Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

Tổng hợp các bài tiểu luận triết học cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.78 KB, 124 trang )

1

Đề bài: Khái niệm bản thể luận, nhận thức luận. Phân biệt bản thể luận
với nhận thức luận. Sự đối lập tương đối giữa bản thể luận và nhận thức luận.
Bài làm:
1. Khái niệm bản thể luận, nhận thức luận
Bản thể luận (ontology) là lý luận nghiên cứu về bản chất cuối cùng của mọi
sự tồn tại. Về mặt từ gốc, trong tiếng Hy Lạp, khái niệm này là một từ ghép giữa
“on” (ontos) là hữu thể, tồn tại với “logos” (logia) là “khoa học, nghiên cứu, học
thuyết” có nghĩa là một học thuyết về sự tồn tại tự thân. Bản thể luận nhằm trả lời
cho câu hỏi thế giới có tồn tại hay không? Vật chất và ý thức, cái nào có trước và
cái nào quyết định cái nào?
Khái niệm bản thể luận được dùng trong các trường phái triết học trước Mác
được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Bản thể luận theo nghĩa rộng để chỉ
bản chất của mọi tồn tại, mà bản chất này phải thông qua nhận thức luận mới có
thể nhận thức được. Do đó, nghiên cứu bản chất cuối cùng của mọi tồn tại là bản
thể luận, còn nghiên cứu nhận thức như thế nào là nhận thức luận. Cách tiếp cận
này tạo ra sự đối lập tương đối giữa bản thể luận và nhận thức luận. Bản thể luận
theo nghĩa hẹp tức là trong bản thể luận theo nghĩa rộng lại có hai nội dung, một là
nghiên cứu khởi nguyên và kết cấu của vũ trụ, hai là nghiên cứu bản chất của vũ
trụ, cái thứ nhất là vũ trụ luận, cái thứ hai là bản thể luận. Cách tiếp cận này tạo ra
sự đối lập tương đối giữa bản thể luận và vũ trụ luận. Cả hai nghĩa của Bản thể luận
này vẫn được đồng thời sử dụng trong triết học phương Tây hiện đại. Phần lớn các
trường phái triết học phương Tây trước Mác đề hiểu “bản thể luận” theo nghĩa rộng
từ đó xây dựng nên học thuyết bản thể luận và nhận thức luận của mình, tuy nhiên
giữa bản thể luận và nhận thức luận có mối quan hệ tương hỗ với nhau.
Theo quan điểm của Mác, bản thể luận là một học thuyết dùng để chỉ tất cả
những quy luật vận động, tồn tại và phát triển chung nhất của mọi sự vật, hiện
tượng. Triết học Mác - Lê Nin nhận thức sự tồn tại của thế giới như một chỉnh thể



2

mà bản chất của sự tồn tại này chính là vật chất. Ăng ghen đã nêu lên cách tiếp cận
mới đối với việc giải quyết vấn đề về bản chất, nguồn gốc và tính thống nhất của
mọi tồn tại trong thế giới theo lập trường duy vật hiện đại, đó là sự tồn tại của thế
giới là tiền đề cho sự thống nhất của nó; song sự thống nhất của thế giới không phải
ở sự tồn tại của nó. Ăng ghen viết: “Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự
tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của tính thống nhất của nó, vì trước khi thế
giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã”1.
Triết học Mác- Lê nin chứng minh bản chất của thế giới là vật chất, thế giới
thống nhất ở tính vật chất. Điều này thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức của con người.
Hai là, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết
cấu vật chất, do vật chất sinh ra và chịu sự chi phối của các quy luật khách quan
phổ biến của thế giới vật chất.
Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận. Vật chất không
được sinh ra và không bị mất đi mà chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác.
Trong thế giới không có nơi nào và lúc nào có gì khác ngoài những quá trình vật
chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả
của nhau.
Các quan điểm của nhất nguyên luận (duy vật, duy tâm) và nhị nguyên luận
về bản thể luận:
Quan điểm nhất nguyên luận là quan điểm chỉ thừa nhận có một thực thể duy
nhất nào đó hoặc là vật chất hoặc là tinh thần sinh ra thực thể kia. Quan điểm nhất
nguyên luận hình thành nên hai trường phái: Nhất nguyên luận duy vật và nhất
nguyên luận duy tâm. Trong đó:
1


C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.67.


3

Quan điểm của nhất nguyên luận duy vật: Vật chất có trước, ý thức có sau và
vật chất quyết định ý thức.
Quan điểm của nhất nguyên luận duy tâm: Ý thức có trước, vật chất có sau
và ý thức quyết định vật chất.
Quan điểm của trường phái nhị nguyên luận là thừa nhận sự cùng tồn tại của
cả hai thực thể vật chất và ý thức. Không thực thể nào sinh ra, quyết định thực thể
nào và mỗi thực thể lại có những đặc tính riêng.
Nhận thức luận là khuynh hướng triết học nghiên cứu về bản chất, nguồn
gốc, và phạm vi của quá trình nhận thức. Nhận thức luận bàn tới việc con người có
nhận thức được sự tồn tại của sự vật hiện tượng hay không và con người nhận thức
như thế nào về những tồn tại đó. Nếu như con người có thể nhận thức được thì có
thể cải tạo sự vật và ngược lại sẽ bị lệ thuộc, nô lệ.
Nhận thức luận được định hình cùng với sự xuất hiện của triết học với tư
cách là một phân môn triết học nền tảng. Mọi nhận thức luận đều nghiên cứu bản
chất của nhận thức, khả năng nhận thức của con người về các đối tượng hiện thực,
các thuộc tính, mối liên hệ giữa chúng, về các tính quy luật cơ bản của quá trình
nhận thức từ quan niệm hời hợt về đối tượng đến việc nắm bắt bản chất của nó, về
nguồn gốc và các phương pháp nhận thức, về các hình thức diễn ra quá trình nhận
thức và liên quan đến điều này, nó nghiên cứu con đường đạt tới chân lí, các tiêu
chuẩn của chân lí. Trình bày những nguyên tắc xuất phát điểm của lí luận nhận
thức, Lê Nin viết: “Sự sống sinh ra bộ óc. Giới tự nhiên được phản ánh trong bộ
óc của người. Trong khi kiểm nghiệm và áp dụng sự đúng đắn của những phản ánh
ấy vào thực tiễn của mình và trong kỹ thuật, con người đạt tới chân lí khách
quan”2.
Vấn đề cơ bản và thời sự nhất của nhận thức luận vẫn là vấn đề tri thức đáng

tin cậy về thế giới. Mục đích trực tiếp của mọi nhận thức là sáng tạo ra các loại tri
2

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 29, tr.125


4

thức với những trình độ khác nhau, nhưng mục đích cuối cùng của nhận thức là để
phục vụ sự phát triển của thực tiễn. Trải qua nhiều thế kỷ, con người vẫn luôn quan
tâm tới vấn đề nhận thức diễn ra như thế nào? Con người có nhận thức được thế
giới hay không? Đó là vấn đề không dễ gì có câu trả lời. Trên thực tế, hiện thực là
vô tận, còn con người là hữu hạn. Vì vậy, trong giới hạn, con người khó có thể
nhận thức được cái vô hạn. Con người luôn tìm cách để trả lời câu hỏi này và hình
thành nên các xu hướng cơ bản trả lời câu hỏi đó: khả tri luận (con người có thể
nhận thức được thế giới); bất khả tri luận (phủ định khả năng nhận thức thế giới của
con người) và hoài nghi luận (không phủ định tính nhận thức được thế giới nhưng
lại nghi ngờ tính đáng tin cậy của tri thức).
2. Phân biệt bản thể luận và nhận thức luận
Bản thể luận và nhận thức luận là hai vấn đề cơ bản của triết học. Hai vấn đề
cơ bản này khác nhau như thế nào?
Thứ nhất, bản thể luận nghiên cứu về bản chất cuối cùng của mọi tồn tại.
Nhận thức luận nghiên cứu về khả năng nhận thức của con người, con người nhận
thức như thế nào về các sự tồn tại đó. Ví dụ: Sự tồn tại của một cái cây đó là bản
thể luận (cái cây đó sinh ra, lớn lên, đơm hoa kết trái,...). Con người nhận thức về
cái cây đó như thế nào là nhận thức luận (cái cây đó to, cao như nào, có thể dùng để
làm gì,...).
Thứ hai, bản thể luận nghiên cứu vấn đề thứ nhất của triết học đó là mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức (vật chất và ý thức, cái nào có trước? Cái nào quyết
định cái nào). Trong khi đó nhận thức luận giải quyết vấn đề thứ hai của triết học

đó là con người có nhận thức được thế giới hay không?
Thứ ba, về chủ thể. chủ thể của bản thể luận là mọi sự tồn tại còn chủ thể của
nhận thức là con người (bởi cá thể người có khả năng phản ánh vào ý thức của
mình những đối tượng hiện thực).


5

3. Sự đối lập tương đối giữa bản thể luận và nhận thức luận.
Bản thể luận và nhận thức luận có sự đối lập tương đối. Bản thể luận và nhận
thức luận có mối liên hệ với nhau nhưng lại khác nhau.
Bản thể luận là chỉ sự tồn tại của tất cả các sự vật hiện tượng, đang diễn ra ở
chính bản thân nó. Nó không cần biết con người có nhận thức được nó hay không,
biết về nó hay không. Nó vẫn tồn tại như vậy mà không phụ thuộc vào nhận thức
của con người (chỉ tồn tại khách quan). Tuy nhiên, bản thể luận nghiên cứu sự tồn
tại của tất cả các sự vật hiện tượng, bao gồm cả thế giới vật chất và ý thức của con
người.
Nhận thức luận lại bàn tới việc con người có nhận thức được sự tồn tại của
sự vật hiện tượng hay không. Nếu con người có thể nhận thức được thì có thể cải
tạo được sự vật, nếu không nhận thức được con người sẽ bị lệ thuộc và thống trị.
Sự nhận thức của con người là một quá trình, nó phụ thuộc vào trình độ nhận thức
của con người ở từng giai đoạn. Do đó có thể chúng ta nhận thức được hoặc chưa
nhận thức được và cũng có thể chúng ta nhận thức đúng hay nhận thức sai về sự vật
đó. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ nhận thức của con người (chỉ tồn tại chủ
quan trong đầu óc của con người thông qua hoạt động tư duy).
Sự đối lập của bản thể luận và nhận thức luận chỉ có ý nghĩa tương đối mà
không phải tuyệt đối vì chúng ta không nên cho rằng bất kỳ thời gian, không gian
nào bản thể luận cũng quyết định nhận thức luận mà ngược lại, đôi khi trong mối
quan hệ xác định, không gian và thời gian xác định nhận thức luận có thể quyết
định bản thể luận (nhận thức, cải tạo thế giới của con người).

Bản thể luận và nhận thức luận luôn nằm trong mối liên hệ thống nhất với
nhau, không tách rời. Mối liên hệ này được thể hiện thông qua mối liên hệ giữa thế
giới khách quan và con người. Lênin khẳng định: “thế giới khách quan quyết định
sự tồn tại của con người, con người có sự tác động trở lại đối với thế giới khách


6

quan, đôi khi trong những điều kiện cụ thể nhất định có ý nghĩa quyết định đối với
thế giới khách quan đó”.
I. Khái lược về triết học và khoa học pháp lý
1. Triết học
Triết học ra đời khoảng thế kỷ VIII-VI trước Công nguyên, theo tiếng Hy Lạp cổ, triết học được ghép
từ 2 từ “philos - tình yêu” và “sophia - sự thông thái”. Theo nghĩa đen, triết học là tình yêu đối với sự
thông thái. Ngày nay, triết học được hiểu là một hệ thống những quan điểm, quan niệm về những vấn đề
chung nhất của thế giới, về thái độ của con người đối với thế giới.
Đối tượng nghiên cứu của triết học là toàn bộ thế giới trong tính chỉnh thể, bao gồm tự nhiên, xã
hội loài người và tư duy. Trong quá trình phát triển của mình, đối tượng triết học thay đổi theo từng giai
đoạn lịch sử. Sự ra đời của triết học Mác đánh dấu sự đoạn tuyệt với quan niệm triết học là khoa học của
các khoa học và tiếp tục nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức cũng như những quy lụât chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại là vấn đề
quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Vấn đề cơ bản này có hai mặt:
- Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi giữa vật chất và ý thức (tồn tại và tư duy), cái nào có trước, cái
nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? (ý
thức có thể phản ánh được vật chất hay không?).
2. Khoa học pháp lý
Khoa học pháp lý là một bộ phận cấu thành của khoa học xã hội. Khoa học pháp lý nghiên cứu các
phương diện khoa học xã hội, các quan hệ xã hội khi các phương diện xã hội và quan hệ đó được thể hiện

dưới những hình thức pháp lý nhất định.
Khoa học pháp lý nghiên cứu nội dung bên trong và mối quan hệ của các quy phạm pháp luật,
quan hệ pháp luật.
Hệ thống khoa học pháp lý là một chỉnh thể tạo nên một lĩnh vực chuyên biệt của nhận thức đó là
luật học. Hệ thống có thể chia làm 03 nhóm theo những tính chất riêng:
Thứ nhất, các khoa học lý luận - lịch sử pháp lý gồm: lý luận về nhà nước và pháp luật, lịch sử nhà
nước và pháp luật, lịch sử các học thuyết chính trị - pháp lý.


7
Thứ hai, các khoa học pháp lý chuyên ngành gồm: luật hiến pháp, luật hành chính, luật hình sự,
luật dân sự, luật tố tụng hình sự, luật tố tụng dân sự, luật tài chính, luật kinh tế...
Thứ ba, các khoa học pháp lý ứng dụng gồm: điều tra tội phạm, thống kê tư pháp, tâm lý tư pháp,
tội phạm học v.v...3
Khoa học pháp lý có đặc trưng tiêu biểu là nghiên cứu các khái niệm, các phạm trù, các nguyên tắc
pháp luật, hệ thống pháp luật thực định, đương nhiên không chỉ nghiên cứu bản thân hệ thống pháp luật
thực định mà cả những nguyên lý tạo thành, áp dụng, vận động và phát triển của pháp luật. 4
II. Chức năng của triết học đối với việc nghiên cứu khoa học pháp lý
Khoa học pháp lý là một ngành cụ thể của khoa học. Triết học có chức năng quan trọng trong
nghiên cứu khoa học, trong đó có khoa học pháp lý. Như vậy, đối với nghiên cứu khoa học pháp lý, triết
học vừa có chức năng chung đối với nghiên cứu khoa học, vừa có những chức năng riêng biệt dành cho
nghiên cứu khoa học pháp lý.
1. Chức năng chung của triết học
Khi nói đến vai trò của triết học chúng ta thường nói đến vai trò thế giới quan và phương pháp
luận của nó.
1.1. Chức năng thế giới quan
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, tư tưởng khái quát của con người về thế giới (bao
gồm cả con người trong thế giới đó), về mối quan hệ giữa con người với thế giới. Thế giới quan phản ánh
hiện thực bên ngoài gián tiếp qua các nhu cầu, lợi ích, các lý tưởng mang tính cá nhân hay xã hội. Xét về
phương thức biểu hiện, triết học là thế giới quan lý luận, là hệ thống các tư tưởng được xây dựng trên cơ

sở tổng kết thực tiễn và nhận thức. Xét về tính chất, triết học là sự khái quát chung nhất, mang đặc trưng
tư duy tổng hợp.
Trong thế giới quan có niềm tin và tri thức. Tri thức chỉ tham gia vào thế giới quan khi trở thành
niềm tin định hướng cho con người trong hoạt động.
Thế giới quan là nhân tố định hướng cho con người tiếp tục quá trình nhận thức thế giới xunh
quanh, cũng như tự nhận thức bản thân mình, và đặc biệt là từ đó con người xác định thái độ, cách thức
hoạt động và sinh sống của mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề hình thành nhân sinh quan tích cực
tiến bộ.

3

4

Trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng, Lý luận về nhà nước và pháp luật, Đà Nẵng, 2010

Hoàng Thị Kim Quế, Triết học pháp luật trong hệ thống các khoa học pháp lý. Tập chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế Luật 23(2007), tr.50


8
Triết học phản ánh thế giới một cách chỉnh thể và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng lý
luận, tức là diễn tả thế giới quan dưới dạng hệ thống các phạm trù, nguyên lý, quy luật. Nói cách khác,
triết học là lý luận về thế giới, là hạt nhân lý luận của thế giới quan.
Do đó, thế giới quan là cơ sở lý luận cho các ngành khoa học cụ thể, trong đó có ngành khoa học
pháp lý.
1.2. Chức năng phương pháp luận
Triết học cung cấp cho con người một thế giới quan xác định, tức là một quan niệm nhất định về
thế giới. Trên cơ sở quan niệm về thế giới này mà con người nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây
dựng, lựa chọn và vận dụng phương phương pháp. Phương pháp thường được chia thành phương pháp
luận ngành; phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất. Triết học thực hiện chức năng

phương pháp luận chung nhất.
Chức năng phương pháp luận của triết học thể hiện ở chỗ nó cung cấp cho con người một số
những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo việc xác định phương pháp, khả năng áp dụng phương pháp hợp lý,
hiệu quả nhất trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Như vậy, phương pháp luận có chức năng là cơ sở phương pháp luận cho các ngành khoa học cụ
thể, bao gồm cả ngành khoa học pháp lý.
2. Chức năng riêng của triết học đối với nghiên cứu khoa học pháp lý 5
Chức năng riêng biệt của triết học đối với nghiên cứu khoa học pháp lý được thể hiện thông qua
một dạng cụ thể của triết học là triết học pháp luật. Triết học pháp luật được coi là một trong những
cách thức cơ bản về tiếp cận pháp luật, nhà nước.
Triết học pháp luật (THPL) xuất hiện từ thời cổ đại như là khát vọng mong muốn đạt được nhận
thức quy luật tồn tại của pháp luật, mục đích và nhiệm vụ, khả năng, ưu điểm và hạn chế của pháp luật.
Với tư cách là khoa học pháp lý độc lập, THPL có nhiệm vụ thực hiện những chức năng khoa học chung,
có tính chất phương pháp luận, nhận thức luận và là bộ môn khoa học liên ngành của luật học và triết
học. THPL nghiên cứu ý nghĩa, bản chất, khái niệm pháp luật, các cơ sở tồn tại và vị trí của pháp luật
trong xã hội, giá trị và tầm quan trọng của pháp luật, vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội. THPL có
nhiệm vụ tìm kiếm chân lý trong pháp luật, tính công bằng, nhân văn của pháp luật. THPL không chỉ
nghiên cứu pháp luật, mà còn nghiên cứu cả nhà nước, mặc dù trọng tâm là pháp luật.
THPL là một khoa học liên ngành giữa luật học và triết học. Ví dụ như vấn đề triết học trong lĩnh
vực pháp luật lao động, trong lĩnh vực tội phạm và hình phạt, xu hướng vận động của tội phạm cũng như
hình phạt, mối quan hệ biện chứng giữa tự do và trách nhiệm trong trách nhiệm hình sự v.v… Hoặc, trong
lĩnh vực luật hiến pháp, tư duy triết học là cơ sở khoa học cho các nguyên tắc và quy tắc hiến pháp.
5

Tham khảo: Hoàng Thị Kim Quế, Triết học pháp luật trong hệ thống các khoa học pháp lý. Tập chí Khoa học
ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 23(2007), tr.50-56


9
Đối tượng nghiên cứu của THPL trong bối cảnh hiện nay là nhận thức – quan niệm pháp luật; mối

quan hệ giữa đạo đức, pháp luật, dân chủ, tự do; nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn; mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật; mối quan hệ giữa Nhà
nước pháp quyền và xã hội dân sự, Nhà nước pháp quyền và quyền con người; những vấn đề triết học cơ
bản khác thuộc các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành
Mối quan tâm chính của THPL là ý nghĩa, vị trí, vai trò của pháp luật và luật học trong thế giới quan
triết học, trong hệ thống các học thuyết triết học về thế giới, về xã hội, con người, hình thức và quy phạm
của đời sống xã hội, về con đường và phương pháp nhận thức, về hệ thống các giá trị pháp luật, giá trị
đạo đức, giá trị tôn giáo v.v… THPL nói một cách đơn giản nhất là sự tiếp cận pháp luật từ phương diện
triết học - hay những vấn đề triết học của pháp luật.
THPL nghiên cứu bản chất, vai trò, giá trị của pháp luật, lý luận pháp luật nghiên cứu nội dung bên
trong và mối tương quan của các quy phạm pháp luật, các quan hệ pháp luật; các kỹ năng áp dụng pháp
luật, còn xã hội học pháp luật - chính là thực tiễn pháp luật, là mối tương tác đa chiều giữa pháp luật và
các nhân tố xã hội. Vấn đề quyền con người trong pháp luật cũng phải tiếp cận từ phương diện triết học
pháp luật, trong đó có mối quan hệ giữa quyền con người và sự giới hạn quyền lực nhà nước, giới hạn cả
bản thân quyền con người, tương quan giữa quyền con người và lợi ích công cộng...
THPL có nhiệm vụ tìm kiếm chân lý trong pháp luật. Pháp luật do công quyền quy định, người đại
diện chính thức cho toàn xã hội, song nói đến pháp luật còn phải xem xét đến tính chân lý, công bằng,
tính đúng đắn, tính nhân văn.
Trong THPL có một phần quan trọng đó là lý luận nhận thức pháp luật, mà cơ sở của nó là vấn đề
sự khác biệt và tương quan giữa pháp luật và luật.

Đề bài: Khái niệm bản thể luận, nhận thức luận. Phân biệt bản thể luận
với nhận thức luận. Sự đối lập tương đối giữa bản thể luận và nhận thức luận.
Bài làm:
1. Khái niệm bản thể luận, nhận thức luận
Bản thể luận (ontology) là lý luận nghiên cứu về bản chất cuối cùng của mọi
sự tồn tại. Về mặt từ gốc, trong tiếng Hy Lạp, khái niệm này là một từ ghép giữa
“on” (ontos) là hữu thể, tồn tại với “logos” (logia) là “khoa học, nghiên cứu, học
thuyết” có nghĩa là một học thuyết về sự tồn tại tự thân. Bản thể luận nhằm trả lời
cho câu hỏi thế giới có tồn tại hay không? Vật chất và ý thức, cái nào có trước và

cái nào quyết định cái nào?


10

Khái niệm bản thể luận được dùng trong các trường phái triết học trước Mác
được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Bản thể luận theo nghĩa rộng để chỉ
bản chất của mọi tồn tại, mà bản chất này phải thông qua nhận thức luận mới có
thể nhận thức được. Do đó, nghiên cứu bản chất cuối cùng của mọi tồn tại là bản
thể luận, còn nghiên cứu nhận thức như thế nào là nhận thức luận. Cách tiếp cận
này tạo ra sự đối lập tương đối giữa bản thể luận và nhận thức luận. Bản thể luận
theo nghĩa hẹp tức là trong bản thể luận theo nghĩa rộng lại có hai nội dung, một là
nghiên cứu khởi nguyên và kết cấu của vũ trụ, hai là nghiên cứu bản chất của vũ
trụ, cái thứ nhất là vũ trụ luận, cái thứ hai là bản thể luận. Cách tiếp cận này tạo ra
sự đối lập tương đối giữa bản thể luận và vũ trụ luận. Cả hai nghĩa của Bản thể luận
này vẫn được đồng thời sử dụng trong triết học phương Tây hiện đại. Phần lớn các
trường phái triết học phương Tây trước Mác đề hiểu “bản thể luận” theo nghĩa rộng
từ đó xây dựng nên học thuyết bản thể luận và nhận thức luận của mình, tuy nhiên
giữa bản thể luận và nhận thức luận có mối quan hệ tương hỗ với nhau.
Theo quan điểm của Mác, bản thể luận là một học thuyết dùng để chỉ tất cả
những quy luật vận động, tồn tại và phát triển chung nhất của mọi sự vật, hiện
tượng. Triết học Mác - Lê Nin nhận thức sự tồn tại của thế giới như một chỉnh thể
mà bản chất của sự tồn tại này chính là vật chất. Ăng ghen đã nêu lên cách tiếp cận
mới đối với việc giải quyết vấn đề về bản chất, nguồn gốc và tính thống nhất của
mọi tồn tại trong thế giới theo lập trường duy vật hiện đại, đó là sự tồn tại của thế
giới là tiền đề cho sự thống nhất của nó; song sự thống nhất của thế giới không phải
ở sự tồn tại của nó. Ăng ghen viết: “Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự
tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của tính thống nhất của nó, vì trước khi thế
giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã”6.
Triết học Mác- Lê nin chứng minh bản chất của thế giới là vật chất, thế giới

thống nhất ở tính vật chất. Điều này thể hiện ở những điểm cơ bản sau:
6

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.67.


11

Một là, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất. Thế
giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức của con người.
Hai là, mọi bộ phận của thế giới vật chất đều có mối liên hệ thống nhất với
nhau, biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất, là những kết
cấu vật chất, do vật chất sinh ra và chịu sự chi phối của các quy luật khách quan
phổ biến của thế giới vật chất.
Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn và vô tận. Vật chất không
được sinh ra và không bị mất đi mà chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác.
Trong thế giới không có nơi nào và lúc nào có gì khác ngoài những quá trình vật
chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau, là nguồn gốc, nguyên nhân và kết quả
của nhau.
Các quan điểm của nhất nguyên luận (duy vật, duy tâm) và nhị nguyên luận
về bản thể luận:
Quan điểm nhất nguyên luận là quan điểm chỉ thừa nhận có một thực thể duy
nhất nào đó hoặc là vật chất hoặc là tinh thần sinh ra thực thể kia. Quan điểm nhất
nguyên luận hình thành nên hai trường phái: Nhất nguyên luận duy vật và nhất
nguyên luận duy tâm. Trong đó:
Quan điểm của nhất nguyên luận duy vật: Vật chất có trước, ý thức có sau và
vật chất quyết định ý thức.
Quan điểm của nhất nguyên luận duy tâm: Ý thức có trước, vật chất có sau
và ý thức quyết định vật chất.
Quan điểm của trường phái nhị nguyên luận là thừa nhận sự cùng tồn tại của

cả hai thực thể vật chất và ý thức. Không thực thể nào sinh ra, quyết định thực thể
nào và mỗi thực thể lại có những đặc tính riêng.
Nhận thức luận là khuynh hướng triết học nghiên cứu về bản chất, nguồn
gốc, và phạm vi của quá trình nhận thức. Nhận thức luận bàn tới việc con người có
nhận thức được sự tồn tại của sự vật hiện tượng hay không và con người nhận thức


12

như thế nào về những tồn tại đó. Nếu như con người có thể nhận thức được thì có
thể cải tạo sự vật và ngược lại sẽ bị lệ thuộc, nô lệ.
Nhận thức luận được định hình cùng với sự xuất hiện của triết học với tư
cách là một phân môn triết học nền tảng. Mọi nhận thức luận đều nghiên cứu bản
chất của nhận thức, khả năng nhận thức của con người về các đối tượng hiện thực,
các thuộc tính, mối liên hệ giữa chúng, về các tính quy luật cơ bản của quá trình
nhận thức từ quan niệm hời hợt về đối tượng đến việc nắm bắt bản chất của nó, về
nguồn gốc và các phương pháp nhận thức, về các hình thức diễn ra quá trình nhận
thức và liên quan đến điều này, nó nghiên cứu con đường đạt tới chân lí, các tiêu
chuẩn của chân lí. Trình bày những nguyên tắc xuất phát điểm của lí luận nhận
thức, Lê Nin viết: “Sự sống sinh ra bộ óc. Giới tự nhiên được phản ánh trong bộ
óc của người. Trong khi kiểm nghiệm và áp dụng sự đúng đắn của những phản ánh
ấy vào thực tiễn của mình và trong kỹ thuật, con người đạt tới chân lí khách
quan”7.
Vấn đề cơ bản và thời sự nhất của nhận thức luận vẫn là vấn đề tri thức đáng
tin cậy về thế giới. Mục đích trực tiếp của mọi nhận thức là sáng tạo ra các loại tri
thức với những trình độ khác nhau, nhưng mục đích cuối cùng của nhận thức là để
phục vụ sự phát triển của thực tiễn. Trải qua nhiều thế kỷ, con người vẫn luôn quan
tâm tới vấn đề nhận thức diễn ra như thế nào? Con người có nhận thức được thế
giới hay không? Đó là vấn đề không dễ gì có câu trả lời. Trên thực tế, hiện thực là
vô tận, còn con người là hữu hạn. Vì vậy, trong giới hạn, con người khó có thể

nhận thức được cái vô hạn. Con người luôn tìm cách để trả lời câu hỏi này và hình
thành nên các xu hướng cơ bản trả lời câu hỏi đó: khả tri luận (con người có thể
nhận thức được thế giới); bất khả tri luận (phủ định khả năng nhận thức thế giới của
con người) và hoài nghi luận (không phủ định tính nhận thức được thế giới nhưng
lại nghi ngờ tính đáng tin cậy của tri thức).
7

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 29, tr.125


13

2. Phân biệt bản thể luận và nhận thức luận
Bản thể luận và nhận thức luận là hai vấn đề cơ bản của triết học. Hai vấn đề
cơ bản này khác nhau như thế nào?
Thứ nhất, bản thể luận nghiên cứu về bản chất cuối cùng của mọi tồn tại.
Nhận thức luận nghiên cứu về khả năng nhận thức của con người, con người nhận
thức như thế nào về các sự tồn tại đó. Ví dụ: Sự tồn tại của một cái cây đó là bản
thể luận (cái cây đó sinh ra, lớn lên, đơm hoa kết trái,...). Con người nhận thức về
cái cây đó như thế nào là nhận thức luận (cái cây đó to, cao như nào, có thể dùng để
làm gì,...).
Thứ hai, bản thể luận nghiên cứu vấn đề thứ nhất của triết học đó là mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức (vật chất và ý thức, cái nào có trước? Cái nào quyết
định cái nào). Trong khi đó nhận thức luận giải quyết vấn đề thứ hai của triết học
đó là con người có nhận thức được thế giới hay không?
Thứ ba, về chủ thể. chủ thể của bản thể luận là mọi sự tồn tại còn chủ thể của
nhận thức là con người (bởi cá thể người có khả năng phản ánh vào ý thức của
mình những đối tượng hiện thực).
3. Sự đối lập tương đối giữa bản thể luận và nhận thức luận.
Bản thể luận và nhận thức luận có sự đối lập tương đối. Bản thể luận và nhận

thức luận có mối liên hệ với nhau nhưng lại khác nhau.
Bản thể luận là chỉ sự tồn tại của tất cả các sự vật hiện tượng, đang diễn ra ở
chính bản thân nó. Nó không cần biết con người có nhận thức được nó hay không,
biết về nó hay không. Nó vẫn tồn tại như vậy mà không phụ thuộc vào nhận thức
của con người (chỉ tồn tại khách quan). Tuy nhiên, bản thể luận nghiên cứu sự tồn
tại của tất cả các sự vật hiện tượng, bao gồm cả thế giới vật chất và ý thức của con
người.


14

Nhận thức luận lại bàn tới việc con người có nhận thức được sự tồn tại của
sự vật hiện tượng hay không. Nếu con người có thể nhận thức được thì có thể cải
tạo được sự vật, nếu không nhận thức được con người sẽ bị lệ thuộc và thống trị.
Sự nhận thức của con người là một quá trình, nó phụ thuộc vào trình độ nhận thức
của con người ở từng giai đoạn. Do đó có thể chúng ta nhận thức được hoặc chưa
nhận thức được và cũng có thể chúng ta nhận thức đúng hay nhận thức sai về sự vật
đó. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ nhận thức của con người (chỉ tồn tại chủ
quan trong đầu óc của con người thông qua hoạt động tư duy).
Sự đối lập của bản thể luận và nhận thức luận chỉ có ý nghĩa tương đối mà
không phải tuyệt đối vì chúng ta không nên cho rằng bất kỳ thời gian, không gian
nào bản thể luận cũng quyết định nhận thức luận mà ngược lại, đôi khi trong mối
quan hệ xác định, không gian và thời gian xác định nhận thức luận có thể quyết
định bản thể luận (nhận thức, cải tạo thế giới của con người).
Bản thể luận và nhận thức luận luôn nằm trong mối liên hệ thống nhất với
nhau, không tách rời. Mối liên hệ này được thể hiện thông qua mối liên hệ giữa thế
giới khách quan và con người. Lênin khẳng định: “thế giới khách quan quyết định
sự tồn tại của con người, con người có sự tác động trở lại đối với thế giới khách
quan, đôi khi trong những điều kiện cụ thể nhất định có ý nghĩa quyết định đối với
thế giới khách quan đó”.

I. Khái lược về triết học và khoa học pháp lý
1. Triết học
Triết học ra đời khoảng thế kỷ VIII-VI trước Công nguyên, theo tiếng Hy Lạp cổ, triết học được ghép
từ 2 từ “philos - tình yêu” và “sophia - sự thông thái”. Theo nghĩa đen, triết học là tình yêu đối với sự
thông thái. Ngày nay, triết học được hiểu là một hệ thống những quan điểm, quan niệm về những vấn đề
chung nhất của thế giới, về thái độ của con người đối với thế giới.
Đối tượng nghiên cứu của triết học là toàn bộ thế giới trong tính chỉnh thể, bao gồm tự nhiên, xã
hội loài người và tư duy. Trong quá trình phát triển của mình, đối tượng triết học thay đổi theo từng giai
đoạn lịch sử. Sự ra đời của triết học Mác đánh dấu sự đoạn tuyệt với quan niệm triết học là khoa học của


15
các khoa học và tiếp tục nghiên cứu mối quan hệ giữa vật chất và ý thức cũng như những quy lụât chung
nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện đại là vấn đề
quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Vấn đề cơ bản này có hai mặt:
- Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi giữa vật chất và ý thức (tồn tại và tư duy), cái nào có trước, cái
nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? (ý
thức có thể phản ánh được vật chất hay không?).
2. Khoa học pháp lý
Khoa học pháp lý là một bộ phận cấu thành của khoa học xã hội. Khoa học pháp lý nghiên cứu các
phương diện khoa học xã hội, các quan hệ xã hội khi các phương diện xã hội và quan hệ đó được thể hiện
dưới những hình thức pháp lý nhất định.
Khoa học pháp lý nghiên cứu nội dung bên trong và mối quan hệ của các quy phạm pháp luật,
quan hệ pháp luật.
Hệ thống khoa học pháp lý là một chỉnh thể tạo nên một lĩnh vực chuyên biệt của nhận thức đó là
luật học. Hệ thống có thể chia làm 03 nhóm theo những tính chất riêng:
Thứ nhất, các khoa học lý luận - lịch sử pháp lý gồm: lý luận về nhà nước và pháp luật, lịch sử nhà
nước và pháp luật, lịch sử các học thuyết chính trị - pháp lý.

Thứ hai, các khoa học pháp lý chuyên ngành gồm: luật hiến pháp, luật hành chính, luật hình sự,
luật dân sự, luật tố tụng hình sự, luật tố tụng dân sự, luật tài chính, luật kinh tế...
Thứ ba, các khoa học pháp lý ứng dụng gồm: điều tra tội phạm, thống kê tư pháp, tâm lý tư pháp,
tội phạm học v.v...8
Khoa học pháp lý có đặc trưng tiêu biểu là nghiên cứu các khái niệm, các phạm trù, các nguyên tắc
pháp luật, hệ thống pháp luật thực định, đương nhiên không chỉ nghiên cứu bản thân hệ thống pháp luật
thực định mà cả những nguyên lý tạo thành, áp dụng, vận động và phát triển của pháp luật. 9
II. Chức năng của triết học đối với việc nghiên cứu khoa học pháp lý
Khoa học pháp lý là một ngành cụ thể của khoa học. Triết học có chức năng quan trọng trong
nghiên cứu khoa học, trong đó có khoa học pháp lý. Như vậy, đối với nghiên cứu khoa học pháp lý, triết
8

9

Trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng, Lý luận về nhà nước và pháp luật, Đà Nẵng, 2010

Hoàng Thị Kim Quế, Triết học pháp luật trong hệ thống các khoa học pháp lý. Tập chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế Luật 23(2007), tr.50


16
học vừa có chức năng chung đối với nghiên cứu khoa học, vừa có những chức năng riêng biệt dành cho
nghiên cứu khoa học pháp lý.
1. Chức năng chung của triết học
Khi nói đến vai trò của triết học chúng ta thường nói đến vai trò thế giới quan và phương pháp
luận của nó.
1.1. Chức năng thế giới quan
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, tư tưởng khái quát của con người về thế giới (bao
gồm cả con người trong thế giới đó), về mối quan hệ giữa con người với thế giới. Thế giới quan phản ánh
hiện thực bên ngoài gián tiếp qua các nhu cầu, lợi ích, các lý tưởng mang tính cá nhân hay xã hội. Xét về
phương thức biểu hiện, triết học là thế giới quan lý luận, là hệ thống các tư tưởng được xây dựng trên cơ

sở tổng kết thực tiễn và nhận thức. Xét về tính chất, triết học là sự khái quát chung nhất, mang đặc trưng
tư duy tổng hợp.
Trong thế giới quan có niềm tin và tri thức. Tri thức chỉ tham gia vào thế giới quan khi trở thành
niềm tin định hướng cho con người trong hoạt động.
Thế giới quan là nhân tố định hướng cho con người tiếp tục quá trình nhận thức thế giới xunh
quanh, cũng như tự nhận thức bản thân mình, và đặc biệt là từ đó con người xác định thái độ, cách thức
hoạt động và sinh sống của mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề hình thành nhân sinh quan tích cực
tiến bộ.
Triết học phản ánh thế giới một cách chỉnh thể và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng lý
luận, tức là diễn tả thế giới quan dưới dạng hệ thống các phạm trù, nguyên lý, quy luật. Nói cách khác,
triết học là lý luận về thế giới, là hạt nhân lý luận của thế giới quan.
Do đó, thế giới quan là cơ sở lý luận cho các ngành khoa học cụ thể, trong đó có ngành khoa học
pháp lý.
1.2. Chức năng phương pháp luận
Triết học cung cấp cho con người một thế giới quan xác định, tức là một quan niệm nhất định về
thế giới. Trên cơ sở quan niệm về thế giới này mà con người nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống các quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây
dựng, lựa chọn và vận dụng phương phương pháp. Phương pháp thường được chia thành phương pháp
luận ngành; phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất. Triết học thực hiện chức năng
phương pháp luận chung nhất.
Chức năng phương pháp luận của triết học thể hiện ở chỗ nó cung cấp cho con người một số
những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo việc xác định phương pháp, khả năng áp dụng phương pháp hợp lý,
hiệu quả nhất trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.


17
Như vậy, phương pháp luận có chức năng là cơ sở phương pháp luận cho các ngành khoa học cụ
thể, bao gồm cả ngành khoa học pháp lý.
2. Chức năng riêng của triết học đối với nghiên cứu khoa học pháp lý 10
Chức năng riêng biệt của triết học đối với nghiên cứu khoa học pháp lý được thể hiện thông qua

một dạng cụ thể của triết học là triết học pháp luật. Triết học pháp luật được coi là một trong những
cách thức cơ bản về tiếp cận pháp luật, nhà nước.
Triết học pháp luật (THPL) xuất hiện từ thời cổ đại như là khát vọng mong muốn đạt được nhận
thức quy luật tồn tại của pháp luật, mục đích và nhiệm vụ, khả năng, ưu điểm và hạn chế của pháp luật.
Với tư cách là khoa học pháp lý độc lập, THPL có nhiệm vụ thực hiện những chức năng khoa học chung,
có tính chất phương pháp luận, nhận thức luận và là bộ môn khoa học liên ngành của luật học và triết
học. THPL nghiên cứu ý nghĩa, bản chất, khái niệm pháp luật, các cơ sở tồn tại và vị trí của pháp luật
trong xã hội, giá trị và tầm quan trọng của pháp luật, vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội. THPL có
nhiệm vụ tìm kiếm chân lý trong pháp luật, tính công bằng, nhân văn của pháp luật. THPL không chỉ
nghiên cứu pháp luật, mà còn nghiên cứu cả nhà nước, mặc dù trọng tâm là pháp luật.
THPL là một khoa học liên ngành giữa luật học và triết học. Ví dụ như vấn đề triết học trong lĩnh
vực pháp luật lao động, trong lĩnh vực tội phạm và hình phạt, xu hướng vận động của tội phạm cũng như
hình phạt, mối quan hệ biện chứng giữa tự do và trách nhiệm trong trách nhiệm hình sự v.v… Hoặc, trong
lĩnh vực luật hiến pháp, tư duy triết học là cơ sở khoa học cho các nguyên tắc và quy tắc hiến pháp.
Đối tượng nghiên cứu của THPL trong bối cảnh hiện nay là nhận thức – quan niệm pháp luật; mối
quan hệ giữa đạo đức, pháp luật, dân chủ, tự do; nghiên cứu mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức
trong nhận thức và hoạt động thực tiễn; mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật; mối quan hệ giữa Nhà
nước pháp quyền và xã hội dân sự, Nhà nước pháp quyền và quyền con người; những vấn đề triết học cơ
bản khác thuộc các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành
Mối quan tâm chính của THPL là ý nghĩa, vị trí, vai trò của pháp luật và luật học trong thế giới quan
triết học, trong hệ thống các học thuyết triết học về thế giới, về xã hội, con người, hình thức và quy phạm
của đời sống xã hội, về con đường và phương pháp nhận thức, về hệ thống các giá trị pháp luật, giá trị
đạo đức, giá trị tôn giáo v.v… THPL nói một cách đơn giản nhất là sự tiếp cận pháp luật từ phương diện
triết học - hay những vấn đề triết học của pháp luật.
THPL nghiên cứu bản chất, vai trò, giá trị của pháp luật, lý luận pháp luật nghiên cứu nội dung bên
trong và mối tương quan của các quy phạm pháp luật, các quan hệ pháp luật; các kỹ năng áp dụng pháp
luật, còn xã hội học pháp luật - chính là thực tiễn pháp luật, là mối tương tác đa chiều giữa pháp luật và
các nhân tố xã hội. Vấn đề quyền con người trong pháp luật cũng phải tiếp cận từ phương diện triết học
pháp luật, trong đó có mối quan hệ giữa quyền con người và sự giới hạn quyền lực nhà nước, giới hạn cả
bản thân quyền con người, tương quan giữa quyền con người và lợi ích công cộng...

10

Tham khảo: Hoàng Thị Kim Quế, Triết học pháp luật trong hệ thống các khoa học pháp lý. Tập chí Khoa học
ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 23(2007), tr.50-56


18
THPL có nhiệm vụ tìm kiếm chân lý trong pháp luật. Pháp luật do công quyền quy định, người đại
diện chính thức cho toàn xã hội, song nói đến pháp luật còn phải xem xét đến tính chân lý, công bằng,
tính đúng đắn, tính nhân văn.
Trong THPL có một phần quan trọng đó là lý luận nhận thức pháp luật, mà cơ sở của nó là vấn đề
sự khác biệt và tương quan giữa pháp luật và luật.

Đề bài: Lịch sử hình thành, phát triển của khái niệm “biện chứng” và
“siêu hình”
Bài làm
Lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển của tư duy gắn liền với sự
ra đời của hai khái niệm “Biện chứng” và “Siêu hình”, từ đó dần dần hình thành
hai phương pháp biện chứng và siêu hình đấu tranh với nhau. Chính cuộc đấu tranh
của hai phương pháp này đã thúc đẩy triết học phát triển và được hoàn thiện với
thắng lợi của phương pháp biện chứng duy vật. Thuật ngữ biện chứng và siêu hình
đều xuất hiện ở thời kỳ Hi Lạp cổ đại trong triết học của Hêraclit, Xô-crát, Platôn
và Arixtốt.
1. Lịch sử hình thành, phát triển của khái niệm “siêu hình”
Thuật ngữ “siêu hình” có nguồn gốc từ chữ “Metaphysique” một từ Hy Lạp
cổ với nghĩa là “những gì sau vật lí”. Nó được đưa vào sử dụng lần đầu vào thế kỷ I
trước công nguyên để gọi tên một nhóm các tác phẩm của Arixtốt về “tồn tại tự
thân” được chính ông xác định như là “triết học thứ nhất” nghiên cứu những
“khởi điểm và nguyên nhân đầu tiên”.
Tuy nhiên, hàm nghĩa siêu hình được coi như là phương thức tư duy triết học

đã xuất hiệt từ rất lâu trước Arixtốt và được phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỷ XV


19

đến thế kỷ XVIII, với việc phương pháp siêu hình xuất hiện trong khoa học tự
nhiên: lúc đầu là sự phát triển của khoa học thực nghiệm, khoa học chia nhỏ tự
nhiên thành những bộ phận để nghiên cứu và đã làm xuất hiện thói quen xem xét sự
vật ở trạng thái cô lập, tách rời, bất biến trong quá trình nghiên cứu. Điều đó đã
mang lại những thành tựu nhất định cho sự phát triển của khoa học tự nhiên nói
chung. Về sau Bêcơn, Lốccơ chuyển từ khoa học tự nhiên sang triết học trở thành
phương pháp siêu hình thống trị trong tư duy triết học thế kỷ XVII-XVIII.
Từ Hegel, thuật ngữ “siêu hình” được dùng theo nghĩa là phương pháp khảo
sát, phản ánh sự tồn tại của đối tượng (được hiểu rộng ra là các sự vật, hiện tượng,
quá trình...) vào ý thức con người ở trạng thái cô lập, không liên hệ gì với những
đối tượng khác và ở trạng thái tĩnh tại, đứng yên, không vận động, không phát triển,
nếu có thì cũng chỉ là những sự thay đổi đơn thuần về lượng chứ không phải về
chất. Phương pháp khảo sát đối tượng như vậy mang tính một chiều, tuyệt đối hóa
một mặt của đối tượng, phủ nhận các khâu trung gian, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa
chúng.
Những người tư duy theo phương pháp siêu hình chỉ dựa trên những luận
điểm tuyệt đối không thể dung hòa theo nguyên tắc đồng nhất trừu tượng: có là có,
không là không; hoặc tồn tại hoặc không tồn tại; đối tượng không thể vừa là chính
nó lại vừa là cái khác nó; cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau.
Ăngghen nhận xét phương pháp tư duy siêu hình: “chỉ nhìn thấy những sự vật
riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn
thấy sự tồn tại của sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của
những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự
vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”11.
Từ cuối thế kỷ XVIII sang thế kỷ XIX, khi việc nghiên cứu tiến lên giai đoạn

nghiên cứu về các quá trình, về sự phát sinh, phát triển của sự vật, thì phương pháp
11

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, trang 37-38, NXB Chính trị quốc gia.


20

siêu hình không còn đáp ứng được yêu cầu của nhận thức khoa học nữa (vật lý học
khủng hoảng). Và, những kết quả nghiên cứu mới trong vật lý và sinh học,... đã đòi
hỏi phải có một cách nhìn biện chứng về thế giới. Từ đó, phương pháp tư duy biện
chứng phát huy thế mạnh, thay thế cho phương pháp tư duy siêu hình và trở thành
phương pháp thống trị trong tư duy khoa học.
2. Lịch sử hình thành, phát triển của khái niệm “biện chứng”
Thuật ngữ “Biện chứng” trong tiếng Hi Lạp cổ là Dialektika, được dùng với
nghĩa vừa như là lí luận, đồng thời là phương pháp khảo sát, phản ánh đối tượng
trong trạng thái liên hệ, ràng buộc, tác động qua lại lẫn nhau và trong quá trình vận
động, phát triển không ngừng. Phương pháp tư duy như vậy cho phép không chỉ
thấy những đối tượng cá biệt, mà còn thấy các quan hệ giữa chúng; không chỉ thấy
sự tồn tại của đối tượng mà còn thấy sự sinh thành và tiêu vong của nó; không chỉ
thấy ở trạng thái tĩnh mà còn thấy ở trạng thái động của đối tượng. Theo Ăngghen,
phương pháp biện chứng “xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng
trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc,
sự vận động, sự phát sinh và tiêu vong của chúng”12. Việc nhận thức và vận dụng
“phép biện chứng” đã có một lịch sử dài lâu, và khác với “phép siêu hình”, ngày
nay nó vẫn được tiếp tục hoàn thiện và phát triển.
2.1. Phép biện chứng chất phác thời kỳ cổ đại
Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại cả ở phương Đông và phương Tây.
Từ đó đến nay, sự phát triển của nó đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau gắn liền
với sự phát triển của khoa học và thực tiễn.

Ở phương Tây, lần đầu tiên thuật ngữ “biện chứng” xuất hiện ở Hi Lạp cổ
đại và được hiểu là “nghệ thuật sử dụng ngôn từ một cách có lí lẽ”. Nói rộng ra
theo nghĩa trên thì “biện chứng” là nghệ thuật hành văn nhằm giải thích các tư
tưởng cho người đối thoại và buộc người đó phải tán thành chúng. Đó vừa là nghệ
12

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, trang 38, NXB Chính trị quốc gia.


21

thuật chứng minh, vừa là nghệ thuật bắt bẻ. Người ta biết đến thuật ngữ “biện
chứng” với phép biện chứng tự phát của Hêraclít (người được coi như là ông tổ của
phép biện chứng) sau đó phép biện chứng này đã lùi bước trước phép biện chứng
duy tâm của Xô-crát, Platôn. Phép biện chứng thời kỳ này là tính chất phác, thuần
phát tự nhiên. Các nhà triết học thời kỳ này nghiên cứu sự vận động, phát triển của
đối tượng trong bức tranh chung, tổng thể về thế giới. Do trình độ khoa học chưa
phát triển nên phép biện chứng cổ đại mới chỉ là những quan điểm biện chứng mộc
mạc, mang tính phỏng đoán trên cơ sở kinh nghiệm trực quan mà chưa được minh
chứng bằng các tri thức khoa học.
2.2. Phép biện chứng duy tâm
Phép biện chứng duy tâm đã dần thay thế cho phép biện chứng tự phát và
đỉnh cao của phép biện chứng duy tâm được thể hiện trong triết học cổ điển Đức
thế kỷ XVIII - XIX. Người khởi đầu của phép biện chứng duy tâm của triết học cổ
điển Đức là Kant rồi đến Fichte, Schelling và phát triển đến đỉnh cao trong phép
biện chứng duy tâm của Hegel. Ăngghen khẳng định: “Hình thức thứ hai của phép
biện chứng, hình thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết
học cổ điển Đức từ Kant đến Hegel”13.
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hegel đã đặt toàn bộ giới tự nhiên, lịch
sử và tinh thần vào một quá trình vận động không ngừng, biến đổi, tự cải tạo và

phát triển. Ông cũng đã cố vạch ra mối liên hệ trong sự vận động và phát triển đó,
đã áp dụng phép biện chứng vào nghiên cứu các lĩnh vực đời sống xã hội khác
nhau. Qua đó xây dựng được hệ thống phạm trù, quy luật chung, thống nhất, chặt
chẽ về logic của nhận thức lẫn tinh thần, và ở một ý nghĩa nhất định là của cả hiện
thực vật chất. Học thuyết của Hegel về việc mọi cái đều tất yếu dẫn đến phủ định
bản thân mình, bao hàm cả nhân tố cách mạng hóa cuộc sống và tư tưởng.

13

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, trang 491,492, NXB Chính trị quốc gia.


22

Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức với cách nhìn biện
chứng về thế giới mang lại nhiều thành tựu mới trong các khoa học, song lại bị hạn
chế bởi quan điểm duy tâm. Tính duy tâm thể hiện ở chỗ ý niệm tuyệt đối có trước
“tự tha hóa” chuyển thành giới tự nhiên và sau đó lại trở về với bản thân mình
trong tinh thần thế giới. Ở Hêghen“sự phát triển biện chứng của thế giới chỉ thể
hiện là sự tự vận động của ý niệm tuyệt đối mà thôi”. Theo Lênin, những kết luận
của nó là những phỏng đoán tài tình về “biện chứng của sự vật trong biện chứng
của khái niệm”14. Phép biện chứng trong triết học duy tâm cổ điển Đức đã hoàn
thành cuộc cách mạng về phương pháp, nhưng cuộc cách mạng đó lại ở tận trên
trời, không có thực và do vậy phép biện chứng đó cũng “không tránh khỏi tính
chất gò ép, giả tạo, hư cấu, tóm lại là bị xuyên tạc”15.
2.3. Phép biện chứng duy vật
Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức thể kỷ XVIII-XIX đã
đạt được những thành tựu to lớn nhất định, đỉnh cao là phép biện chứng của Hegel.
Tuy nhiên, tính chất duy tâm là cái cần bị gạt bỏ. Đến giữa thế kỷ XIX, khi khoa
học tự nhiên tiến đến giai đoạn khái quát, nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển

của đối tượng trên quan điểm duy vật, thì tất yếu phép biện chứng duy tâm cổ điển
Đức phải bị phủ định và thay thế bằng phép biện chứng duy vật và chỉ có Mác và
Ăng ghen mới sáng tạo được một quan niệm thật sự khoa học về phép biện chứng.
Họ đã kế thừa và phát triển sáng tạo những “hạt nhân hợp lý” trong lịch sử tư tưởng
triết học nhân loại, trực tiếp là phép biện chứng duy tâm của Hegel và đặt nó trên
nền tảng duy vật. Mác và Ăngghen đã cải tạo nó bằng cách chứng minh rằng những
ý niệm trong đầu óc của chúng ta chẳng qua chỉ là sự phản ánh các sự vật, hiện
tượng của tự nhiên, do vậy bản thân biện chứng của ý niệm cũng chỉ là sự phản ánh
quá trình biện chứng của thế giới hiện thực.

14
15

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 29, 1981, trang 209, NXB Chính trị quốc gia.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, trang 41, NXB Chính trị quốc gia.


23

Mác và Ăngghen đã xây dựng phép biện chứng trên cơ sở duy vật về lịch sử
với sự đưa vào triết học phạm trù “thực tiễn” và sự phát triển của nhận thức, trên cơ
sở tổng kết những quá trình thực đang xảy ra trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong phép biện chứng duy vật, những quy luật phát triển của tồn tại và của nhận
thức được kết hợp một cách hữu cơ, bởi những quy luật đó về nội dung là thống
nhất, chỉ khác nhau về hình thức. Vì vậy, phép biện chứng duy vật không chỉ là học
thuyết “bản thể luận” mà còn là học thuyết “nhận thức luận”, là logic học xem xét
tư duy và nhận thức trong sự hình thành và phát triển.
Ăng ghen định nghĩa: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến”
và phép biện chứng “là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động
và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy” 16. Hoặc như

Lênin viết: “Phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập”
và “Theo nghĩa đen, phép biện chứng là sự nghiên cứu mâu thuẫn trong ngay bản
chất của các đối tượng”17. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá “chủ nghĩa Mác có ưu
điểm là phương pháp làm việc biện chứng”. Như vậy, có thể hiểu ngắn gọn phép
biện chứng duy vật là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển; về những
quy luật chung nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Như vậy, Mác và Ăngghen đã cải tạo phép biện chứng từ duy tâm theo tinh
thần duy vật và sáng tạo ra phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật
chính là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng.
3. Phân biệt khái niệm “biện chứng” và “siêu hình”
Như đã nêu ở trên, chúng ta thấy rằng “biện chứng” và “siêu hình” là hai
phương pháp mà triết học phản ánh và giải thích thế giới. Ngày nay, khi phương
pháp “siêu hình” đã không còn được vận dụng thì phương pháp “biện chứng” vẫn
được nghiên cứu, phát triển và thể hiện ưu thế tuyệt đối. Hai phương pháp này có
những điểm khác biệt, đối lập cơ bản như sau:
16
17

C.Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, tập 20, trang 455, 201.
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 29, trang 240, 268.


24

Thứ nhất, phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự vật trong mối
liên hệ phổ biến, sự ràng buộc, tác động qua lại lẫn nhau và trong quá trình vận
động và phát triển không ngừng. Trong khi đó, phương pháp siêu hình chia nhỏ sự
vật và xem xét sự vật ở trạng thái cô lập, tách rời, không liên hệ gì đến những sự
vật, hiện tượng khác;
Thứ hai, phương pháp biện chứng cho thấy được sự phát sinh, tồn tại, phát

triển và tiêu vong của sự vật thì phương pháp siêu hình chỉ nghiên cứu sự tồn tại
của sự vật (có là có, không là không, tồn tại hoặc không tồn tại, sự vật không thể
vừa là nó vừa là cái khác nó,...);
Thứ ba, phương pháp siêu hình xem xét sự vật, hiện tượng, quá trình,... ở
trạng thái tĩnh tại, đứng yên, không vận động, không phát triển, nếu có cũng chỉ là
sự thay đổi đơn thuần về lượng chứ không phải sự thay đổi về chất. Phương pháp
biện chứng thì xem xét sự vật, hiện tượng, quá trình,... không chỉ ở trạng thái tĩnh
mà còn ở trạng thái động của đối tượng.
Có thể thấy, phương pháp biện chứng phương pháp siêu hình là hai phương
pháp đối lập nhau trong cách nhìn nhận và nghiên cứu thế giới. Trong khi phương
pháp siêu hình chia nhỏ sự vật, hiện tượng và xem xét nó ở trạng thái cô lập, tách
rời, không liên hệ gì với các sự vật, hiện tượng khác xung quanh nó; chỉ cho thấy
được sự tồn tại mà không thấy được sự hình thành, phát triển và tiêu vong của nó;
và chỉ xem xét ở trạng thái tĩnh tại, đứng yên, không vận động, không phát triển;
chỉ thấy bộ phận mà không thấy được cái toàn thể. Trong khi đó, phương pháp biện
chứng đã khắc phục được những nhược điểm của phương pháp siêu hình và cho
chúng ta cái nhìn toàn diện, đầy đủ và khách quan về tất cả sự vật, hiện tượng, quá
trình,... trong một thể thống nhất; có sự hình thành, tồn tại, phát triển, tiêu vong và
có sự tác động qua lại giữa các sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy vật chính
là phương pháp nghiên cứu khoa học nhất mà con người đạt tới. Ngày nay nó vẫn
được tiếp tục duy trì và nghiên cứu phát triển.


25

Đề tài: “Trình bày một số quan điểm chính trong lịch sử triết học của lý
luận nhận thức”.
Bài làm
1.


Khái niệm về Lý luận nhận thức
Lý luận nhận thức là một bộ phận của triết học, nó nghiên cứu bản chất khả

năng của nhận thức, nghiên cứu mối liên hệ của tri thức với thực tại khách quan,
nghiên cứu mức độ, hình thức của quá trình nhận thức, nghiên cứu các điều kiện
tiêu chuẩn của chân lý.
Quá trình phát triển của lịch sử triết học đã chứng kiến nhiều quan điểm khác
nhau về lý luận nhận thức. Dưới đây là một số quan điểm chính về vấn đề này.
2.

Các quan điểm chính trong lịch sử triết học của lý luận nhận thức

2.1

Quan điểm về lý luận nhận thức trong lịch sử triết học Ấn Độ cổ, trung
đại

a)

Trường phái Nyàya – Vaisesika:
Hai phái này đều thừa nhận tính khách quan của khách thể nhận thức. Họ đấu

tranh chống lại các quan điểm cho rằng, nhận thức dựa vào kinh nghiệm là giả;
nhận thức không thể kiểm tra được v.v… Theo họ, nhận thức có thể tin cậy, nhưng
cũng có thể không tin cậy được. Tiêu chuẩn của tin cậy đó là phản ánh không nghi
ngờ và trung thành với hình ảnh của đối tượng. Bốn hình thức nhận thức không đáp
ứng các yêu cầu đó, được coi là không tin cậy: (1) Ký ức, (2) Nghi ngờ, (3) Sai
lầm, (4) Giả thiết (chưa có chứng cứ chắc chắn).
Nhưng nhận thức không tin cậy, không nhất thiết là giả. Nhận thức là đúng
đắn khi nó phù hợp với bản chất của đối tượng. Nhận thức là giải khi nó không còn

phù hợp với bản chất của đối tượng.
Sự giải thích duy vật mộc mạc đó là những đóng góp của các trường phái này
vào sự phát triển của lý luận nhận thức nói chung.
b)

Trường phái Lokàyata


×