Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

PHÁT THANH TƯƠNG TÁC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.25 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA BÁO CHÍ
-----*******-----

TIỂU LUẬN
Đề tài: Phát thanh tương tác ở Việt Nam
hiện nay

Họ và tên: NGUYỄN THỊ CHÂU
Ngày sinh: 01/6/1985
Mã số học viên: 14035001
Lớp Cao học Báo chí K18
Học phần: Lý luận & thực tiễn báo Phát thanh –
Truyền hình
GVHS: TS ĐINH THU HẰNG

1


PHẦN MỞ ĐẦU
Là một trong những loại hình truyền thông ra đời sớm nhất, gắn với sự
ra đời của nước Việt Nam độc lập từ năm 1945, phát thanh Việt Nam đã đi theo
từng bước thăng trầm của lịch sử dân tộc qua hơn 65 năm với rất nhiều biến
động khốc liệt và hào hùng của lịch sử.
Phát thanh đã từng là loại hình độc tôn trong một thời gian dài. Thế
nhưng hiện nay, sự bùng nổ mạnh mẽ của các loại hình truyền thông khác đang
đặt phát thanh trước sự cạnh tranh lớn để lôi cuốn công chúng. Trước tình hình
này, mỗi loại hình truyền thông nói chung và phát thanh nói riêng cần phải phát
huy tối đa thế mạnh của mình.
Thực tế cho thấy, bên cạnh nhu cầu tiếp nhận thông tin, thính giả ngày


nay không chỉ đóng vai người nghe đài một cách thụ động mà còn muốn được
tham gia vào trong các chương trình phát thanh một cách chủ động. Nét đặc thù
trong tâm lý tiếp nhận thông tin của thính giả hiện nay là mong muốn có được
cảm giác gần gũi, thân mật, mong tìm được sự mới mẻ, đa đạng và xác thực. Vì
thế, phát thanh phải đáp ứng được nhu cầu này bằng việc khơi mở rộng rãi con
đường giao lưu, đối thoại, tương tác với thính giả. Phát thanh tương tác ra đời
từ nhu cầu này.
Trong thời đại hiện nay, xu hướng của truyền thông hiện đại đang có sự
dịch chuyển nhanh chóng từ một chiều (Người viết → độc giả/ khán thính giả)
trở thành công cụ giao tiếp ba chiều (Người viết ↔ bài báo/chương trình ↔ độc
giả/ khán thính giả). Phát thanh cũng không nằm ngoài sự dịch chuyển này. Để
thu hút công chúng thời hiện đại đến với làn sóng, phát thanh không còn cách
nào khác là phát huy lợi thế của mình, đó là: Thông tin nhanh, chính xác, sự gần
gũi, thân mật và đẩy mạnh tính tương tác.

2


Hiện nay, phát thanh tương tác là xu hướng mà bất cứ đài phát thanh nào
cũng muốn hướng đến.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT THANH VÀ TƯƠNG
TÁC
Vào cuối thế kỷ XIX, với những phát minh khoa học của
các nhà bác học người Nga và Mỹ về vô tuyến điện (radio),
phát thanh (báo nói) đã ra đời. Đến thế kỷ XX, vệ tinh xuất hiện
đã tạo ra một cuộc cách mạng lớn trong thông tin đại chúng,
tín hiệu phát thanh và truyền hình được trưyền đi khắp thế giới
một cách rộng khắp và mau lẹ. Con người có thể ngồi trong nhà

mình tiếp nhận thông tin về các sự kiện thuộc đủ các lĩnh vực
và mọi nơi trên trái đất một cách trực tiếp, cùng lúc, “như là
thật”. Những thế kỷ trước cuộc cách mạng công nghiệp, nghĩa
là khi nông nghiệp còn là cơ sở của nền văn minh, con người sử
dụng thông tin như là một độc quyền. Cuộc cách mạng công
nghiệp đã nghiền nát sự độc quyền thông tin nói trên. Các
phương tiện thông tin đại chúng phát triển như vũ bão, hàng
ngày đã chuyển một khối lượng thông tin khổng lồ từ những nơi
phát tới vô số những điểm tiếp nhận trên cả hành tinh. Cuộc
cách mạng siêu công nghiệp diễn ra vào thế kỷ XXI sắp tới sẽ
đưa con người đến những chân trời mới của thông tin. Số đài
sóng trung, sóng FM cho số đông thính giả có thể giảm đi.
Trong khi đó số đài phát sóng cho từng nhóm nhỏ người nghe
như: đài phát nhạc rock, đài phát nhạc cổ điển, đài phát sóng
CB, đài phát cho người nước ngoài v. v… ngày càng phát triển.
Nếu trong cuộc cách mạng công nghiệp người nghe, người xem
3


chưa có điều kiện để phản ứng trực tiếp hoặc tác động qua lại
với người truyền tin thì trong cách mạng siêu công nghiệp việc
đó trở nên bình thường.
Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật tạo ra sự “bùng nổ”
thông tin đã gây ra nhiều vấn đề phải suy nghĩ của ngành báo
chí điện tử hiện nay. Các phương tiện kỹ thuật mới làm đảo lộn
thói quen nghe, nhìn của công chúng. Những người làm công
tác phát thanh không thể ngồi yên trông đợi người nghe, người
xem tiếp nhận chương trình của họ theo một công thức cũ.
Cuộc cạnh tranh giữa các kênh phát thanh (radio), truyền hình
và nghe nhìn ngày càng gay gắt và sôi động, buộc những người

làm báo phát thanh phải suy nghĩ lại, cấu tạo lại, sáng tạo cái
mới để nâng cao chất lượng của chương trình. Muốn làm được
như vậy họ một mặt phải nâng cao trình độ trí thức chuyên
môn của mình, mặt khác phải thích ứng nhanh với những
phương tiện kỹ thuật hịên đại hơn. Chúng ta cùng đi tìm hiểu
khái niệm phát thanh.
1) Khái niệm phát thanh
Đó là một loại hình truyền thông đại chúng trong đó nội
dung thông tin được truyền tải qua âm thanh. Đó là điều đặc
thù của phát thanh trong đó âm thanh bao gồm ba yếu tố: lời
nói, âm nhạc và tiếng động.
Phát thanh có 2 loại hình:
- Phát thanh qua làn sóng điện
- Phát thanh truyền qua hệ thống dây đẫn
4


Trong đó loại hình thứ nhất là căn bản và là yếu tố quan
trong nhất tạo nên sức mạnh to lớn của phát thanh. Về mặt kỹ
thuật công nghệ của phát thanh chúng ta cũng cần phải đề cập
tới. Trong kỹ thuật phát thanh bao gồm hai loại là AM và FM.
+AM (Amplitute Modutation) là kỹ thuật điều biên được
áp dụng trong sóng dài, sóng trung và sóng ngắn.
+FM ( Frequency Modutation) là kỹ thuật điều tần được
áp dụng trong phát thanh cực ngắn.
2) Các đặc tính của phát thanh:
Các nhà nghiên cứu lý luận và những nhà thực hành phát
thanh Việt Nam có quan điểm: truyền thông qua phát thanh có
những đặc tính quan trọng chế đình các nguỳên tắc sản xuất
chương trình.



Đặc tính thứ nhất là tính quảng bá.

Phát thanh có độ phủ sóng rất rộng. Sóng phát thanh có
thể phủ trên phạm vi rộng lớn của quốc gia hoặc quốc tế. Có
quan niệm cho rằng phát thanh là báo điện tử “không cần
giấy”, “không có khoảng cách”. Một sự kiện được thông tin qua
mạng lưới phát thanh có thể đến với hàng triệu người nghe ở
những vùng địa lý khác nhau trong cùng một thời điểm. Chính
bởi vậy, thông số về độ phủ sóng của một đài phát trên một
diện tích địa lý là yếu tố được chú trọng đầu tư. Sóng phát
thanh len lỏi vào những ngõ ngách mà nhiều khi truyền hình,
báo in rất khó tiếp cận, chưa kể những phường tiện truyền
thông khác còn nhiều hạn chế trong việc quảng bá đại chúng

5


rộng rãi. Có thể nói phát thanh là phương tiện thông tin mang
tính tiện lợi và đại chúng nhất.


Đặc tính thứ hai của phát thanh là tính đồng
thời.

Khi sự kiện diễn ra, với phường tiện thu gọn nhẹ, quy trình
sản xuất và phát sóng tương đối đơn giản và năng động, phát
thanh có khả năng chuyển thông tin về sự kiện tức thời tới
người nghe. Các chương trình phát thanh trực tiếp phát huy cao

nhất đặc tính này. Thời gian xảy ra sự kiện trùng với thời gian
thông tin. Đặc tính này góp phần tăng tính chân thực, hấp dẫn
của thông tin phát thanh. Tính tức thời của phát thanh thể hiện
sự nhanh nhạy của thônh tin. Phát thanh có khả năng truyền
đạt thông tin ngay khi sự kiện đang diễn ra cùng lúc với diễn
biến của nó đến đông đảo công chúng. Tính tức thời rút ngắn
khoảng cách không gian, khiến người nghe được trực tiếp tiếp
xúc với thông tin nhanh nhất, đáp ứng tốt nhất sự mong đợi.


Đặc tính thứ ba là tính hướng tới thính giả.

Đối tượng tiếp nhận thông tin của phát thanh là người
nghe, trừ người khiếm thính. Tâm lý tiêp nhận thông tin của
công chúng là tâm lý của người tiếp nhận thông tin bằng thính
giác cùng với khả năng liên tưởng rất phong phú.
Việc tiếp nhận thông tin từ các phương tiện truyền thông
luôn tạo ra cho mỗi người niềm hứng thú riêng tuỳ thuộc vào
phong cách đặc trưng truyền tin của phương tiện ấy. Nếu như
truyền hình hấp dẫn bằng hình ảnh sống động nhiều màu sắc,
báo in là sự đọc và nghiền ngẫm thì ở phát thanh người ta cảm
nhận được tính gần gũi giao lưu thân mật giữa người truyền tin
6


và người tiếp nhận. Ngôn ngữ nói tạo ra những hình ảnh bằng
âm thanh là phương tiện hiệu quả nhất để con người dễ dàng
tiếp nhận thông tin từ chủ đề truyền tin. Tính giao lưu thân mật
giữa người nói và ngưòi nghe thể hiện ở chính ngôn ngữ nói mà
phóng viên, biên tập viên phát thanh sử dụng để truyền tải

thông tin. Phát thanh có đặc trưng là ngôn ngữ nói cho người
nghe nên càng dễ hiểu, ngắn gọn, gần gũi và lôi cuốn được
thính giả.
Có thể nói phát thanh là một phương tiện truyền thông
không thể thay thế hay loại bỏ, cho dù ở thời đại bùng nổ thông
tin có sự cạnh tranh gay gắt giữa các loại hình truyện thông
trong cuộc chạy đua giành lưu tâm của công chúng. Phát thanh
có khả năng to lớn trong việc cung cấp cho công chúng những
thông tin nhanh nhất. Phương tiện, thiết bị thu phát tín hiệu
phát thanh cũng gọn nhẹ. Phát thanh có lợi thế hơn hẳn truyền
hình trong việc tiếp cận nguồn tin ở những địa điểm cách xa đô
thị. Thông tin chuyển tải qua phát thanh về cơ bản nhanh hơn
truyền hình, hơn hẳn báo in và phổ cập đại chúng hơn nhiều
báo chí trực tuyến.
Chỉ cần một máy thu thanh nhỏ, chúng ta có thể bắt được
sóng và nghe được nhiều chương trình phát thanh khác nhau
của các đài phát thanh khác nhau của các địa phương, quốc gia
hay nước ngoài. Phát thanh có khả năng phát huy việc truyền
tin theo diện rộng nhanh chóng tạo ra những hiệu ứng xã hội.
Xét từ góc độ công nghệ, phát thanh AM có khả năng truyền đi
khoảng cách không gian rộng lớn với sự hỗ trợ của vệ tinh, tạo
khả năng phủ sóng toàn cầu. Xét từ góc độ tính kinh tế,giá
7


thành của một chiếc máy thu thanh thấp hơn nhiều so với một
chiếc máy thu hình.
Tuy nhiên, hạn chế của phát thanh dễ dàng nhận thấy
nhất là độ xác định của thông tin tiếp nhận. Do thông tin được
công chúng tiếp nhận bằng thính giác nên thông tin xuất hiện

theo chuỗi âm thanh tuyến tính. Người nghe hoàn toàn bị động
về tốc độ, trình tự vân hành của dòng âm thanh. Chỉ cần một
thời điểm không tập trung chú ý, có thể dẫn đến tình trạng hiểu
không đúng hoặc khônng đầy đủ nội dung thông điệp truyềntải.
Thêm đó, những thông tin có tính logic phức tạp, có nhiều mối
quan hệ đan xen mà chưa qua những bước xử lý thông tin quy
chuẩn của phát thanh, có khi mang lại hiệu quả thấp. Khả năng
ghi nhớ nhanh một chuỗi thông tin bằng thính giác của con
người cũng có giới hạn nhất định. Để khắc phục những hạn chế
đó, những người biên tập chương trình đã xây dựng nhiều
chương trình xen kẽ, sử dụng cách diễn đạt súc tích và lặp lại
nhiều lần nhưng thông tin quan trọng.
3.

Tương tác:
3.1. Tương tác trong truyền thông
Tương tác trong lĩnh vực truyền thông nói chung là sự tác động của

thông tin đến công chúng và sự phản hồi của công chúng đến các cơ quan báo
chí dưới nhiều hình thức khác nhau. Cho phép công chúng truyền thông cùng
tham dự vào nội dung thông tin của báo như phản hồi tin tức, liên hệ với
chuyên gia, với những độc giả khác hay chính với người làm báo. Hoạt động
tương tác luôn diễn ra hai chiều, do đó góp phần nâng cao tính tính chủ động và
dân chủ trong tiếp nhận thông tin.

8


Trước đây, sự phản hồi của công chúng đối với các cơ quan truyền
thông diễn ra chậm. Hình thức chủ yếu là qua thư gửi bưu điện. Hiện nay, với

sự phát triển của công nghệ thông tin và viễn thông, sự phản hồi của công
chúng diễn ra nhanh hơn, thậm chí diễn ra ngay khi tác phẩm báo chí vừa đến
với công chúng. Chúng ta có thể thấy điều này trong các chương trình truyền
hình, chương trình phát thanh tương tác phát sóng trực tiếp và nhất là với báo
mạng trực tuyến.
3.2.

Tương tác trong truyền hình

Ở nước ngoài, truyền hình tương tác (Interactive television) được xem
như một thuật ngữ kỹ thuật, nhằm phân biệt với các hình thức truyền hình
không trả tiền và người xem không được phép chọn lựa nội dung cần xem.
Truyền hình tương tác là phương thức xem truyền hình mà người xem phải trả
tiền và được quyền chọn lựa chương trình để xem nhờ công nghệ kỹ thuật số.
Ở một phạm vi khác, thuật ngữ “tương tác” còn được xem như một
phương thức mới, tính chất mới trong sản xuất các chương trình truyền hình, đó
là tính “giao tiếp truyền hình” theo cách làm mới, dân chủ hơn, không bị sa vào
một chiều thông tin như trước đây.
Ở Việt Nam, tính tương tác trong truyền hình cũng bắt đầu được chú
trọng trong nhiều năm trở lại đây. Hình thức tương tác phổ biến nhất trên truyền
hình hiện nay là tương tác bằng cách nhắn tin điện thoại. Đây là cách thức đơn
giản nhất và thu hút khán giả của các kênh truyền hình.
Năm 2007, kênh VTV3 phát sóng bộ phim Nhật ký Vàng Anh, là chương
trình phim truyền hình nhiều tập có tính tương tác đầu tiên tại Việt Nam. Mỗi
tập phim dài 10 phút, nói về các tình huống thường gặp trong đời sống tâm lý,
giới tính của tuổi vị thành niên thông qua nhân vật chính là Vàng Anh. Cuối
mỗi tập sẽ có phần câu hỏi dành cho khán giả. Khán giả sẽ chọn phương án
9



đồng ý, không đồng ý hoặc phương án khác so với cách ứng xử của Vàng Anh
thông qua tổng đài tin nhắn. Từ đó các ý kiến sẽ được tổng kết lại. Phương án
được lựa chọn bởi nhiều người nhất sẽ được thể hiện ở ngay tập phim tiếp theo.
Sự thành công của những chương trình tương tác về nội dung như Nhật
ký Vàng Anh là ở chỗ, nó đã tạo ra cho khán giả cái cảm giác được điều khiển
câu chuyện theo ý mình. Và với cảm giác đó, chương trình trở nên gần gũi và
thân thiện hơn với công chúng.
Một trong những hình thức tương tác khác ở truyền hình Việt Nam
chính là các dạng chương trình Talk show. Đây là hình thức tương tác trực tiếp,
giao lưu trực tiếp với người thực hiện chương trình và khách mời của chương
tình. Các chương trình như: Như chưa hề có cuộc chia ly phát trên kênh VTV1
của Đài truyền hình Việt Nam, Sao online của Đài truyền hình Kỹ thuật số
VTC, chương trình Góc nhìn không gian phát sóng trên kênh truyền hình
VTC1, Chương trình Sáng ngời y đức nằm trong Chuyên mục Giao lưu, phát
sóng vào thứ Năm hàng tuần trên kênh HTV9, chương trình Trang web đồng
đẳng trong chuyên mục Những ước mơ xanh, phát vào tối thứ bảy (hai tuần một
lần) trên VTV1... là những chương trình truyền hình tương tác. Với những
chương trình dạng Talk show như thế này, người xem có thể gọi điện thoại trực
tiếp, bày tỏ ý kiến với nhân vật của chương trình trong các chương trình tọa
đàm, giao lưu được phát sóng trực tiếp.
Năm 2007, Truyền hình Việt Nam có thêm kênh mới – VTV6 , ra mắt
chương trình truyền hình dành cho thanh thiếu niên, theo phong cách mới:
Truyền hình tương tác. Điều này tạo nên sự mới mẻ, mang tính đột phá trong
việc sản xuất chương trình của truyền hình Việt Nam. Các chương trình của
kênh VTV6 tương tác với khán giả dưới nhiều hình thức khác nhau như: truyền
hình, Internet (email, webcam, blog), điện thoại di động, điện thoại cố định...

10



ngay trong lúc chương trình đang phát sóng hay trước đó. Nhiều chương trình
có khán giả tham gia vào việc sản xuất nội dung.
Có thể nói, những năm gần đây, xu hướng “tương tác” giữa chương trình
truyền hình và khán giả ngày càng được mở rộng. Từ chỗ hạn hẹp trong các
chương trình phim truyện, âm nhạc, trò chơi truyền hình, hiện đã lan rộng đến
các chương trình mang tính xã hội, dân sinh...
3.3.

Tương tác trong báo in

Hiện nay, báo in cũng đang từng bước nâng cáo tính tương tác giữa tòa
soạn và bạn đọc. Hình thức tương tác chủ yếu là thư góp ý và các cuộc điện
thoại đường dây nóng. Ngoài ra, tùy từng cơ quan – tờ báo khác nhau mà đã tạo
nên nhiều hình thức tương tác mới mẻ.
3.4.

Tương tác trong báo trực tuyến

Hiện nay, trong số các phương tiện thông tin đại chúng thì báo mạng
điện tử có nhiều ưu thế trong tương tác hơn cả. Nhờ những đặc trưng về công
nghệ, yếu tố thông tin nhanh, độc giả dễ dàng truy cập, tính tương tác của báo
trực tuyến trở nên nổi trội hơn so với các loại hình còn lại.
Không dừng lại ở sự tương tác giữa độc giả với toà soạn, ở báo mạng
điện tử, chúng ta còn có thể thấy sự tương tác nhiều chiều giữa độc giả với nhà
báo, độc giả với độc giả, hay độc giả với nhân vật trong tác phẩm báo chí…
Ở báo mạng điện tử, có hai hình thức phổ biến :
- Hình thức tương tác thứ nhất, đơn giản và tiện lợi. Đó là tương tác
bằng các mục phản hồi, ý kiến bình luận (comment) … ngay dưới mỗi bài viết
được đăng tải. Với phần này, độc giả có thể thoải mái bàn luận về vấn đề ở bài
viết trên. Sự phản hồi này làm cho vấn đề nêu lên được đánh giá nhìn nhận dưới

11


nhiều góc độ khác nhau, thậm chí là những ý kiến trái chiều. Do đó, thông tin
trở nên phong phú, đa dạng; người được hưởng lợi chính là độc giả.
Bên cạnh bình luận, còn nhiều cách hình thức tương tác khác như qua
hồi đáp (feedback), bầu chọn (vote), thư điện tử (email), diễn đàn (forum), thậm
chí kể cả thư tay ... cũng rất tiện để độc giả đóng góp ý kiến. Những hình thức
này khó thấy trên các loại hình báo chí còn lại.
- Hình thức thứ hai - sống động hơn, đó là giao lưu trực tuyến với các
nhân vật, khách mời thuộc các lĩnh vực khác nhau. Những cuộc giao lưu trực
tuyến đã phát huy tối đa tính tương tác giữa những người làm báo, khách mời
và độc giả.
3.5.

Tương tác trong phát thanh

So với báo mạng điện tử, báo phát thanh thực hiện tương tác không
thuận lợi bằng bởi sự kiểm soát thính giả tham gia chương trình trực tiếp qua
điện thoại phức tạp hơn. Nhưng so với truyền hình, báo phát thanh có nhiều
thuận lợi trong việc thực hiện tương tác. Bởi tính chất của báo phát thanh là âm
thanh, tiếng nói - ý kiến của thính giả dễ dàng chuyển tải lên chương trình, làm
nên một phần của nội dung. Hơn nữa, bởi sự thân mật trong phát thanh và yếu
tố tâm lý “không phải lên hình”, phát thanh tương tác đang ngày càng bộc lộ thế
mạnh của nó. Thực hiện phát thanh tương tác không đòi hỏi nhiều nhân lực và
không tốn kém như truyền hình.

12



CHƯƠNG 2
PHÁT THANH TƯƠNG TÁC
1.

Khái niệm phát thanh tương tác

Tương tác trong phát thanh là sự giao lưu, tác động qua lại giữa những
người thực hiện chương trình phát thanh và thính giả về các nội dung mà
chương trình đề cập nhằm mục đích trao đổi thông tin, đem lại cho cả hai bên
những nhận thức mới, làm thỏa mãn nhu cầu thông tin đa chiều và nhu cầu
được tham gia vào các chương trình phát thanh của thính giả. Người làm phát
thanh từ những thông tin phản hồi của thính giả có thể điều chỉnh nội dung,
cách thức thể hiện để đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng thời hiện đại.
Một chương trình phát thanh được gọi là phát thanh tương tác khi có :
- Sự giao lưu, tác động qua lại giữa người làm chương trình với thính giả
diễn ra đồng thời với việc sản xuất chương trình phát thanh. Điều này có nghĩa
là thính giả tham gia vào nội dung, làm nên một phần của nội dung chương
trình. Ở chương trình phát thanh tương tác, phương thức tối ưu là phát thanh
trực tiếp.
- Đây là chương trình phát thanh mở, có tính linh họat theo diễn tiến của
nhu cầu thính giả đang tham gia vào chương trình. Ở một số chương trình tương
tác đặc thù, nếu thính giả không tham gia tương tác, chương trình không thể tồn

13


tại. (Chẳng hạn như các chương trình mang tính chất tư vấn, giải đáp thắc mắc
của công chúng…)
- Thông tin có tính chất hai chiều và mang tính đối tượng cao. Nếu như
trong chương trình phát thanh không tương tác, thông tin tác động một chiều

(chỉ cung cấp thông tin cho thính giả) thì trong các chương trình phát thanh
tương tác, hệ thống liên kết hai chiều đã được thiết lập rõ ràng. Đặc trưng chủ
yếu của phát thanh tương tác chính là ở chỗ thính giả có khả năng tác động trực
tiếp vào nội dung chương trình. Mỗi chương trình thường hướng đến một nhóm
đối tượng nhất định.
- Sự giao lưu với thính giả khiến chương trình sinh động, hấp dẫn, linh
hoạt, cuốn hút người nghe.
2.

Ưu thế của phát thanh tương tác

Là một trong những cách làm khá mới mẻ hiện nay của phát thanh nước
ta, phát thanh tương tác đang ngày càng chứng tỏ những ưu thế vượt trội của
nó.
-

Thính giả của chương trình phát thanh tương tác không chỉ nghe thụ
động một chiều mà còn có thể trình bày ý kiến, quan điểm của mình đối với
những vấn đề mà chương trình đề cập. Họ sẽ mang đến cho chương trình những
thông tin thiết thực từ nhiều góc độ khác nhau. Người nghe có thể xen vào nội
dung và góp phần định hướng phát triển của nội dung vấn đề họ quan tâm.
Tiếng nói của thính giả trong các chương trình phát thanh tương tác sẽ xóa đi
tính một chiều, áp đặt của thông tin. Vì thế thông tin trong các chương trình
phát thanh tương tác trở nên đa chiều và có tính khách quan hơn.

-

Phát thanh tương tác cho phép người nghe tác động đến chương trình
mình tham gia. Với một kịch bản mở, nội dung chương trình phát thanh tương
tác không chỉ là những thông tin mà phóng viên, biên tập viên soạn ra theo quan

14


điểm mà còn là những thông tin phản hồi đa chiều từ phía người nghe. Với cách
làm này, phát thanh tương tác sẽ thay đổi cách nghe đài, cách thức tiếp nhận
thông tin của thính giả (từ thụ động sang chủ động).
-

Sự tương tác trong chương trình phát thanh thúc đẩy quá trình dân chủ
hóa thông tin trong cơ chế truyền thông. Thính giả tham gia vào chương trình
đã khẳng định báo chí của chúng ta thực sự là diễn đàn của nhân dân, là nơi
nhân dân có thể phát biểu ý kiến, trình bày tâm tư, nguyện vọng. Thính giả từ
chỗ chỉ là người tiếp nhận thông tin một chiều, đến với chương trình phát thanh
tương tác họ đã trở thành một thành viên của chương trình. Lúc này họ đóng hai
vai: vừa là đối tượng tiếp nhận thông tin, vừa là người tham gia vào quá trình
xử lý thông tin, góp phần quyết định nội dung chương trình. Họ gợi mở thông
tin, nên lên những vấn đề cần bàn, làm cho quá trình thông tin được dân chủ
hóa sâu sắc. Sự giao lưu của thính giả đối với chương trình sẽ tạo nên một diễn
đàn ngôn luận dân chủ, công khai.

-

Không chỉ tạo ra một kênh thông tin dân chủ hơn, phát thanh tương
tác còn tạo ra những chương trình mang đậm hơi thở đời sống, gần gũi thiết
thực với bạn nghe đài. Khi tham gia vào các chương trình tương tác, thính giả
có thể bày tỏ, phản ánh những sự kiện, hiện tượng tốt, xấu trong đời sống, có
thể đặt câu hỏi từ những thắc mắc về sản xuất, kinh doanh, sức khỏe, tình yêu,
hôn nhân gia đình, chế độ chính sách, hoặc yêu cầu ca nhạc…

-


Chương trình phát thanh tương tác cho thính giả cảm giác như được
trực tiếp trò chuyện với những người thực hiện chương trình. Bởi những câu
hỏi, những ý kiến của thính giả tham gia trong chương trình thường là câu hỏi/
ý kiến của nhiều người, khiến cho thắc mắc của một người được giải đáp cho
nhiều người. Sức thu hút công chúng của chương trình phát thanh tương tác
chính là ở chỗ đó. Tích hợp tính tương tác, phát thanh sẽ kéo thính giả đến gần
hơn với chương trình, và phát thanh sẽ trở thành “phát thanh của mọi nhà”. Khi
15


đã tạo ra được những liên kết chặt chẽ hơn với thính giả, khả năng cạnh tranh
của chương trình phát thanh sẽ tăng lên đáng kể, đặc biệt là trong môi trường
thông tin mở như hiện nay.
- Ý kiến của thính giả được chuyển đến chương trình bằng nhiều hình
thức: Thư gửi bưu điện, thư điện tử, tin nhắn, gọi điện thoại trực tiếp. Nếu là
chương trình phát thanh trực tiếp thì sau khi gọi điện thoại đến chương trình,
ngay lập tức thính giả được giải đáp hoặc được chia sẻ. Nhu cầu muốn biết,
muốn được chia sẻ, giao lưu của thính giả được thỏa mãn tức thời. Tính tương
tác trong các chương trình phát thanh tạo ra một cơ chế thông tin sát hợp và
nhanh chóng. Điều đó làm cho người nói và người nghe gần gũi nhau, hiểu biết
nhau để đi đến sự hiểu biết chung, làm thay đổi nhận thức và hành động tích
cực. Những thắc mắc, nhu cầu, tình cảm của công chúng được phản ánh tức thì,
được đáp ứng tức thì, mang lại hiệu quả truyền thông cao. Điều này khẳng định
tính liên tục và sự thực hiện đầy đủ, nhanh chóng một quy trình truyền thông
radio.
- Một chương trình phát thanh tương tác có thính giả tham gia, tính đối
tượng của chương trình được cụ thể hóa và được nâng cao. Khi đối tượng phục
vụ càng được xác định cụ thể thì chương trình càng gắn bó, có ý nghĩa thiết
thực đối với thính giả. Thu hút thính giả tham gia vào chương trình là cách để

chương trình phát thanh gắn với họ, thuộc về họ. Những người làm chương
trình có cơ hội để nắm bắt nhu cầu, tâm lý, sơ thích, đặc điểm của nhóm đối
tượng mà chương trình hướng tới, từ đó tiếp tục xây dựng nội dung chương
trình theo hướng đối tượng hóa. Chương trình nào càng khu biệt rõ đối tượng
phục vụ của mình, hiệu quả truyền thông càng cao.
- Phát thanh tương tác với sự tham gia của thính giả làm cho chương
trình sinh động, đa thanh, và có sức hấp dẫn, thu hút sự chú ý của bạn nghe đài.
Chương trình phát thanh tương tác có điểm khác biệt rất lớn so với chương
16


trình không tương tác, đó chính là sự đa dạng lời nói. Nếu như chương trình
phát thanh bình thường chỉ có giọng nói của biên tập viên, phát thanh viên,
hoặc đối tượng phỏng vấn thì phát thanh tương tác có thêm một dạng lời nói
nữa, đó là lời nói của thính giả. Tiếng nói của thính giả làm cho chương trình đa
dạng hơn bởi thính giả có thể là nông dân, tiểu thương, trí thức, công nhân, bác
sĩ, giáo viên… ở nhiều địa phương khác nhau, với nhiều trình độ khác nhau. Sự
đan xen giữa giọng nam – nữ, chất giọng Bắc – Trung – Nam, các vùng miền,
cùng với âm thanh hiện trường – âm thanh phòng thu khiến chương trình có
tính đa thanh rõ nét.
Tính đa dạng về ngôn ngữ, âm sắc giọng nói làm nên sắc màu văn hóa
phong phú của chương trình phát thanh tương tác. Sự tham gia của thính giả
vào chương trình phát thanh đem lại niềm tin tưởng, cảm giác gần gũi, gắn bó
giữa chương trình và thính giả. Bởi sự xuất hiện của tiếng nói thính giả đã kéo
chương trình này xích lại gần công chúng hơn, đem lại cho họ cảm giác gần
gũi, thân quen, làm cho người nghe cảm nhận rằng chương trình đó dành cho
chính mình.
Từ những vấn đề đã trình bày trên đây, có thể phác họa những nét căn
bản của phát thanh tương tác so với phát thanh không tương tác như sau:
Tiêu chí so


Phát thanh không tương tác

Phát thanh tương tác

sánh

Người tham Người dẫn chương trình, phóng Thính giả tham gia vào chương
gia lên sóng viên, phát thanh viên

trình

cùng

với

người

dẫn

chương trình, phóng viên, biên
tập viên.
Tính đối

Thấp

Cao. Chia thành nhiều nhóm đối
17



tượng

tượng thính giả khác nhau theo
các tiêu chí cụ thể.

Cách thức

Tiếp nhận thông tin một chiều Có sự trao đổi thông tin qua lại

tiếp cận

→ Bị động

Ngôn ngữ

- Chất đối thoại giao lưu ít, đọc - Chất đối thoại, giao lưu được

→ Chủ động

nhiều hơn nói.

tăng cường, ngôn ngữ nói là chủ

- Dạng lời nói đơn điệu.

yếu.
- Dạng lời nói đa dạng, phong
phú.

Tính chất


- Tính thân mật, gần gũi bị hạn

chương

chế.

trình

- Người tham gia sản xuất
chương trình không phải xử lý
các tình huống bất ngờ

- Tăng cường sự gần gũi, thân
mật, gắn bó với thính giả.
- Người tham gia sản xuất
chương trình phải có năng lực
xử lý các tình huống bất ngờ,
ngoài kịch bản.

- Kém phần sống động, hấp dẫn.

- Sống động, hấp dẫn, mang
đậm hơi thở cuộc sống.

Dấu ấn

- Chương trình mang dấu ấn cá - Đề cao vai trò làm việc theo

chương


nhân rõ nét.

nhóm, chương trình mang dấu

trình

ấn của cả nhóm.

18


Kịch bản

- Kịch bản đóng.

- Hầu hết các chương trình phát
thanh tương tác phát sóng trực
tiếp là kịch bản mở.

Vai trò của chương trình phát thanh tương tác
Hiện đang phát triển trên Đài Tiếng nói Việt Nam, các chương trình phát
3.

thanh tương tác đảm nhận một vai trò vô cùng quan trọng.
3.1.
Đối với công chúng
Hiện nay, việc thụ động tiếp nhận thông tin một chiều đã không còn hợp
thời. Bởi thính giả không chỉ muốn nghe còn muốn được giao lưu, muốn bày tỏ
ý kiến, thậm chí muốn cung cấp thông tin, bình luận một vấn đề mà chương

trình đề cập.
Với sự đa dạng trong nội dung và phương thức sản xuất, các chương
trình phát thanh tương tác hiện nay đã tạo cơ hội cho thính giả thực sự góp tiếng
nói của mình vào các chương trình phát thanh.
Trong các chương trình phát thanh truyền thống, thông tin chỉ là dòng
chảy một chiều từ người viết đến thính giả. Điều này dẫn đến tính thụ động
người nghe.
Chương trình phát thanh tương tác gắn bó với thính giả, giúp người nghe
bộc lộ bản thân, cởi mở, tự tin bày tỏ quan điểm của mình. Họ sẽ quan tâm
nhiều hơn đến thông tin chương trình đem lại, tìm thấy thông tin cần thiết cho
cuộc sống, bảo vệ quyền lợi cho mình, cộng đồng mình. Sự tiếp nhận thông tin
một cách chủ động dễ làm thay đổi nhận thức hơn là tiếp nhận thụ động. Từ
nhận thức đến thay đổi hành vi trong thói quen sinh họat hàng ngày, trong lối
sống, sản xuất của công chúng diễn ra cũng nhanh hơn…
3.2.
Đối với báo chí nói chung và đài phát thanh nói riêng
Hiện nay, khi các loại hình truyền thông phát triển mạnh mẽ, phát thanh
bị đặt trong thế cạnh tranh cao trong việc thu hút thính giả, thì yêu cầu đổi mới
làn sóng phát thanh đặt ra nhiều vấn đề bức thiết. Nếu phát thanh không đổi
19


mới, không bắt kịp nhu cầu của công chúng, đài phát thanh sẽ xa rời đối tượng
phục vụ, đánh mất thính giả. Với xu hướng “mở” cuả các chương trình phát
thanh tương tác, cho phép thính giả tham gia vào chương trình, phát thanh đang
tiếp tục thu hút một lượng lớn người nghe đài.
Cùng với công nghệ hiện đại, sự tương tác giao lưu với thính giả chính
là yếu tố tạo nên diện mạo hiện đại của làn sóng phát thanh. Có thể nói, con
đường tồn tại và phát triển của phát thanh hiện này không tách rời quỹ đạo của
hai xu hướng, đó là xu hướng tích hợp công nghệ và tích hợp tính tương tác

trong các chương trình.
Thực tế cho thấy, quá trình biến đổi hệ thống phát thanh thành một hệ
thống số đa phương tiện có tính tương tác cũng là quá trình thay đổi các giá trị
xã hội và chức năng của phát thanh, xuất phát từ nhu cầu của công chúng thời
hiện đại: Không chỉ đơn thuần là nhu cầu thông tin, mà đó còn là nhu cầu được
chia sẻ thông tin, nhu cầu giao cảm. Tương tác là một trong những yếu tố đo sự
tiến bộ hay lạc hậu của một chương trình phát thanh. Nhiều chuyên gia nghiên
cứu về phát thanh đã khẳng định rằng: “Muốn phát thanh duy trì được vai trò
cạnh tranh trong kỷ nguyên số ngày nay, cần phải đầu tư và phát huy vào
những đặc điểm vốn luôn là thế mạnh của nó, đó là sự gần gũi, thân mật, tính
tương tác và tính địa phương hoá”. [23]

20


CHƯƠNG 3
THỰC TẾ PHÁT THANH TƯƠNG TÁC TRÊN SÓNG ĐÀI TIẾNG NÓI
VIỆT NAM
1.

Khảo sát trên các kênh
1.1. Hệ Thời sự – Chính trị – Tổng hợp VOV1

- Tổng số chương trình được khảo sát: 40
- Số chương trình có giao lưu, tương tác với thính giả: 9 (chiếm 22.5 %)
Hồi âm thính giả, Alo – VOV 1, Quốc Hội với cử tri, Chính phủ với người dân,
Diễn đàn kinh tế, Diễn đàn tài nguyên và môi trường, Đối thoại cuối tuần,
Chuyên gia của bạn, Theo dòng thời sự.
Trong đó:
+ Chương trình tương tác phát sóng trực tiếp: 5 (chiếm 12.5%), gồm

Diễn đàn kinh tế, Diễn đàn tài nguyên và môi trường, Đối thoại cuối tuần,
chuyên gia của bạn, Theo dòng thời sự.
+ Chương trình tương tác không phát sóng trực tiếp: 4 (chiếm 10%), bao
gồm: Hồi âm thính giả, Alo – VOV 1, Quốc Hội với cử tri, Chính phủ với người
dân.
21


- Số chương trình không có giao lưu, tương tác với thính giả: 31 (chiếm
77.5%)
Biểu đồ 1: Kết quả khảo sát chương trình tương tác trên hệ VOV1
1.2.

Hệ Văn hóa – Đời sống và Khoa giáo VOV2

- Tổng số chương trình được khảo sát: 50
- Số chương trình có giao lưu, tương tác với thính giả: 11 (chiếm 22%),
bao gồm: Bạn hãy nói với chúng tôi, Cửa sổ tình yêu, Tư vấn chế độ chính
sách, Chuyên mục “9386667 xin nghe” của chương trình Diễn đàn các vấn đề
xã hội, Tìm trong kho báu, Tiếp chuyện bạn nghe Đài, Hồi âm thính giả, Quốc
hội với cử tri, Diễn đàn giáo dục, Tư vấn sức khỏe người cao tuổi, Y học
thường thức.
Trong đó:
+ Số chương trình tương tác phát sóng trực tiếp: 5 (chiếm 10%), bao
gồm: Tư vấn chế độ chính sách, Diễn đàn các vấn đề xã hội, Diễn đàn giáo
dục, Tư vấn sức khỏe người cao tuổi, Y học thường thức.
+ Số chương trình tương tác không phát sóng trực tiếp: 6 (chiếm 12%),
bao gồm: Bạn hãy nói với chúng tôi, Cửa sổ tình yêu, Tìm trong kho báu, Tiếp
chuyện bạn nghe Đài, Hồi âm thính giả, Quốc hội với cử tri.
- Số chương trình không có giao lưu, tương tác với thính giả: 39 (chiếm

78%)
Biểu đồ 2: Kết quả khảo sát chương trình tương tác trên hệ VOV2
1.3.

Hệ Âm nhạc – Thông tin – Giải trí VOV3

Tổng số chương trình do VOV3 sản xuất được khảo sát: 40.

22


- Số chương trình có giao lưu, tương tác với thính giả: 12 (chiếm 30 %),
bao gồm: Thư yêu cầu thính giả, Âm nhạc với bạn và tôi, Hộp thư âm
nhạc,Chương trình Ca nhạc – Thông tin giải trí, Khách mời cuối tuần, Bàn
tròn âm nhạc, Câu lạc bộ tác giả tác phẩm, Trò chuyện trong tháng, Ca nhạc
về tổng điều tra dân số, Chuyên mục Chân dung nghệ sĩ trẻ, nhiều chuyên mục
trong các chương trình của Xone FM, Học sinh - Sinh viên vì nếp sống lành
mạnh.
Trong đó:
+ Số chương trình tương tác phát sóng trực tiếp: 4 (chiếm 10%), bao
gồm: Khách mời cuối tuần, Bàn tròn âm nhạc, Câu lạc bộ tác giả tác phẩm,
Trò chuyện trong tháng.
+ Số chương trình không phát sóng trực tiếp: 8 (chiếm 20%), bao gồm:
Thư yêu cầu thính giả, Âm nhạc với bạn và tôi, Hộp thư âm nhạc,Chương trình
Ca nhạc – Thông tin giải trí, Ca nhạc về tổng điều tra dân số, Chuyên mục
Chân dung nghệ sĩ trẻ, chuyên mục trong các chương trình của Xone FM, Học
sinh - Sinh viên vì nếp sống lành mạnh.
- Số chương trình không có giao lưu, tương tác với thính giả: 28 (chiếm
70%)
Biểu đồ 3: Kết quả khảo sát chương trình tương tác trên hệ VOV3

1.4.

VOV Giao Thông

- Tổng số chương trình do VOV Giao thông sản xuất được khảo sát: 20
- Số chương trình có giao lưu, tương tác với thính giả: 15 (Chiếm 75%),
bao gồm: Các chương trình thuộc khung giờ cao điểm sáng, trưa, chiều: Thông
tin chỉ dẫn giao thông trực tiếp, Biển báo giao thông, Luật giao thông đường
bộ, Luật giao thông đường thủy, Luật giao thông đường sắt, Đi một ngày đàng,
23


Xe hỏng tìm ai, Bánh xe may mắn, và các chương trình: A nice day, Bánh xe
đồng vọng, Giao thông đô thị, Văn hóa giao thông, Niềm tin ánh sáng, Ca nhạc
theo yêu cầu qua nhắn tin, Ca nhạc theo yêu cầu.
Trong đó:
+ Chương trình tương tác phát sóng trực tiếp: 8 (chiếm 40%), bao gồm:
Các chương trình thuộc khung giờ cao điểm sáng, trưa, chiều: Thông tin chỉ
dẫn giao thông trực tiếp, Biển báo giao thông, Luật giao thông đường bộ, Luật
giao thông đường thủy, Luật giao thông đường sắt, Đi một ngày đàng, Xe hỏng
tìm ai, Bánh xe may mắn.
+ Chương trình tương tác không phát sóng trực tiếp: 7 (chiếm 35%), bao
gồm: A nice day, Bánh xe đồng vọng, Giao thông đô thị, Văn hóa giao thông,
Niềm tin ánh sáng, Ca nhạc theo yêu cầu qua nhắn tin, Ca nhạc theo yêu cầu.
-

Số chương trình không có giao lưu, tương tác với thính giả: 5 (Chiếm
25%), bao gồm: Âm nhạc 12h, Live music, Kể chuyện cổ tích, Nhạc phim, Đọc
truyện dài kỳ.


Biểu đồ 4: Kết quả khảo sát chương trình tương tác trên hệ VOV
Giao thông
1.5.

Nhận xét

- Ở cả bốn Hệ phát thanh mà đề tài khảo sát, số chương trình có giao
lưu, tương tác với thính giả là không nhiều: Hệ VOV1 có 9/40 chương trình
(chiếm 22.5 %), Hệ VOV2 có 11/50 chương trình (chiếm 22 %), Hệ VOV3 có
12/40 chương trình (chiếm 30%). Kênh VOV Giao thông có 15/20 chương trình
(chiếm 75%).

24


- Những chương trình thực sự là phát thanh tương tác không nhiều. Hình
thức giao lưu tương tác không mới. Hình thức chủ yếu là điểm thư, trích đọc
thư thính giả trên sóng. Một số chương trình tiếp nhận ý kiến thính giả qua điện
thoại nhưng không nhiều, ít đưa tiếng nói của thính giả lên sóng. (Ca nhạc theo
yêu cầu thính giả, Ca nhạc theo yêu cầu qua nhắn tin…)
- Các chương trình được cấu trúc theo hướng tương tác rất ít, chỉ có 3
chương trình: Bạn hãy nói với chúng tôi, Cửa sổ tình yêu, Quick and Snow và 1
chuyên mục “9386667 xin nghe” (mỗi tuần 1 chuyên mục thời lượng 15 phút)
của chương trình Diễn đàn các vấn đề xã hội, Cửa sổ tình yêu.
- Hai chương trình hội tụ nhiều đặc điểm của phát thanh tương tác là
Bạn hãy nói với chúng tôi, Cửa sổ tình yêu, bởi có sự đối thoại, trao đổi trực
tiếp với thính giả. Tuy nhiên đáng tiếng là chương trình không phát sóng trực
tiếp. Cách làm này đảm bảo an toàn trên sóng, nhưng cũng bộc lộ những nhược
điểm của một chương trình thu trước. Hình thức tương tác ở đây là tương tác
chậm.

- Ngược lại, một số chương trình được phát sóng trực tiếp, có trong tay
một công cụ mạnh để tương tác nhưng lại sử dụng nó một cách cầm chừng.
Điều này thể hiện ở các chương trình: Khách mời chủ nhật, Diễn đàn kinh tế,
Diễn đàn tài nguyên môi trường (VOV1). Số lượng thính giả tham gia chương
trình không nhiều, tiếng nói thính giả xuất hiện trong chương trình lại càng ít.
- Kênh phát thanh tương tác VOV Giao thông là kênh sự tương tác
chuyên nghiệp nhất của Đài Tiếng nói Việt Nam. Với kết cấu chương trình chặt
chẽ, cách thực làm việc chuyên nghiệp, VOV Giao thông đã thực sự trở thành
người bạn đường tin cậy của người tham gia giao thông. Tuy nhiên, với mức độ
tác động lại chỉ giới hạn ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, đây thực sự là
một điều đáng tiếc mà trong những năm tới, VOV Giao thông chắc chắn sẽ
nhanh chóng khắc phục.
25


×