Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

CHUYÊN ĐỀ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TUYỂN TẬP ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP VÀ CÁC BÀI KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG CUỐI NĂM HỌC CÓ ĐÁP ÁN MÔN KHOA SỬ ĐỊA LỚP 4 MỚI NHẤT CẤP TIỂU HỌC.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.32 KB, 41 trang )

TƯ LIỆU CHUYÊN MÔN TIỂU HỌC.
-------------------------------

CHUYÊN ĐỀ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO

Sáng kiến
MỘT SỐ BIỆN PHÁP
GIÚP HỌC SINH YÊU THÍCH
VÀ HỌC TẬP CÓ HIỆU QUẢ
PHÂN MÔN LỊCH SỬ LỚP 4
CẤP TIỂU HỌC.

NĂM 2015


LỜI NÓI ĐẦU
Trong giai đoạn xã hội hóa và hội nhập quốc tế hiện nay,
nguồn lực con người Việt Nam trở nên có ý nghĩa quan trọng,
quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước.
Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong
việc xây dựng thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và nhà nước luôn quan tâm
và chú trọng đến giáo dục. Với chủ đề của năm học là “Tiếp
tục đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục” đối với
giáo dục phổ thông. Mà trong hệ thống giáo dục quốc dân, thì
bậc Tiểu học có ý nghĩa vô cùng quan trọng là hình thành
nhân cách con người nhằm giúp học sinh hình thành những
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo
đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học
sinh tiếp tục học Trung học cơ sở. Để đạt được mục tiêu trên
đòi hỏi người dạy học phải có kiến thức sâu và sự hiểu biết


nhất định về nội dung chương trình sách giáo khoa, có khả
năng hiểu được về tâm sinh lí của trẻ, về nhu cầu và khả năng
của trẻ. Đồng thời người dạy có khả năng sử dụng một cách
linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù
hợp với đối tượng học sinh như dạy học theo Chuẩn KTKN,
theo mô hình VINEN. Căn cứ chuẩn kiến thức kỹ năng của
chương trình lồng ghép giáo dục vệ sinh môi trường, rèn kĩ
năng sống cho học sinh. Coi trọng sự tiến bộ của học sinh
trong học tập và rèn luyện, động viên khuyến khích không
gây áp lực cho học sinh khi đánh giá. Tạo điều kiện và cơ hội
cho tất cả học sinh hoàn thành chương trình và có mảng kiến


thức dành cho đối tượng học sinh năng khiếu. Việc nâng cao
cất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh là nhiệm vụ của
các trường phổ thông. Để có chất lượng giáo dục toàn diện
thì việc nâng cao chất lượng đại trà là vô cùng quan trọng.
Trong đó môn Lịch sử&Địa lí có vai trò vô cùng quan trọng
giúp phát triển tư duy khoa học tốt nhất. Để có tài liệu tham
khảo nâng cao chất lượng môn Lịch sử cho học sinh lớp 4 kịp
thời và sát với chương trình học, tôi xin giới thiệu sáng kiến:
“Một số biện pháp giúp học sinh yêu thích và học có hiệu
quả phân môn Lịch sử”.
Trân trọng giới thiệu với thầy giáo và cô giáo cùng quý
vị bạn đọc tham khảo và phát triển tài liệu: CHUYÊN ĐỀ

GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TUYỂN TẬP ĐỀ
CƯƠNG ÔN TẬP VÀ CÁC BÀI KIỂM TRA
CHẤT LƯỢNG CUỐI NĂM HỌC CÓ ĐÁP ÁN
MÔN KHOA-SỬ-ĐỊA LỚP 4 MỚI NHẤT CẤP

TIỂU HỌC.
Chân trọng cảm ơn!


TÀI LIỆU GỒM
MỤC LỤC
Trang
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN: …………………………………………

2

TÓM TẮT SÁNG KIẾN: ...................................................................................................

3

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến ………………………………………………………

3

2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến: ………………………

4

3. Nội dung sáng kiến:

4

………………………………………………………………………………

MÔ TẢ SÁNG KIẾN: ……………………………………………………………………………..


5

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến ………………………………………………………

5

2. Cơ sở lý luận của vấn đề:

…………………………………………………………………..

6

3. Thực trạng của vấn đề: ………………………………………………………………………

6

4. Các biện pháp, giải pháp đã thực hiện: …………………………………………

6

4.1. Một số kiến thức giáo viên cần biết và tìm hiểu:………………………………..

6

4.2.Tạo không khí học tập thoải mái, hòa đồng, hấp dẫn: …………………

11

4. 3. Tổ chức hoạt động giúp học sinh tiếp thu kiến thức qua việc khai

thác kênh hình và thông tin trong sách giáo khoa:……………………..

16

4.4. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy: …………..

20

4.5. Một số việc cần làm giúp học sinh khắc sâu kiến thức lịch sử: ……. .

21

5.Kết quả đạt được: ……………………………………. …………………………………………..

22

6.Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng: .....................................................................

23

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

23

1.Kết luận: …………………………………………………………………………………………

25

2.Khuyến nghị: ……………………………………………………………………………………………


25


THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến: “Một số biện pháp giúp học sinh yêu thích và học có hiệu
quả phân môn Lịch sử”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Biện pháp tổ chức dạy học Lịch sử.
3. Tác giả: Họ và tên: …………………….

Nam (nữ): ………

Ngày tháng/ năm sinh: ………………..
Trình độ chuyên môn: Đại học Tiểu học.
Chức vụ, đơn vị công tác: Tổ trưởng chuyên môn, trưởng Tiểu học ………….
Điện thoại: ……………………
4. Đồng tác giả: Không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học …………………..
Điện thoại: 03203930485
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học ……………………..
Điện thoại: ………………….
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Ban giám hiệu tạo điều kiện
cho giáo viên được tự chủ, tự giác, sáng tạo trong giảng dạy và tổ chức, hướng
dẫn học sinh học bài theo hướng tích cực. Giáo viên dạy có tâm huyết với giáo
dục, có trình độ chuyên môn, có uy tín trước học sinh và phụ huynh.
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Từ tháng 8/2014 đến hết tháng
1/2015.
TÁC GIẢ
(ký, ghi rõ họ tên)
.
…………………..


XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến:
Từ thực tế công tác, tôi nhận thấy nhiều giáo viên vẫn nghĩ rằng
môn Lịch sử chỉ là môn phụ, không quan trọng nên chưa chú trọng
đầu tư cho môn học. Chính vì thế đã dẫn đến học sinh nắm kiến thức
hời hợt, không chắc chắn, lẫn lộn các sự kiện và nhân vật lịch sử,
một số bài làm của các em kiến thức sai nghiêm trọng, mặc dù đó là
những kiến thức cơ bản mà các em đã được học; Một số em còn
không thích học môn Lịch sử vì thấy bài học khô khan, tẻ nhạt, cô
giáo thì không coi trọng môn học này. Năm học 2014 - 2015, tôi dạy
giãn các lớp 4, tôi nhận thấy kiến thức môn Lịch sử lớp 4 không phải
quá khó đến nỗi học sinh không thể tiếp thu. Nếu người giáo viên có
tâm huyết, nắm chắc kiến thức, lại biết dẫn dắt, sử dụng những
phương pháp, biện pháp dạy học phù hợp thì học sinh sẽ rất hồ hởi,
hứng thú và yêu thích môn học và học sẽ có hiệu quả.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
2.1. Điều kiện: Ban giám hiệu nhà trường rất coi trọng tổ chức triển
khai chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính sáng
tạo của giáo viên trong giảng dạy. Trường đã trang bị máy chiếu,
máy tính, kết nối Internet đến các phòng chức năng… nhằm phục vụ
cho việc giảng dạy bằng giáo án điện tử. Bản thân giáo viên trực tiếp
dạy lịch sử lớp 4 (dạy 3 lớp 4) của trường.
2.2. Thời gian: Từ tháng 8/2014 đến hết tháng 1/2015.
2.3. Đối tượng: Học sinh khối lớp 4, trường tôi công tác.



3. Nội dung sáng kiến:
+ Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến: Những phương pháp, biện
pháp tổ chức dạy học môn Lịch sử trong thực tế thường nhàm chán,
căng thẳng, không có tác dụng khơi gợi, không hấp dẫn lôi cuốn học
sinh tiếp thu bài. Sáng kiến của tôi đề ra biện pháp, giải pháp mới
phù hợp với tâm lí học sinh tiểu học, khuyến khích, lôi cuốn học
sinh, giúp học sinh phấn khởi tiếp thu bài nhằm tổ chức, hướng dẫn
học sinh tiếp thu kiến thức Lịch sử nhanh, chắc chắn và có thói quen
học tập hợp lí phân môn lịch sử. Hình thành cho học sinh những kĩ
năng hoạt động, giao tiếp, kĩ năng tham gia của cá nhân, kĩ năng tổ
chức các hoạt động, tự tin, chủ động tìm tòi kiến thức…
+ Các biện pháp của sáng kiến có tính khả thi cao: Vì sáng kiến áp
dụng cho học sinh lớp 4 trong học kì I năm học 2014-2015. Các biện
pháp tổ chức học bám sát Chuẩn KTKN môn học với hệ thông câu
hỏi vừa sức học sinh, thái độ giáo viên cởi mở tạo không khí học tập
thoải mái, hòa đồng, tổ chức bài giảng có sức lôi cuốn học sinh, giáo
viên ứng dụng CNTT vào thiết kế bài giảng cung cấp tư liệu lịch sử
kịp thời, phong phú hấp dẫn hơn giúp học sinh tiếp thu bài dạy nhẹ
nhàng hiệu quả.
+ Lợi ích thiết thực của sáng kiến: Giúp học sinh phấn khởi học bài,
tiếp thu kiến thức nhanh, dễ dàng; yêu thích môn học mà không tốn
nhiều công sức, không tốn tiền của. Chỉ cần người giáo viên có tâm
huyết và có trình độ chuyên môn theo Chuẩn là được.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến: Sau một
học kì thực nghiệm Tôi thấy học sinh yêu thích học môn Lịch sử,


thích tìm hiểu về lịch sử, không khí tiết học sôi nổi, học sinh tích
cực, chủ động. Hầu hết các em có kĩ năng sử dụng bản đồ, lược đồ,

có kĩ năng quan sát, nắm bắt thông tin nhanh, trình bày kết quả học
tập một cách lưu loát.
5.Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng
kiến.
- Đối với nhà trường: Cho phép tổ chuyên môn triển khai chuyên
đề môn Lịch sử theo nội dung sáng kiến đến tất cả các lớp.
- Đối với tổ chuyên môn: Triển khai chuyên đề môn Lịch sử theo nội
dung sáng kiến đến tất cả các lớp. Hàng năm cần duy trì tốt việc tổ
chức cuộc thi “Dân ta phải biết sử ta” theo hình thức “rung chuông
vàng”
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
1.1. Giáo viên: Từ thực tế công tác, tôi nhận thấy nhiều giáo viên
vẫn nghĩ rằng môn Lịch sử chỉ là môn phụ, không quan trọng nên
chưa chú trọng đầu tư cho môn học. Chính vì thế đã dẫn đến học sinh
nắm kiến thức hời hợt, không chắc chắn, lẫn lộn các sự kiện và nhân
vật lịch sử, một số bài làm của các em kiến thức sai nghiêm trọng,
mặc dù đó là những kiến thức cơ bản mà các em đã được học.
1.2. Học sinh: Nhiều học sinh không thích học môn Lịch sử bởi môn
lịch sử nội dung bài học vốn khô khan, tẻ nhạt; cô giáo thì không coi
trọng băng môn học khác nên các em xao nhãng không chú tâm học


bài. Kết quả khảo sát môn Lịch sử thường thấp nhất trong các môn
học.
1.3. Bản thân: Năm học 2014 - 2015, tôi dạy giãn các lớp 4, tôi nhận
thấy kiến thức môn Lịch sử lớp 4 không phải quá khó đến nỗi học
sinh không thể tiếp thu. Nếu người giáo viên có tâm huyết, nắm chắc
kiến thức, lại biết dẫn dắt, sử dụng những phương pháp, biện pháp
dạy học phù hợp thì học sinh sẽ rất hồ hởi, hứng thú và yêu thích

môn học. Tôi nghĩ môn Lịch sử có vai trò rất qua trọng trong giáo
dục kĩ năng sống và nhân cách học sinh như Bác Hồ đã dạy:
Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
Ở vào giai đoạn lịch sử hiện nay, lời Bác dạy càng có ý nghĩa
sâu sắc hơn bao giờ hết khi mà dư luận xã hội đang lo ngại về chuyện
“hổng” kiến thức lịch sử của học sinh ở các cấp học. Đó cũng là nỗi
trăn trở của những nhà giáo tâm huyết về một thế hệ tương lai không
biết đến lịch sử, nguồn gốc, truyền thống của chính dân tộc mình.
Bởi thế tôi thực hiện nghiên cứu đề ra các biện pháp, giải pháp mới
nhằm giúp học sinh yêu thích và học tốt môn Lịch sử.
2. Cơ sở lý luận của vấn đề.
Chúng ta cần nắm vững mục tiêu của giáo dục tiểu học là giúp
HS có kiến thức toàn diện về con người, tự nhiên và xã hội. Các môn
học trong nhà trường đều góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo
dục chung đó. Phân môn Lịch sử ở tiểu học đã cung cấp cho học sinh
một lượng kiến thức cơ bản, thiết thực về các nhân vật, sự kiện, hiện


tượng lịch sử tiêu biểu nhất của lịch sử Việt Nam…… Chính vì vậy,
môn Lịch sử càng có ý nghĩa trong giáo dục truyền thống. Giảng dạy
tốt phân môn Lịch sử lớp 4 sẽ giúp các em bước đầu nhận thức đúng
và yêu thích môn học, góp phần quan trọng trong việc giáo dục
truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc ta. Thông qua học Lịch sử
học sinh sẽ tự hào về đất nước, con người Việt Nam, yêu thiên nhiên
tươi đẹp, kế thừa và phát huy truyền thống quý báu của dân tộc mình.
3.Thực trạng của vấn đề
Từ thực tế công tác, tôi nhận thấy nhiều giáo viên vẫn nghĩ rằng
môn Lịch sử chỉ là môn phụ, không quan trọng nên chưa chú trọng
đầu tư cho môn học. Có giáo viên còn cho rằng nếu cứ dạy lịch sử

thì sẽ ảnh hưởng đến hai môn quan trọng là môn Toán và môn Tiếng
Việt. Tôi cho rằng đây là suy nghĩ chưa đúng. Chính vì thế đã dẫn
đến học sinh nắm kiến thức hời hợt, không chắc chắn, lẫn lộn các sự
kiện và nhân vật lịch sử, một số bài làm của các em kiến thức sai
nghiêm trọng, mặc dù đó là những kiến thức cơ bản mà các em đã
được học, một số em còn không thích học môn Lịch sử vì thấy bài
học khô khan, tẻ nhạt, cô giáo không coi trọng.
Phân môn Lịch sử lớp 4 lại là môn học mới với học sinh vừa học
xong lớp 3, học sinh bắt đầu làm quen, được học thành môn riêng
nên học sinh bỡ ngỡ khó tiếp thu kiến thức, giáo viên cũng gặp khó
trong tổ chức dạy học.


Vậy chúng ta làm thế nào để giảng dạy tốt phân môn Lịch sử
lớp 4?
Tôi xin mạnh dạn đề xuất một sáng kiến nhằm dạy học tốt phân
môn Lịch sử lớp 4: “Một số biện pháp giúp học sinh yêu thích và
học có hiệu quả phân môn Lịch sử lớp 4”.
4. Các biện pháp, giải pháp đã thực hiện.
4.1. Một số kiến thức giáo viên cần biết và tìm hiểu:
4.1.1. Soạn giảng bám sát mục tiêu bài dạy: .Muốn có một kế
hoạch bài học tốt thì người giáo viên cần tự tin, chủ động trên bục
giảng để dẫn dắt, tổ chức tốt các hoạt động học, giúp các em nắm
vững được kiến thức lịch sử, người giáo viên cần tập trung nghiên
cứu nắm vững mục tiêu của môn học, mục tiêu cần đạt trong từng bài
và trong từng hoạt động. Việc làm này tưởng chừng như việc làm
hàng ngày của giáo viên. Thực tế một số giáo viên vẫn còn chưa coi
trọng, hoặc chỉ dạy theo trình tự của sách hướng dẫn, sách giáo khoa
mà chưa chú ý đến mục tiêu. Mục tiêu của phân môn Lịch sử lớp 4
là:

1- Học sinh được cung cấp một số kiến thức cơ bản, thiết thực về:
Các nhân vật lịch sử, các sự kiện, hiện tượng lịch sử có hệ thống theo
dòng lịch sử Việt Nam buổi đầu dựng nước cho đến cuối thời
Nguyễn.
2. Hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng:


+ Quan sát những sự vật, tư liệu, tranh ảnh, lược đồ, bản đồ lịch sử
thu thập được từ nhiều nguồn khác nhau và từ thực tế lịch sử địa
phương.
+ Học sinh biết nêu thắc mắc, biết đặt câu hỏi trong quá trình học
tập và biết chọn thông tin để giải đáp thắc mắc.
+ Rèn kĩ năng trình bày kết quả học tập bằng lời nói.
+ Học sinh biết vận dụng các kiến thức lịch sử đã học vào cuộc
sống hiện tại.
3. Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và thói
quen:
+ Ham học hỏi, tích cực tìm hiểu để biết về môi trường xung quanh
các em.
+ Bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu thương con người, tình yêu
thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước.
+ Rèn thói quen tôn trọng, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và nền
văn hóa gần gũi với học sinh.
4.1.2. Soạn giảng bám sát tài liệu “Hướng dẫn thực hiện Chuẩn
kiến thức kĩ năng các môn học ở tiểu học”
Theo quyết định số 16/2006/QĐ - BGDĐT ban hành Chương
trình giáo dục phổ thông – cấp Tiểu học. Khi dạy học theo Chuẩn thì
người giáo viên cần nghiên cứu kĩ để xây dựng kế hoạch bài dạy
thich hợp với các đối tượng học sinh của lớp mình dạy nhằm mục
đích giúp tất cả mọi học sinh trong lớp phải đạt được những yêu cầu



theo Chuẩn. Ngoài ra, giáo viên cần linh hoạt, sáng tạo nhằm phát
huy tối đa tính tích cực, tự giác và khả năng nhận thức của từng cá
nhân học sinh, nhất là đối với học sinh năng khiếu, học sinh thích tìm
hiểu về lịch sử. Người giáo viên cần lưu ý dạy theo Chuẩn không có
nghĩa là cắt xén bớt nội dung chương trình mà kiến thức Chuẩn là
kiến thức cơ bản, tối thiểu đòi hỏi tất cả học sinh phải đạt được.
*Ví dụ: Dạy bài “Nước Văn Lang” theo Chuẩn kiến thức, kĩ
năng thì yêu cầu, mục tiêu bài cần đạt là:
- Kiến thức: Nắm được một số sự kiện về nhà nước Văn Lang.
+ Khoảng năm 700 TCN nhà nước Văn Lang, nhà nước đầu tiên
trong lịch sử dân tộc ta ra đời.
+ Người Lạc Việt biết làm ruộng, ươm tơ, dệt vải lụa, đúc đồng làm
vũ khí và sử dụng các công cụ sản xuất.
+ Người Lạc Việt sinh sống trong nhà sàn, họp nhau thành các làng,
các bản.
+ Người Lạc Việt có tục lệ nhuộm răng đen, ăn trầu, ngày lễ hội
thường có các hoạt động như: đua thuyền, đấu vật, nhảy múa….
4.1.3. Soạn giảng cần linh hoạt, sáng tạo mở rộng với học sinh
năng khiếu:
Đối với đối tượng học sinh năng khiếu thì giáo viên có thể khai
thác sâu hơn để các em có thể biết được như sau:
+ Biết được các tầng lớp trong xã hội nước Văn Lang gồm: Nô tì,
Lạc dân, Lạc tướng, Lạc hầu.…


+ Biết được những tục lệ của người Lạc Việt còn tồn tại đến ngày
nay: đua thuyền, đấu vật, nhảy múa, ăn trầu …
+ Xác định trên lược đồ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ những khu vực mà

người Lạc Việt đã từng sinh sống trước đây.
Khi nghiên cứu mục tiêu của bài này, tôi lên kế hoạch theo
Chuẩn kiến thức, kĩ năng ngoài ra còn mở rộng thêm những câu hỏi
khác nhằm “phát triển” năng lực nhận thức cho đối tượng học sinh
năng khiếu, như bài tập điền sơ đồ:
1. Điền vào sơ đồ sau: Các tầng lớp trong xã hội Văn Lang
VUA HÙNG
LẠC TƯỚNG, LẠC
HẦU
LẠC DÂN
NÔ TÌ

2. Những tục lệ gì của người Lạc Việt được lưu truyền trong nhân

dân ta đến tận bây giờ, (Trò chơi dân gian, tổ chức các lễ hội
vào mùa xuân, tục lệ cấy lúa, trồng khoai….) Địa phương em
còn lưu giữ được những tục lệ nào? (ăn trầu, làm bánh chưng,
bánh giầy…).


3. GV treo lược đồ như hình 1- SGK Lịch sử và Địa lí trang 1,
yêu cầu học sinh đọc thông tin SGK và một số học sinh lên chỉ những
khu vực mà người Lạc Việt đã từng sinh sống?
Qua thực tế đã giảng dạy tôi nhận thấy với phần câu hỏi hướng
dẫn như trên thì đối tượng học sinh năng khiếu các em đều trả lời
được. Ngay cả câu 1, câu 2 học sinh trung bình vẫn có thể làm tốt.
Chính vì vậy giáo viên dạy cần nghiên cứu kĩ để không hiểu nhầm
dạy theo Chuẩn là chỉ cần dạy đủ theo yêu cầu cần đạt còn bỏ hẳn
những câu hỏi, bài tập dành cho các em học sinh năng khiếu – những
em học sinh yêu thích tìm hiểu lịch sử là không cần thiết.

Ngoài việc nắm vững nội dung về dạy học theo Chuẩn kiến
thức, kĩ năng thì giáo viên cần tích hợp thêm nội dung giáo dục bảo
vệ môi trường vào bài dạy. Ví dụ khi dạy bài Chùa thời Lý, giáo
viên cần quan tâm giáo dục cho học sinh lòng tự hào về trình độ văn
hóa và nghệ thuật kiến trúc của người dân nước ta từ thời nhà Lý.
Qua đó nâng cao ý thức giữ gìn, bảo vệ di sản văn hóa của cha ông.
Cần tìm hiểu thêm kiến thức lịch sử liên quan đến nội dung dạy
từ nhiều nguồn khác nhau. Bởi vì chỉ khi thông thạo kiến thức lịch sử
thì người thầy mới tự chủ và hứng thú với tiết dạy, thiết kế những kế
hoạch bài học hay, phong phú, đưa ra được những thông tin chính
xác. Ví dụ như trong bài Nước Âu Lạc, thông tin trong sách giáo
khoa là: Năm 179 TCN Triệu Đà lại đem quân sang…… nhưng trong
sách giáo viên lại ghi năm 207 TCN….. Như vậy có sự khác nhau về
thời gian. Nếu người giáo viên có kiến thức lịch sử vững chắc thì sẽ


dễ dàng nhận thấy sách giáo viên in sai, thông tin sách giáo khoa là
chính xác.
Để có thể thông thạo kiến thức lịch sử thì giáo viên cần tự trang
bị cho mình bằng nhiều cách, nhiều nguồn khác nhau như: Đọc sách
lịch sử hoặc tìm hiểu các trang web nói về lịch sử Việt Nam, tìm trên
mạng Internet..v..v….
4.2. Tạo không khí học tập thoải mái, hòa đồng, hấp dẫn:
Trong giảng dạy, việc tạo hứng thú cho học sinh là vô cùng
quan trọng. Đây là yếu tố quyết định hiệu quả của việc dạy học.
Những kiến thức lịch sử sẽ trở lên hấp dẫn nếu người giáo viên biết
tổ chức, biết hướng dẫn để các em cảm thấy yêu thích, hứng thú, khi
đó bài học trở thành nhu cầu, là niềm đam mê tìm hiểu của các em.
Làm được như vậy, tiết học sẽ diễn ra nhẹ nhàng, không khí học tập
thoải mái, hiệu quả học tập chắc chắn tốt hơn. Để giúp học sinh

hứng thú với tiết học lịch sử, tôi thường tìm cách tạo ra không khí
học tập thoải mái ngay trong từng hoạt động như sau:
4.2.1. Tạo không khí học tập thoải mái, hòa đồng qua hoạt đông
giới thiệu bài: Đây là hoạt động giúp thu hút học sinh vào bài học
mà nhiều giáo viên còn xem nhẹ. Tôi thường thay đổi cách thiệu bài
bằng nhiều hính thức như: Đặt vấn đề tình huống tò mò cho học sinh
hoặc dẫn dắt từ những kiến thức lịch sử đã học, có khi sử dụng tranh
ảnh minh họa hoặc bắt đầu bằng một câu chuyện lịch sử có liên quan
đến bài…


Ví dụ: Khi giới thiệu bài: Nước Văn Lang sáh giáo khoa Lịch
sử và Địa lí lướp 4, trang 11, tôi thực hiện như sau:
+ Cho cả lớp cùng qua sát ảnh Lễ giỗ tổ Hùng Vương (Tranh này do
giáo viên sưu tầm)
+ Sau đó, giáo viên đọc câu ca dao:
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng Ba.
+ Giáo viên hỏi: Vậy ngày giỗ tổ trong câu ca dao là ngày tưởng
nhớ ai? (Học sinh: Vua Hùng)
+ Giáo viên nêu: Ngày mồng mười tháng ba âm lịch hàng năm là
ngày tất cả những người Việt Nam chúng ta dù sống ở đâu đều
hướng về vùng đất Phú Thọ để tưởng nhớ đến các vua Hùng - những
người đầu tiên xây dựng nên đất nước ta. Vậy nhà nước đầu tiên của
dân tộc ta có tên là gì? Ra đời khi nào? Để biết những điều đó, hôm
nay, thầy mời cả lớp lên cùng quay lại thời gian trở về với lịch sử
dân tộc để tìm hiểu những điều này trong bài ‘Nước Văn Lang”
Ví dụ khác: Giới thiệu bài: “Nhà Trần thành lập” Tôi liên hệ
kiến thức học sinh đã biết để vào bài: Nhà Lý tồn tại từ năm 10091226 trải qua hơn hai trăm năm cai quản đất nước, nhà Lý có rất
nhiều công lao to lớn trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước ta.

Song, cuối thời nhà Lý, các vua quan trong triều nhà Lý bắt đầu ăn
chơi sa đọa, nhân dân lầm than, đói khổ. Trước tình cảnh như thế,
chắc hẳn sẽ có một triều đại khác lên thay thế. Vậy tiếp theo nhà Lý
là triều đại nào? Bài Lịch sử hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về sự kiện
lịch sử này, ngoài ra các em còn biết thêm một số chính sách của


triều đại mới này ngay từ những ngày đầu mới thành lập. Hoặc, giới
thiệu bài “Nhà Trần và việc đắp đê”: Giáo viên cho học sinh quan
sát tranh sách giáo khoa Lịch sử lớp 4, trang 39 và hỏi: Tranh vẽ gì?
(H/S: Cảnh mọi người đang khiêng đất). Giáo viên giới thiệu: Đây là
bức tranh vẽ cảnh đắp đê của người dân ở thời Trần. Theo sử sách
thì Triều đại nhà Trần được mệnh danh là “Triều đại đắp đê”. Vậy lí
do vì sao nhà Trần lại được Mệnh danh là:“Triều đại đắp đê”?
Chúng ta cùng tìm hiểu điều đó thông qua bài Lịch sử hôm nay.
Học sinh tiểu học hiếu động nên rất thích nghe kể chuyện, bởi
vậy giáo viên có thể giới thiệu bài bằng một câu chuyện kể lịch sử
ngắn, hấp dẫn có liên quan đến bài lịch sử nhằm tạo cho các em sự
chú ý, hứng thú với tiết học.
Ví dụ: Giới thiệu bài “Nước Âu Lạc”, tôi thực hiện như sau:
Các em đã được nghe thầy kể câu chuyện Trọng Thủy, Mỵ Châu
chưa? (Có thể mời học sinh khá, giỏi kể, hoặc giáo viên kể tóm tắt
câu chuyện).
+ Giáo viên dẫn dắt: Tuy có chi tiết thần thoại nhưng dấu tích về
thành Cổ Loa là có thật và đến nay vẫn còn được giữ gìn và trở
thành khu di tích ở Đông Anh.
– Hà Nội. Vậy nội dung câu chuyện đó có liên quan gì đến sự kiện
lịch sử trong bài học hôm nay. Thầy mời cả lớp đến thành Cổ Loa
để cùng tìm hiểu nhé!



Như vậy có rất nhiều cách giới thiệu bài mới, với từng nội dung
bài mà tôi có cách giới thiệu phù hợp, mục đích là để thu hút học
sinh vào bài học, tránh sự nhàm chán.
4.2.2. Tạo không khí học tập thoải mái, hòa đồng qua hoạt đông
củng cố bài:
Giúp học sinh hứng thú khi học lịch sử, ngoài việc chuẩn bị giới
thiệu bài, tôi luôn chú trọng đến hoạt động củng cố bài. Đây vừa là
bước không những giúp các em nắm những kiến thức cơ bản mà còn
là bước kích thích các em ham mê, tìm hiểu, chú ý trong các giờ học
bài mới. Bởi vậy, phần củng cố tôi thường tổ chức theo hình thức thi
đua giữa các nhóm.
Ví dụ khi củng cố bài “Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô
Quyền lãnh đạo (năm 938) sách giáo khoa Lịch sử & Địa lí lớp 4,
trang 21, tôi củng cố bằng trò chơi ô chữ: Ô chữ gồm 8 hàng ngang.
Cách chơi như sau: Tôi chia lớp thành bốn đội. Mỗi đội lần lượt
chọn hàng ngang, tiếp đó giáo viên đọc gợi ý về từ sẽ điền vào hàng
ngang, đội chơi nhanh chóng đưa ra câu trả lời. Nếu sai hoặc sau
thời gian 30 giây không đoán được thì đội khác có quyền đoán.
Đoán mỗi từ hàng ngang đúng được 10 điểm’đoán từ hàng dọc đúng
được 30 điểm.
Trò chơi kết thúc khi các ô hàng ngang được tìm ra. Đội dành chiến
thắng là đội có số điểm cao nhất.


Nội dung ô chữ và gợi ý:
T

H


A

T

B

C

O

L

O

A

T

B

H

O

A

N

A


I

C

O

C

G

O

H

U

Y

T

R

I

E

U

Đ


Ö

Ô

N

G

L

A

M

A

C

N

G

O

Q

U

Y


E

N

G

T

H

A

O

1, Quân Nam Hán phải nhận hậu quả gì khi sang xâm lược
nước ta vào năm 938 (thất bại).
2, Sau khi đánh tan quân Nam Hán, nơi nào được Ngô Quyền
chọn làm kinh đô (Cổ Loa).
3, Vũ khí làm thủng thuyền của giặc (cọc gỗ).
4, Ngô Quyền đã lợi dụng hiện tượng thiên nhiên nào để đánh
thắng quân giặc (thủy triều).
5, Quê của Ngô Quyền (Đường Lâm).
6, Quân Nam Hán đến từ phương này (Bắc).
7, Người lãnh đạo trận Bạch Đằng (Ngô Quyền).
8, Tướng giặc tử trận ở Bạch Đằng (Hoàng Tháo).
Tổng kết trò chơi, khen nhóm thắng cuộc. Khi tổ chức hoạt
động củng cố theo hình thức này tôi thấy các em học rất chú ý, hào


hứng, sôi nổi tham gia. Chắc chắn qua trò chơi, các em sẽ khắc sâu

những kiến thức lịch sử được học. Giáo viên cũng có thể thay trò
chơi ô chữ bằng cách cho học sinh xem bộ phim hoạt hình Đại chiến
Bạch Đằng (khi có máy chiếu): Bộ phim dài 5 phút nhưng phản ánh
đầy đủ về sự kiện diễn biến trận Bạch Đằng.
Hoặc Ví dụ: Củng cố bài “Nhà Lý đời đô ra Thăng Long”, tôi
cho học sinh xem một trích đoạn phim hoạt hình lịch sử nói về Lý
Thái Tổ (Dạy bài giảng điện tử) để nhằm khắc sâu bài học và giúp
các em cảm thấy thích thú, tiếp thu kiến thức lịch sử một cách nhẹ
nhàng, thoải mái.
4.2.3. Tạo không khí học tập thoải mái, hòa đồng qua hình thức
thi đua nhóm:
Khi tổ chức các hoạt động học tập như làm việc nhóm hay làm
việc cá nhân. tôi luôn tạo không khí học tập thoải mái nhằm phát huy
tính tích cực, tự giác tối đa của học sinh, giáo viên không làm thay
mà là người tổ chức, hướng dẫn học sinh hoạt động và giúp đỡ khi
học sinh gặp khó khăn. Nhằm giúp đỡ các nhóm học tập thuận tiện,
tôi làm các biểu tượng mặt cười, mặt mếu và quy ước mặt mếu là
nhóm, cá nhân đang gặp khó khăn cần được giúp đỡ, mặt đỏ là đã
hoàn thành phần thảo luận nhóm hoặc cá nhân đã làm bài xong.
Nhóm nào gặp khó khăn thì giơ mặt mếu, nhóm hoàn thành thì giơ
mặt cười. Giáo viên chú ý quan sát lớp để giúp đỡ học sinh kịp thời,
tế nhị. Đây là một việc tuy nhỏ nhặt nhưng cũng góp phần gây hứng


thú cho học sinh. Sau đó tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả theo
hình thức thi đua, học sinh rất hưng phấn.
Ví dụ: Bài Khởi nghĩa Hai Bà Trưng sách giáo khoa Lịch sử
& Địa lí lớp 4, trang 19, khi hướng dẫn học sinh trình bày tóm tắt
cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng thì tôi chia lớp thành các nhóm 4
người, yêu cầu các nhóm đọc sách giáo khoa, xem lược đồ để kể lại

được chuyên. Diễn biến của cuộc khởi nghĩa. Trong khi học sinh làm
việc tôi đi đến các nhóm (gặp khó khăn giơ mặt mếu), giúp đỡ thêm
cho những nhóm gặp khó khăn bằng các câu hỏi nhỏ. Sau thời gian
họp nhóm, tôi tổ chức thi đua các nhóm, Chia nhóm theo nhóm ngẫu
nhiên, bằng cách gọi ngẫu nhiên học sinh trong nhóm. Nếu học sinh
trình bày đúng, đủ và hấp dẫn thể hiện được khí thế của quân ta sẽ
được tuyên dương.
4. 3. Tổ chức hoạt động giúp học sinh tiếp thu kiến thức qua việc
khai thác kênh hình và thông tin trong sách giáo khoa.
Sách giáo khoa môn Lịch sử được trình bày theo hướng tổ chức
các hoạt động học tập nhằm giúp học sinh quan sát, tự tìm tòi, tự
phát hiện kiến thức và rèn luyện các kĩ năng. Sách giáo khoa có hệ
thống kênh hình khá là phong phú gồm tranh ảnh, lược đồ, bản đồ...
Đây là phương tiện dạy học đặc trưng của môn Lịch sử, nó giúp cho
học sinh tái hiện lại những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử trong quá
khứ xa xưa.


4.3.1. Tổ chức hoạt động giúp học sinh biết sử dụng lược đồ, bản
đồ trong sách giáo khoa lịch sử lớp 4.
Phần Lịch sử lớp 4 có một số lược đồ đơn giản và bản đồ về
các cuộc khởi nghĩa. Nhưng không tổ chức, hướng dẫn giúp học sinh
sử dụng tốt lược đồ, bản đồ thì các em sẽ gặp khó khăn trong việc
tìm hiểu kiến thức, tai hại hơn nữa là tạo cho học sinh thói quen lười
quan sát, thiếu tưởng tượng, không có cơ sở suy nghĩ. Bởi vậy, để
giúp học sinh làm việc với lược đồ, bản đồ một cách có hiệu quả tôi
tổ chức, hướng dẫn cho học sinh nắm bắt một số kiến thức, kĩ năng
thiết thực như:
Thứ nhất phải giúp học sinh biết xác định phương hướng trên
bản đồ, lược đồ: Theo quy định trên bản đồ thì phía trên bản đồ là

hướng Bắc, phía dưới bản đồ biểu thị hướng Nam, bên phải bản đồ
biểu thị hướng Đông, bên trái bản đồ biểu thị hướng Tây. Điều này
học sinh được học kĩ trong bài “Làm quen với bản đồ” - sách Lịch
sử và Địa lí lớp 4, nhưng giáo viên vẫn phải củng cố thường xuyên kĩ
năng này. Bởi vì khi học sinh xác định được phương hướng trên lược
đồ, bản đồ thì học sinh có thể tự hiểu được vì sao lại gọi là giặc
phong kiến phương Bắc, hoặc cụ thể trong bài: Cuộc kháng chiến
chống quân Tống xâm lược lần thứ hai (1075-1077). Giáo viên yêu
cầu kể lại cuộc chiến đấu trên sông Như Nguyệt thì học sinh dễ dàng
xác định được vị trí phòng tuyến của quân ta ở bờ Nam, còn đồn bốt
quân giặc ở bờ Bắc sông Như Nguyệt.


Thứ hai, hướng dẫn học sinh đọc chú giải để hiểu được ý nghĩa
biểu thị của các kí hiệu trên lược đồ. Khi hiểu được ý nghĩa của các
yếu tố, các kí hiệu trên lược đồ, bản đồ học sinh sẽ làm tốt các bài tập
yêu cầu kể lại diễn biến trận chiến hoặc diễn cuộc khởi nghĩa.
Ví dụ: Dựa vào lược đồ, em hãy kể lại trận chiến tại phòng
tuyến sông Như Nguyệt (bài Cuộc kháng chiến chống quân Tống
xâm lược lần thứ hai (1075-1077) trang 34, sách giáo khoa Lịch sử
& Địa lí lớp ) tôi tổ chức, hướng dẫn như sau:
Yêu cầu học sinh quan sát lược đồ trong sách giáo khoa trang 35,
xem bảng chú giải biết các kí hiệu thể hiện trên lược đồ để các em
phân biệt được mũi tên biểu thị quân ta và mũi tên biểu thị giặc
Tống. Chẳng hạn mũi tên màu đen
là biểu thị quân Tống tiến công, còn mũi tên màu đỏ



biểu thị nhà Lý chặn đánh..v..v.. Sau khi tổ chức, hướng dẫn học sinh

xem chú giải, đọc thông tin trong sách giáo khoa, bằng hệ thống câu
hỏi giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu bài như sau:
+ Lý Thường Kiệt đã cho xây dựng phòng tuyến ở đâu?
+ Lực lượng của quân Tống như thế nào ? Do ai chỉ huy?
+ Hãy chỉ vị trí quân Tống đồn trú trên lược đồ?
+ Hãy chỉ trên lược đồ nơi mà quân nhà Lý tổ chức phòng ngự?
+ Chỉ trên lược đồ vị trí mà quân nhà Lý chặn đánh giặc?
+ Chỉ trên lược đồ vị trí mà quân nhà Lý tiến công giặc?
+ Chỉ trên lược đồ vị trí đường rút chạy của quân giặc?


Thông qua việc trả lời các câu hỏi theo gợi ý của giáo viên,
học sinh hiểu, nhớ được diễn biến chính của trận chiến đấu. Các em
sẽ dựa vào lược đồ kể lại rất tốt, đặc biệt đối tượng học sinh trung
bình cũng kể tốt mà không cần nhớ từng câu chữ trong sách giáo
khoa.
4.3.2.Tổ chức hoạt động giúp học sinh nắm được cách dùng tranh,
ảnh trong sách giáo khoa để tìm kiến thức.
Ngoài việc rèn cho học sinh kĩ năng sử dụng lược đồ. bản đồ thì
giáo viên cần tổ chức, hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ các
tranh ảnh bởi lịch sử là việc đã xảy ra từ quá khứ xa xưa, có thật và
đang tồn tại khách quan. Theo thường lệ, nhận thức lịch sử là phải
thông qua sự tồn tại khách quan của các nhân vật lịch sử, hiện
tượng lịch sử, sự kiện lịch sử đã diễn ra, cho nên việc đầu tiên, cần
thiết, tất yếu không thể bỏ qua là cho học sinh tìm hiểu qua tranh,
ảnh lịch sử.
Ví dụ: Bài Nước Văn Lang - sách giáo khoa Lịch sử & Địa lí
lớp 4 trang 11, tôi khai thác kiến thức từ ảnh các hiện vật như lưỡi
cày đồng, rìu đồng, đồ trang sức bằng đồng, thuyền rồng, hình ảnh
trang trí ở trống đồng.. như sau:

Yêu cầu quan sát các hình trong sách giáo khoa Lịch sử và Địa
lí trang 12,13,14 và đọc thông tin trong sách giáo khoa để trả lời các
câu hỏi:
+Người Lạc Việt biết làm những công cụ và những vũ khí gì để phục
vụ cho cuộc sống?


×