội phạm của BLHS. Việc quy
định mức tiền phạt tối thiểu là một triệu đồng đã “khắc phục được hạn chế của
BLHS 1985 tạo cơ sở pháp lý cho việc quy định Điều 47 BLHS năm 1999. Đồng
thời làm căn cứ cho việc quy định mức hình phạt tối thiểu và tối đa tại các điều
luật cụ thể. Thể hiện rõ tính nghiêm khắc của chế tài hình sự với các chế tài
khác (hành chính, kinh tế)”[50, 163]. Khi quyết định mức phạt tiền, Tòa án căn
cứ vào các quy định tại điều 45 BLHS ngoài ra còn phải xem xét đến tình hình
tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả để quyết định mức phạt tiền
phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
đã thực hiện, đồng thời đảm bảo tính khả thi của hình phạt đã tuyên, thể hiện
chính sách nhân đạo của nhà nước ta đối với người phạm tội.
Phạt tiền được quy định theo hai cách:
- Cách thứ nhất: Quy định phạt tiền từ mức tối thiểu đến mức tối đa. Ví
dụ: “ …thì bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng” (Điều 165 khoản 1 –
Tội làm tem giả, vé giả, tội buôn bán tem giả, vé giả).
Theo cách quy định này, mức thấp nhất là 1 triệu đồng (ví dụ: Điều 245 –
Tội gây rối trật tự công cộng) và mức cao nhất là 1 tỉ đồng (ví dụ: Điều 172 –
Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên).
- Cách thứ hai: quy định mức phạt tiền theo bội số tiền trốn thuế hoặc tiền
lãi với mức thấp nhất là một lần và mức cao nhất là mười lần (ví dụ: Điều 161 –
tội trốn thuế, Điều 163 – tội cho vay nặng lãi).
Đảm bảo sự phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế và mức sống của
người dân, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của BLHS năm 2009 đã tăng mức
tiền phạt khởi điểm và mức tiền phạt cao nhất ở một số điều luật cụ thể. Ví dụ:
Điều 171 – Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tăng mức tiền phạt khởi
điểm từ 20 triệu đồng lên 50 triệu đồng, tăng mức tiền phạt cao nhất từ 200 triệu
đồng lên 500 triệu đồng; Điều 160 – Tội đầu cơ tăng mức tiền phạt khởi điểm từ
5 triệu đồng lên 20 triệu đồng, tăng mức tiền phạt cao nhất từ 50 triệu đồng lên



×