Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Anh chị hãy phân tích tác động của con người gây biến đổi khí hậu tác hại của biến đổi khí hậu đến môi trường sống, đề xuất các

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (540.86 KB, 24 trang )

TIỂU LUẬN
Đề bài:
Anh chị hãy phân tích tác động của con người gây biến đổi khí hậu. Tác hại của biến đổi
khí hậu đến môi trường sống, đề xuất các biện pháp giảm thiểu.

Họ và tên : Nguyễn Văn Đồng
MSSV

:718055

Lớp

: 55HK


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

BÀI LÀM
Chúng ta đang sống trong một thế giới với hơn 7 tỷ người trên diện
tích 149.000.000 km². Với quy mô lớn như vậy, con người đang từng bước
làm thay đổi diện mạo của trái đất, gây nên nhiều vấn đề làm tổn thương
nghiêm trọng đến môi trường sống. Chính vì vậy, môi trường đang là vấn đề
được cả thế giới quan tâm.
Trong bài tiều luận này, chúng ta sẽ bàn về các tác động của con
người đến biến đổi khí hậu, một trong những vấn đề lớn nhất mà chúng ta
phải đối mặt hiện nay, tác hại của biến đổi khí hậu đến môi trường sống và
các biện pháp giảm thiểu.
I. Thế nào là biến đổi khí hậu?
Trước tiên chúng ta cần hiểu: Biến đổi khí hậu là gì?
Biến đổi khí hậu: là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ
quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên


nhân tự nhiên và nhân tạo trong một giai đoạn nhất định từ tính bằng thập kỷ
hay hàng triệu năm. Sự biển đổi có thế là thay đổi thời tiết bình quân hay
thay đổi sự phân bố các sự kiện thời tiết quanh một mức trung bình. Sự biến
đổi khí hậu có thế giới hạn trong một vùng nhất định hay có thế xuất hiện
trên toàn Địa Cầu. Trong những năm gần đây, đặc biệt trong ngữ cảnh chính
sách môi trường, biến đổi khí hậu thường đề cập tới sự thay đổi khí hậu hiện
nay, được gọi chung bằng hiện tượng nóng lên toàn cầu. Nguyên nhân chính
làm biến đổi khí hậu trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất

2


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ và bể
chứa khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất
liền khác.
Biến đổi khí hậu không chỉ đơn thuần tác động tới tự nhiên mà còn là thách
thức về kinh tế, xã hội của nhân loại.
Chương trình môi trường Liên hiệp quốc (UNEP) nhận định, Biến đổi khí
hậu được xếp vào dạng vấn đề an ninh "phi truyền thống" và được xem như
là một trong những thách thức lớn nhất đối với "an ninh môi trường - phát
triển toàn cầu". Đến năm 2025, khoảng 5 tỉ người có thể sẽ sống trong
những khu vực có nguy cơ căng thẳng, xung đột liên quan đến nước và
lương thực. Đến năm 2050, khoảng 150 triệu người có thể phải rời khỏi
những khu vực duyên hải do nước biển dâng, bão, lụt hoặc nước ngọt bị
nhiễm mặn. Chất lượng sống kém, dân cư quá đông đúc và tình trạng thiếu
nước, mất vệ sinh cũng như không hiệu quả trong việc quản lý và xử lý rác
thải là nguyên nhân gây ra tỉ lệ mắc bệnh ngày một cao. Nếu như ở các nước
phát triển, trẻ em dưới 18 tuổi chiếm khoảng 20% dân số thì các nước chịu

nhiều ảnh hưởng của BĐKH mà hầu hết là nước thu nhập thấp, trẻ em dưới
18 tuổi lên đến gần một nửa dân số (như 42% ở Băng-la-đét, 51% ở An-giêri, 57% ở U-gan-da). Quan trọng hơn là trẻ em dưới 5 tuổi chiếm tới 10 20% dân số ở các nước chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi BĐKH như Ấn Độ
(11%), Băng-la-đét (12%), An-giê-ri và Mô-dăm-bích (17%), U-gan-da
(21%), trong khi các nước có thu nhập cao, tỉ lệ trẻ em dưới 5 tuổi chỉ chiếm
4 - 5% dân số.
II. Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu
Vậy nguyên nhân gì đã gây nên Biến đổi khí hậu

3


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

Nguyên nhân của biến đổi khí hậu trái đất bao gồm cả tự nhiên và nhân tạo.
Đó có thể là do sự chuyển động và thay đổi độ nghiêng của trục quay Trái
Đất, sự thay đổi quỹ đạo quay của Trái Đất quanh Mặt Trời, vị trí các lục địa
và đại dương và đăc biệt là sự thay đổi các thành phần vật chất trong khí
quyển. Tuy nhiên, nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu hiện nay, tiêu biểu là
sự nóng lên toàn cầu đã được khẳng định là chủ yếu do hoạt động của con
người.

Dân số tăng nhanh, các nhà máy, khu công nghiêp tăng cường hoạt
động để đáp ứng các nhu cầu của con người ( nhu cầu ăn, mặc, ở, thuốc
men,đi lại,…)
Đầu tiên, dân số tăng liên tục cũng là một nhân tố gây Biến đổi khí hậu thế
giới, vì càng nhiều người sinh sống trên Trái Đất sẽ càng thải ra nhiều lượng
khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính.

4



Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

Ngay trước Hội nghị thượng đỉnh khí hậu thế giới ở Copenhagen, Quỹ Dân
số Liên hợp quốc (Unfpa) đã cảnh báo dân số thế giới tăng sẽ gây hậu quả
nghiêm trọng đối với biến đổi khí hậu.
Báo cáo của Unfpa công bố tại Berlin ngày 18/11 khẳng định, việc dân số
tăng trong quá khứ phải chịu trách nhiệm đối với khoảng 50% lượng phát
thải CO2 trên thế giới.
Tình trạng tăng dân số diễn ra đặc biệt nhanh ở các nước nghèo kém phát
triển. 41% dân số châu Phi là dưới 15 tuổi, trong khi ở châu Âu chỉ là 15%.
Châu Phi không chỉ là lục địa có dân số trẻ nhất trên thế giới, mà các nước
Nam sa mạc Sahara cũng nghèo nhất thế giới.

Những người nghèo nhất trong số người nghèo phải chịu hậu quả nặng nề
nhất của quá trình biến đổi khí hậu. Hạn hán, sa mạc hóa, đất đai khô cằn đã
đẩy 25 triệu người phải rời bỏ quê hương; ước tính tới năm 2050 sẽ có 200
triệu người phải tị nạn do biến đổi khí hậu.
Ngoài ra, 1/10 dân số thế giới đang sống ở các khu vực ven biển. Biến đổi
khí hậu dẫn đến mực nước biển dâng cao có thể khiến 650 triệu người buộc
phải rời bỏ quê hương đi tìm nơi cư trú mới.

5


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

Báo cáo của Liên hợp quốc cảnh báo rằng cả nạn tăng dân số lẫn biến đổi
khí hậu đều diễn ra trầm trọng nhất ở các nước đang phát triển.
Hiện trên Trái Đất có gần 7 tỷ người sinh sống; dự đoán tới năm 2050 sẽ

tăng lên hơn 9 tỷ người. Tuy nhiên, nếu hạn chế được dân số ở mức 8 tỷ
người thì sẽ giảm bớt được 2 tỷ tấn khí thải CO2.
Tiếp đến, các hoạt động của các nhà máy, các khu công nghiệp để
phục vụ cho các nhu cầu của con người cũng là nguyên nhân gây Biến đổi
khí hậu. Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con người
đã sử dụng ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nguyên liệu
hóa thạch (than, dầu, khí đốt), qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng
các chất khí gây hiệu ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của
trái đất.

Những số liệu về hàm lượng khí CO2 trong khí quyển được xác định từ các
lõi băng được khoan ở Greenland và Nam cực cho thấy, trong suốt chu kỳ
băng hà và tan băng (khoảng 18.000 năm trước), hàm lượng khí CO2 trong
khí quyển chỉ khoảng 180 -200ppm (phần triệu), nghĩa là chỉ bằng khoảng

6


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

70% so với thời kỳ tiền công nghiệp (280ppm). Từ khoảng năm 1.800, hàm
lượng khí CO2 bắt đầu tăng lên, vượt con số 300ppm và đạt 379ppm vào
năm 2005, nghĩa là tăng khoảng 31% so với thời kỳ tiền công nghiệp, vượt
xa mức khí CO2 tự nhiên trong khoảng 650 nghìn năm qua.
Hàm lượng các khí nhà kính khác như khí mêtan (CH4), ôxit nitơ (N2O)
cũng tăng lần lượt từ 715ppb (phần tỷ) và 270ppb trong thời kỳ tiền công
nghiệp lên 1774ppb (151%) và 319ppb (17%) vào năm 2005. Riêng các chất
khí chlorofluoro carbon (CFCs) vừa là khí nhà kính với tiềm năng làm nóng
lên toàn cầu lớn gấp nhiều lần khí CO2, vừa là chất phá hủy tầng ôzôn bình
lưu, chỉ mới có trong khí quyển do con người sản xuất ra kể từ khi công

nghiệp làm lạnh, hóa mỹ phẩm phát triển.
Đánh giá khoa học của Ban liên chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC) cho
thấy, việc tiêu thụ năng lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành
sản xuất năng lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng… đóng góp
khoảng một nửa (46%) vào sự nóng lên toàn cầu, phá rừng nhiệt đới đóng
góp khoảng 18%, sản xuất nông nghiệp khoảng 9% các ngành sản xuất hóa
chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại (3%) là từ các hoạt động khác.
Từ năm 1840 đến 2004, tổng lượng phát thải khí CO2 của các nước giàu
chiếm tới 70% tổng lượng phát thải khí CO2 toàn cầu, trong đó ở Hoa Kỳ và
Anh trung bình mỗi người dân phát thải 1.100 tấn, gấp khoảng 17 lần ở
Trung Quốc và 48 lần ở Ấn Độ.
Riêng năm 2004, lượng phát thải khí CO2 của Hoa Kỳ là 6 tỷ tấn, bằng
khoảng 20% tổng lượng phát thải khí CO2 toàn cầu. Trung Quốc là nước
phát thải lớn thứ 2 với 5 tỷ tấn CO2, tiếp theo là Liên bang Nga 1,5 tỷ tấn,
Ấn Độ 1,3 tỷ tấn, Nhật Bản 1,2 tỷ tấn, CHLB Đức 800 triệu tấn, Canada 600
triệu tấn, Vương quốc Anh 580 triệu tấn. Các nước đang phát triển phát thải
tổng cộng 12 tỷ tấn CO2, chiếm 42% tổng lượng phát thải toàn cầu so với 7
7


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

tỷ tấn năm 1990 (29% tổng lượng phát thải toàn cầu), cho thấy tốc độ phát
thải khí CO2 của các nước này tăng khá nhanh trong khoảng 15 năm qua.
III. Tác hại biến đổi khí hậu đến môi trường sống
1. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng tới môi trường chung
a .C á c n ú i b ă n g và s ô n g bă n g đ a n g t e o n hỏ

Không cần tới những thiết bị đặc biệt để thấy rằng các sông băng và
núi băng trên thế giới đang nhỏ dần. Những lãnh nguyên bao la từng

được bao phủ bởi một lớp băng vĩnh cữu rất dày giờ đây được cây cối bao
phủ. Nam cực bị tan chảy, động thực vật ở vĩ tuyến thấp sẽ chịu tác động
lớndo tiếp xúc trục tiếp với ánh sáng Mặt trời. Cây cối ở Nam cực đa số
bị bao phủ quanh năm dưới lớp băng. Nay khi băng tan và mùa xuân đến
sớm khiến chúng lộ ra trên mặt đất, đâm chồi và ra hoa. Nghiên cứu chothấy
sản phẩm của sự quang hợp là clorophyl trong những lớp đất hiện đại có
hàm lượng cao hơn hẳn do với đất cổ, chứng tỏ rằng trong những năm qua
thực vật Nam cực bắt đầu có sự phát triển bột phát.
Nhiệt độ Trái đất tăng, không chỉ làm tan chảy những sông băng, núi băng
mà cả những lớp đất bị đóng băng vĩnh cửu dưới mặt đất. Hiệntượng này

8


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

làm đất bị co lại, khiến cho bề mặt trở nên không bằng phẳngnữa, chỗ lõm
xuống thành hố sâu, chỗ trồi lên thành đồi núi, có thể xa lộ,đường sá, nhà
cửa trên mặt đất bị nứt gãy. Ở vùng núi cao, sự tan chảytầng đất băng giá
vĩnh cứu gây ra hiện tượng trượt đá, trượt bùn. Những phát hiện mới cho
thấy chúng còn làm bùng phát các bệnh tiềm ẩn chẳnghạn bệnh đậu mùa có
thể quay trở lại khi phát lộ những các thi hài cổ xưa bị chảy rữa cùng với đài
nguyên (tundra).
b. Mực nước biển đang dâng lên

Nhiệt độ ngày càng cao trên trái đất khiến mực nước biển đang dần
dânglên. Nhiệt độ tăng làm các sông băng, biển băng hay lục địa băng trên
tráiđất tan chảy và làm tăng lượng nước đổ vào các biển và đại dương.Các
nhà khoa học đã tiến hành quan sát, đo đạc và nhận thấy rằng băng ở đảo
băng Greenland đã mất đi một số lượng lớn, gây ảnh hưởng trực tiếpđến các

đảo quốc hay các quốc gia nằm ven biển. Theo ước tính, nếu băng tiếp tục
tan thì nước biển sẽ dâng thêm ít nhất 6m nữa vào năm2100. Với mức này,

9


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

phần lớn các đảo của Indonesia, và nhiều thành phốven biển khác sẽ hoàn
toàn biến mất.
c. Bão lụt

Để dự đoán các ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến thời tiết, các
nhàkhoa học phải dùng đến các thiết bị hiện đại. Nhưng chẳng cần có thiết
bịhiện đại cũng thấy được những cơn bão khốc liệt đang ngày một nhiềuhơn.
Trong vòng chỉ 30 năm qua, số lượng những cơn giông bão cấp độmạnh đã
tăng gần gấp đôi.Theo ước tính, chỉ riêng ở Mỹ, trong vòng 100 năm qua (từ
1905 đến2005), số lượng những cơn bão mạnh đã tăng không ngừng. Nếu từ
1905 – 1930 chỉ có khoảng trung bình 3,5 cơn/năm thì con số nàylà 5,1
trong khoảng 1931-1994, và lên đến 8,4 từ 1995-2005.Mức độ thiệt hại về
sinh mạng và vật chất do các cơn bão và các trận lụtlội gây ra cũng đang ở
mức kỷ lục.
d. Hạn hán, cháy rừng :

10


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

Trong khi một số nơi trên thế giới chìm ngập trong lũ lụt triền miên

thì một số nơi khác lại hứng chịu những đợt hạn hán khốc liệt kéo dài. Hạn
hán làm cạn kiệt nguồn nước sinh hoạt và tưới tiêu, gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến nền nông nghiệp của nhiều nước. Hậu quả là sản lượng và nguồn
cung cấp lương thực bị đe dọa, một lượng lớn dân số trên trái đất đang và sẽ
chịu cảnh đói khát. Hiện tại, các vùng như Ấn Độ, Pakistan, và Châu Phi
đang hứng chịu những đợt hạn hán, lượng mưa ở các khu vực này ngày càng
thấp, và tình trạng này còn tiếp tục kéo dài trong vài thập kỷ tới. Theo ước
tính, đếnnăm 2020, sẽ có khoảng 75 triệu đến 250 triệu người dân châu Phi
thiếu nguồn nước sinh hoạt và canh tác, dẫn đến sản lượng nông nghiệp của
lụcđịa này sẽ giảm khoảng 50%.Đợt nắng nóng quét qua Châu Âu hồi năm
2003 đã làm thiệt mạng khoảng 35 ngàn người. Đó thật sự là dấu hiệu đáng
báo động của những thay đổi ngày càng tồi tệ của khí hậu.Các đợt nắng
nóng khủng khiếp đang diễn ra thường xuyên hơn gấp khoảng 4 lần so với
trước đây, và dự đoán trong vòng 40 năm tới, mức độ thường xuyên của
chúng sẽ gấp 100 lần so với hiện nay.
Hiện tượng nóng lên toàn cầu còn là nguyên nhân tực tiếp gây nên nhữngvụ
cháy rừng dữ dội. Trong những thập kỷ qua, các vụ cháy rừng ngàycàng phổ

11


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

biến hơn và kéo dài hơn. Các nhà khoa học đã tìm ra mối liên quan giữa
những vụ cháy không thể khống chế được với sự tăng nhiệt độ của môi
trường và hiện tượng tuyết tan sớm trong các năm, khiến rừng trở nên khô
hơn với thời gian lâu dài hơn khiến rừng dễ cháy hơn và cháy mãnh liệt hơn.
e. Mất đa dạng sinh học

Nhiệt độ trái đất hiện nay đang làm cho các loài sinh vật biến mất

hoặc có nguy cơ tuyệt chủng. Khoảng 50% các loài động thực vật sẽ đối mặt
với nguy cơ tuyệt chủng vào năm 2050 nếu nhiệt độ trái đất tăng thêm từ
1,1đến 6,4 độ C nữa. Sự mất mát này là do mất môi trường sống vì đất bị
hoang hóa, do nạn phá rừng và do nước biển ấm lên. Các nhà sinh vật học
nhận thấy đã có một số loài động vật di cư đến vùng cực để tìm môi trường
sống có nhiệt độ phù hợp. Ví dụ như là loài cáo đỏ, trước đây chúng thường
sống ở Bắc Mỹ thì nay đã chuyển lên vùng Bắc cực.Và dĩ nhiên con người
cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng. Tình trạng đất hoang hóa và mực
nước biển đang dâng lên cũng đe dọa đến nơi cư trú của chúng ta. Và khi
cây cỏ và động vật bị mất đi cũng đồng nghĩa với việc nguồn lương thực,
nhiên liệu và thu nhập của chúng ta cũng mất đi
12


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

f. Các hệ sinh thái bị phá hủy

Biến đổi khí hậu và lượng cacbon dioxite ngày càng tăng cao đangthử
thách các hệ sinh thái của chúng ta. Các hậu quả như thiếu hụtnguồn nước
ngọt, không khí bị ô nhiễm nặng, năng lượng và nhiên liệu khan hiếm, và
các vấn đề y tế liên quan khác không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của chúng
ta mà còn là vấn đề sinh tồn. Vì sự nóng lên của Trái đất làm mùa xuân đến
sớm nên những loài chim có thể chẳng tìm được sâu để nuôi sống mình và
giữ được những gen khoẻ mạnh cho thế hệ sau. Vì mới vừa bước vào năm
mới cây cối đã đâm hoa kết quả trong khi theo tập quán như mọi năm
chúng phải chờ đến thời gian nhất định mới di cư nên không kiếm được thức
ăn. Những loài nào có khả năng chỉnh lại chiếc đồng hồ sinh học trong cơ
thể và khởi hành cuộc “trường chinh” sớm mới có cơ hội thuận tiện hơn để
sống sót và chuyển giao các thông tin di truyền cho thế hệ sau; bằng cách đó

thay đổi dần cách sống cả một quần thể.

13


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

2. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến Việt Nam
a. Tác động tới yếu tố tự nhiên và môi trường
Ở nước ta, biến đổi khí hậu thể hiện rõ nhất ở sự gia tăng các hiện tượng thời
tiết cực đoan và thiên tai, cả về số lượng lẫn cường độ. Trong khi tình trạng
nắng nóng gay gắt kéo dài vào mùa hè kéo theo hạn hán dữ dội trên diện
rộng, thì trong những năm gần đây số cơn bão có cường độ mạnh cũng xuất
hiện nhiều hơn. Nhiều cơn bão có quỹ đạo di chuyển bất thường, phức tạp,
khó dự đoán và mùa mưa bão cũng kết thúc muộn hơn.

Sự gia tăng nhiệt độ khí quyển làm cho khí hậu các vùng ở nước ta nóng lên,
kết hợp với sự suy giảm lượng mưa làm cho nhiều khu vực khô hạn hơn.
Năm 2010, nhiệt độ có khả năng tăng khoảng 0,3 - 0,50C và mực nước biển
tăng thêm 9cm; tương tự, từ 1,1 - 1,80 C và 45cm vào năm 2100. Những khu
vực có nhiệt độ tăng cao nhất là vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc Trung
Bộ, nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,1 - 0,30C/thập niên. So với hiện
14


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

nay, vào năm 2070, dòng chảy sông/năm biến đổi trong khoảng từ +5,8 đến
-19% đối với sông Hồng và từ +4,2 đến -14,5% đối với sông Mê Kông; dòng
chảy kiệt biến đổi trong khoảng từ -10,3 đến -14,5% đối với sông Hồng và

từ -2,0 đến -24, 0% đối với sông Mê Kông; dòng chảy lũ biến đổi trong
khoảng từ +12,0 đến 0,5% đối với sông Hồng và từ +15,0 đến 7,0% đối với
sông Mê Kông. Xâm nhập mặn nước sông có thể lấn sâu nội địa tới 50 70km, tiêu diệt và phá huỷ nhiều loài sinh vật nước ngọt, 36 khu bảo tồn;
trong đó, có 8 vườn quốc gia, 11 khu dự trữ thiên nhiên sẽ nằm trong diện
tích bị ngập. Hệ thống sinh thái cũng bị tác động tiêu cực; tại 2 vùng đồng
bằng sông Hồng và sông Cửu Long, các hệ sinh thái rừng và đất ven biển sẽ
chịu nhiều thiệt hại.
b. Tác động tới phát triển kinh tế
Biến đổi khí hậu tác động đến hầu hết các ngành kinh tế. Tuy nhiên,
Việt Nam là 1 nước nông nghiệp nên các ngành nông – lâm- ngư nghiệp ảnh
hưởng nhiều nhất.
Biến đổi khí hậu cũng gây ra những tác động xấu đối với sản xuất
nông nghiệp và dẫn đến những quan ngại về an ninh lương thực. Sự nóng
lên trên phạm vi toàn lãnh thổ, đã tác động đến sinh trưởng, thời vụ, năng
suất cây trồng, làm tăng nguy cơ lây lan bệnh.
Nhiệt độ có xu hướng tăng cũng ảnh hưởng đến chất lượng sinh sản, quá
trình sinh trưởng của gia súc, gia cầm, làm tăng khả năng sinh bệnh, truyền
dịch của chúng. Ngành nông nghiệp đối mặt với nguy cơ thiếu hụt về giống
cây trồng, vật nuôi.

15


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

Biến đổi khí hậu cũng có khả năng làm tăng tần số, cường độ và tính cực
đoan của các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như: bão, lụt, tố, lốc, hạn hán,
rét hại làm vật nuôi chậm phát triển, mùa màng thất bát tất yếu làm ảnh
hưởng đến vấn đề an ninh lương thực. Điển hình như đồng bằng sông Cửu
Long, tình trạng nhiễm mặn, nhiễm phèn trên diện rộng làm thiệt hại đến

mùa màng; hạn hán thường xảy ra vào mùa khô, nắng nóng, lượng bốc hơi
lớn hơn lượng mưa nhiều lần đã làm cây trồng khô héo nhanh chóng, có thể
dẫn tới làm chết cây trồng hàng loạt. Nhiều kết quả nghiên cứu đã cho thấy,
trong mùa khô, độ ẩm của đất ở các vùng không có cây che phủ chỉ bằng 1/3
so với độ ẩm của đất ở những nơi có rừng che phủ, nhiệt độ trên bề mặt đất
có thể tăng cao tới 50-60oC vào buổi trưa hè. Những đặc điểm cơ lý của đất
như độ tơi xốp, độ liên kết, độ thấm, hàm lượng các chất dinh dưỡng và hàm
lượng vi sinh bị giảm đi đáng kể, đất trở nên khô, cứng, bị nén chặt, không
thích hợp với trồng trọt. Hàng triệu héc ta đất trống, đồi trọc mất rừng lâu
năm, đất mặn bị biến đổi cấu tạo và lý hoá tính, trở nên dễ bị xói lở, rửa trôi
mạnh, tích tụ sắt nhôm gây nên hiện tượng kết vón và đá ong hoá, đất loại
này hoàn toàn mất sức sản xuất nông, lâm nghiệp. Chỉ tính riêng đợt rét kéo

16


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

dài 33 ngày đầu năm 2008, theo số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, đã có 33.000 con trâu, bò, 34.000 ha lúa đã cấy, hàng
chục ngàn ha mạ non, nhiều đầm nuôi tôm ở tất cả các tỉnh phía Bắc và Bắc
Trung Bộ đã chết và ước tính thiệt hại lên tới hàng ngàn tỉ đồng.
Nước ta có bờ biển dài 3.260 km, hơn 1 triệu km2 lãnh hải, trên 3.000
đảo gần bờ và hai quần đảo xa bờ.. Hiện tượng biến đổi khí hậu với tình
trạng nước biển dâng làm tăng diện tích đất liền bị ngập lụt, gây khó khăn
cho thoát nước, tăng uy hiếp sự an toàn của những vùng có đê biển, làm xói
lở bờ biển và nhiễm mặn nguồn nước, ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp
và sinh hoạt của dân cư vùng ven biển, gây nguy cơ đối với các hoạt động
khai thác và nuôi trồng, đánh bắt thủy sản của ngư dân ven biển. Nơi sinh
sống thích hợp của một số loài thuỷ sinh nước ngọt bị thu hẹp, cùng với

nguy cơ nguồn nước sông bị suy giảm về lưu lượng, dẫn đến việc giảm năng
lực nuôi trồng thủy sản nước ngọt ở đồng bằng sông Hồng và sông Cửu
Long.

Biến đổi khí hậu cũng gây nhiều tác động tiêu cực tới trữ lượng các bãi cá và
nghề đánh bắt trên các vùng biển nước ta. Cường độ mưa lớn làm cho nồng độ
muối giảm đi trong một thời gian ngắn dẫn đến sinh vật nước lợ và ven bờ,
17


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

đặc biệt là loài nhuyễn thể hai vỏ (nghêu, ngao, sò…) bị chết hàng loạt do
không chống chịu nổi với nồng độ muối thay đổi. Các loại cá nhiệt đới kém
giá trị kinh tế tăng, ngược lại các loại cá cận nhiệt đới có giá trị kinh tế cao bị
giảm hoặc mất hẳn.
Hệ sinh thái rừng bị ảnh hưởng theo các chiều hướng khác nhau, nước
biển dâng làm giảm diện tích rừng ngập mặn, tác động xấu đến rừng tràm,
rừng trồng trên đất nhiễm phèn ở các tỉnh Nam Bộ. Ranh giới rừng nguyên
sinh cũng như rừng thứ sinh có thể dịch chuyển, nguy cơ diệt chủng của
động vật và thực vật gia tăng, một số loài thực vật quan trọng như trầm
hương, hoàng đà, pơ mu, gỗ đỏ, lát hoa, gụ mật… có thể bị suy kiệt. Nhiệt
độ và mức độ khô hạn gia tăng làm tăng nguy cơ cháy rừng, phát triển sâu
bệnh, dịch bệnh…;
Thay đổi nhiệt độ còn là dịch bệnh xảy ra cho nhiều loại cây trồng, vật nuôi,
cùng với môi trường nước xấu đi, là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
các loài vi sinh vật gây hại.
Các ngành công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ… đều chịu những
tác động tiêu cực từ hiện tượng biến đổi khí hậu gây ra. Các khu công nghiệp
thường được xây dựng nhiều ở các vùng đồng bằng, nơi có điều kiện giao

thông thuận lợi, sẽ phải đối mặt nhiều hơn với nguy cơ ngập lụt và thách thức
trong thoát nước do lũ từ sông và nước biển dâng. Các điều kiện khí hậu cực
đoan và thiên tai gia tăng cũng gây khó khăn trong việc cung cấp nguyên, vật
liệu cho các ngành công nghiệp, đồng thời làm giảm tuổi thọ của các công
trình, linh kiện, máy móc, thiết bị
c. Tác động đối với đời sống - xã hội
Ở nước ta trong những năm gần đây, số lượng người mất nhà cửa và kinh tế
lâm vào khó khăn sau mỗi trận bão, lũ lụt… là rất lớn. Điển hình là cơn bão
18


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

số 4 năm 2008 đã làm 162 người chết, làm sập, hỏng 11.500 căn nhà, trường
học, gây ngập úng 27.200 ha lúa và hoa màu, làm sạt trôi và bồi lấp 2,3 triệu
khối đất đá trên các công trình giao thông, thủy lợi và các khu nuôi trồng
thủy sản, làm chết 28.000 gia súc, gia cầm, thiệt hại lên tới 1.900 tỉ đồng.
Hậu quả của thiên tai không chỉ dừng lại ở đó, ảnh hưởng của chúng còn tồn
tại sau một thời gian dài, chất lượng sống con người ảnh hưởng nghiêm
trọng do thiếu ăn, thiếu nhà ở, y tế và giáo dục không đảm bảo.
Mới đây, theo báo cáo của Uỷ ban liên quốc gia về BĐKH đã khẳng định,
BĐKH gây tử vong và bệnh tật thông qua hậu quả của các dạng thiên tai như
sóng nhiệt/nóng, bão, lũ lụt, hạn hán… nhiều bệnh, dịch gia tăng dưới tác
động của sự thay đổi nhiệt độ và hoàn cảnh sống, nhất là các bệnh truyền
qua vật trung gian, như sốt rét, sốt xuất huyết, viêm não, các bệnh đường
ruột và các bệnh khác… Những bệnh này, đặc biệt phát tán nhanh ở các
vùng kém phát triển, đông dân cư và có tỉ lệ đói, nghèo cao thuộc các nước
đang phát triển. Nước ta, trong thời gian qua cũng đã xuất hiện một số bệnh
mới ở người và động vật (cúm gia cầm, bệnh lợn tai xanh…), nhiều bệnh có
diễn biến phức tạp và bất thường hơn (sốt xuất huyết) và gây ra nhiều thiệt

hại đáng kể.
Về giao thông vận tải, thông tin liên lạc bị gián đoạn, các cơ sở hạ tầng,
mạng thông tin bị hư hại nghiêm trọng sau những trận thiên tai. Việc củng
cố, khắc phục sau các sự cố do BĐKH gây ra hết sức khó khăn, tốn kém
nhiều thời gian và kinh phí.
IV. Biện pháp giảm thiểu
1. Biện pháp chung
Biến đổi khí hậu có tác động trực tiếp đến cuộc sống của mỗi con
người. Để ngăn chặn hiện tượng này theo các chuyên gia môi trường, có hai
19


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

vấn đề cần đặt ra đó là: giảm tác động biến đổi khí hậu và thích ứng với biến
đổi.
Để làm giảm tốc độ của biến đổi khí hậu không còn cách nào hơn con
người phải tiết kiệm năng lượng, thay đổi nhận thức về sử dụng nhiên liệu,
đưa các dạng năng lượng khác: năng lượng nhiên liệu sinh học, năng lượng
gió, năng lượng mặt trời vào thay thế các nhiên liệu hóa thạch như: than đá,
dầu lửa. Bởi việc lạm dụng các loại nhiên liệu này đang làm phát thải ra
không khí một lượng khí cacbon gây hiệu ứng nhà kính.Trong nông nghiệp và
lâm nghiệp, cần ngăn chặn có hiệu quả nạn chặt phá rừng, sử dụng phân bón
hữu cơ để ngăn chặn quá trình thải khí Mêtan vào không khí.
Mặt khác, cần phải tích cực triển khai những biện pháp thích ứng, nâng
cao nhận thức về biến đổi khí hậu và chủ động đối phó với biến đổi khí hậu để
tránh nhũng thiệt hại có thể xảy ra. Ở đây, các phương tiện truyền thông,
thông tin có một vai trò hết sức quan trọng.
2. Biện pháp giảm thiểu biến đổi khí hậu của Việt Nam
Việt Nam ta là một trong những nước chịu tác động nặng nề bởi biến

đổi khi hậu cho nên càng cần thực hiện những giải pháp đồng bộ, vừa góp
phần làm giảm biến đổi khí hậu vừa có những biện pháp thích ứng với tình
trạng biến đổi khí hậu.
a. Để ứng phó với bão, lũ lụt trên toàn lãnh thổ và nước dâng do bão ở các
vùng ven biển
- Thực hiện đầy đủ và có hiệu quả phương châm 4 tại chỗ (chỉ huy tại chỗ,
lực lượng tại chỗ, phương tiện tại chỗ và hậu cần tại chỗ).
- Tăng cường công tác dự báo thời tiết trên cơ sở hiện đại hoá ngành khí
tượng thủy văn (cả về con người và cơ sở vật chất).
20


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

- Tăng cường công tác thông tin thời tiết trên các phương tiện thông tin đại
chúng, đặc biệt là hệ thống phát thanh để đến được các vùng sâu, vùng xa,
ngư trường, hải đảo…

- Tăng cường cơ sở vật chất và mạng lưới cứu hộ thiên tai bão, lũ, đặc biệt là
vùng núi, ven biển, hải đảo và các ngư trường biển.
- Nhà nước quy hoạch, xây dựng các khu vực tránh bão, tránh lũ, vận động
người dân (có điều kiện kinh tế) xây nhà kiên cố, nhà cao tầng nhằm hạn chế
tối đa tổn thất về người và của. Từng địa phương, vùng có phương án, tổ
chức diễn tập theo phương án và tổ chức tốt cho người dân di chuyển đến
nơi cao và an toàn trước các trận bão và lũ lụt, nước dâng có cường độ lớn.
- Nhà nước có kế hoạch từng bước nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông, trồng
cây chắn sóng, trồng rừng ngập mặn ngoài đê để hạn chế tác động của bão,
lũ và nước dâng.
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục vận đồng người dân nâng cao nhận
thức và áp dụng các kĩ thuật giảm nhẹ, thích ứng với tình huống.

- Thực hiện huy động kinh phí của xã hội và các tổ chức quốc tế hỗ trợ cho
các khu dân cư xây dựng các biện pháp phòng ngừa và khắc phục hậu quả.
21


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

- Tiến hành các giải pháp giảm thiểu tác động của xói lởi như điều tra hiện
trạng, xây dựng giải pháp kĩ thuật phòng chống xói lở, đầu tư kiên cố hoá
một số đoạn đê xung yếu, quy hoạch các điểm dân cư, các dự án kinh tế - xã
hội vùng có nguy cơ xói lở, tổ chức và huy động sự tham gia của cộng đồng
vào công tác bảo vệ, duy tu đê điều hàng năm; đối với khu vực không có đê,
cần tổ chức di dân ra khỏi vùng có nguy cơ sạt lở trong mùa mưa bão.
b. Các giải pháp ứng phó với nguy cơ thiếu nước ngọt và xâm nhập mặn
- Về nhóm giải pháp trực tiếp bao gồm:
+ Xây dựng các hệ thống đê bao và bờ ngăn chống lũ và xâm nhập mặn ở
đồng bằng sông Cửu Long, kiên cố hoá và nâng cao đê biển, đê chắn lũ ở
đồng bằng sông Hồng và đồng bằng Trung Bộ.
+ Thúc đẩy ngư nghiệp thông qua ươm, nuôi, đa dạng hoá các mô hình thực
tiễn nuôi các loài thủy sản có khả năng chịu mặn ở các vùng ven biển đồng
bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng và các vùng khác.
+ Mở rộng diện tích rừng ngập mặn ở vùng ven biển, ven sông có sự tham
gia của cộng đồng địa
phương.
+ Xây dựng các trạm khai thác nước sạch và cung cấp nước sạch cho các
cộng đồng vùng ven biển với
các phương án công nghệ: khai thác nước ngầm tầng sâu ở vùng đồng bằng
ven biển; xây dựng các hồ chứa nước ngọt ở vùng cao liền kề; lọc nước mặn
bằng công nghệ thẩm thấu ngược.
- Về nhóm các giải pháp hỗ trợ gồm:

+ Giảm thiểu hiện tượng nhiễm mặn đồng bằng thông qua chính sách quản
lý và bảo vệ lưu vực sông.

22


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

Trong đó, đặc biệt quan tâm đến hợp tác quốc tế trong quản lý lưu vực sông
Mê Kông, sông Hồng.
+ Đối với các sông miền Bắc và miền Trung cần xây dựng quy trình vận
hành điều phối các hồ chứa thủy lợi, thuỷ điện đầu nguồn.
+ Thúc đẩy nghiên cứu các giống cây trồng có khả năng chống, chịu mặn,
ngập úng nhằm chuẩn bị để thích ứng với những biến đổi trong tương lai.
Đồng thời, tìm kiếm, phổ biến kiến thức, kinh nghiệm (đặc biệt là các kiến
thức bản địa) về thích ứng với khả năng BĐKH và thích nghi với nhiễm
mặn, nhiễm phèn…
+ Đưa vấn đề BĐKH vào chương trình học tập ở cấp trung học trở lên, phổ
biến thông tin về BĐKH và các giải pháp thích ứng, ứng phó khẩn cấp và
nâng cao nhận thức về các thảm hoạ liên quan đến thiên tai, khí hậu.
c. Hợp tác quốc tế ứng phó với BĐKH trái đất
- Việt Nam cần thoả thuận kí kết các hiệp định đa phương, song phương về
hỗ trợ tài chính và chuyển giao công nghệ mới, thân thiện với môi trường và
phối hợp, xây dựng, thực hiện các dự án CDM nhằm phục vụ phát triển bền
vững và giảm phát thải khí nhà kính.
- Nhà nước cần tăng cường hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong
lĩnh vực BĐKH và thoả thuận hợp tác về cơ chế phát triển sạch, đẩy mạnh
hợp tác tài chính, công nghệ và xây dưng năng lực trong giai đoạn mới sau
Nghị định thư Kyoto, tích cực tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị và đàm
phán quốc tế về các vấn đề liên quan đến BĐKH.

- Xây dựng các danh mục dự án thuộc lĩnh vực BĐKH để kêu gọi tài trợ và
thiếp nhận công nghệ từ các nước công nghiệp và các nước phát triển.
- Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong đào tạo, nâng cao năng lực thông qua đầu
tư trực tiếp, tư vấn và xây dựng các hệ thống cảnh báo sớm.
23


Nguyễn Hữu Hải- Lớp 55HK

- Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế về BĐKH để nghiên cứu, xây
dựng và thực hiện có hiệu quả Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với
BĐKH.
- Việt Nam cần tham gia hợp tác tích cực trong các dự án và chương trình
liên quan đến BĐKH khu vực, như Tuyên bố Singapore về biến đổi khí hậu,
năng lượng và môi trường; Hợp tác các nước Tiểu vùng sông Mê Kông về
quản lý lưu vực và tài nguyên nước sông Mê Kông; Hợp tác với Trung Quốc
về quản lý nước theo lưu vực sông Hồng, sông Đà.
Đồng thời, mọi người dân cần tích cực áp dụng mọi biện pháp tiết kiệm
sử dụng năng lượng, nhất là điện năng và xăng dầu vừa góp phần giảm chi
tiêu trong gia đình, vừa đóng góp đáng kể vào việc làm giảm bớt nguy cơ của
tình trạng biến đổi khí hậu.
Biến đổi khí hậu đang là vấn đề chung của cả cộng đồng chứ không
phải của bất kỳ quốc gia nào. Hiện nay, Trái đất là hành tinh duy nhất trong
hệ mặt trời có sự sống. Nhưng hành tinh xanh đó đang ngày càng bị phá hủy
nghiêm trọng bởi chính bàn tay của con người. Chính vì vậy, cả thế giới ần
chung tay góp sức bảo vệ, phục hồi môi trường, ra sức ngăn chặn biến đổi
khí hậu để bảo toàn sự sinh tồn trước mắt cho chinh chúng ta và cho các thế
hệ sau nay.

24




×