Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

báo cáo môn học kỹ thuật nhân giống vô tính cây trồng đề tài LAN gấm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 69 trang )

MỤC LỤC
I.

Tổng quan về lan gấm
1. Nguồn gốc lịch sử
2. Phân bố
3. Phân loại
4. Đặc điểm
5. Điều kiện sinh thái

II.

Kỹ thuật nhân giống
1. Nhân giống hữu tính
2. Nhân giống vơ tính

III.

Kĩ thuật trồng và chăm sóc
1. Kỹ thuật trồng
2. Chăm sóc
a. Điều kiện ánh sáng
b. Nhiệt độ
c. Độ ẩm
d. Bón phân
e. Sang chậu
f.

Tỉa rễ

g. Chọn chậu, vô chậu


h. Sự thông gió
i.

Cây bầu bạn

VI. Bệnh trên lan gấm
1.
2.
3.
4.

A. Động vật hai
Muỗi đục hoa lan
Rệp
Kiến
Ong
1


8.
1.
2.
V.

IV.

5. Ốc sên hoa ( Achatina sp.)
6. Mối
B. Bệnh do nấm
1. Bệnh đen thân cây con

2. Bệnh đốm lá
3. Bệnh hán thư
4. Bệnh thối hạch
5. Bệnh đốm vòng trên cánh hoa
6. Bệnh đóm nâu trên cánh hoa
7. Bệnh thối đen ngọn
Bệnh đốm lá
C. Bệnh do vi khuẩn
Bệnh thối nâu
Bệnh thối mềm
D. Bệnh do virus
E. Bệnh do môi trường
Giá trị
1. Làm cảnh
2. Giá trị y học
3. Giá trị dinh dưỡng
Kết luận
IIV.

Từ và thuật ngữ tiếng anh

Tài liệu tham khảo

2


KĨ THUẬT NHÂN GIỐNG VƠ TÍNH CÂY TRỒNG TRÊN
LAN GẤM (ANOECTOCHILUS)
I.TỔNG QUAN
Thế kỉ 21 được coi là thế kỷ của sự phát triển cơng nghệ sinh học trong đó dược

liệu là tài nguyên di truyền – tài nguyên tái tạo. Nắm được, phát huy được tài
nguyên di truyền là nắm kinh tế, nắm tương lai. Dùng thế mạnh dược liệu đẩy–
tộc.Từ lâu, người phương đông đã tôn hoa Lan là “ vương giả chi hoa” và người
phương tây cũng tôn hoa Lan là “ nữ hoàng của các loài hoa”. Hoa Lan đã chinh
phục người phương Đông và người phươngTây khơng chỉ cấu trúc kì diệu và sự
đa dạng về màu sắc, hình dáng và hương thơm quyến rũ mà cịn bỡi giá trị làm
thuốc của nó.
Từ xưa, người ta đã tiến hành nhân giống các loài Lan bằng nhiều phương pháp
khác nhau như gieo hạt, tách mầm nhưng những phương pháp này vẫn còn
nhiều nhược điểm như mất thời gian, nguồn vật liệu ban đầu cần nhiều, hệ số
nhân thấp, dễ bị thoái hoá qua nhiều thế hệ, khả năng lây truyền bệnh cao, chất
lượng cây không đảm bảo, việc nhân giống mang tính thời vụ. , Hơn nữa, hạt lan
lại q nhỏ, chỉ có một phơi; nảy mầm cần sự có mặt của nấm cộng sinh nên tỷ
lệ nảy mầm trong tự nhiên là rất thấp. Để khắc phục nhược điểm này, hiện nay
người ta tiến hành nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực, cây
con được tạo ra với số lượng lớn đồng nhất về kiểu hình, chất lượng đảm bảo,
sạch bệnh, giá thành phù hợp và không phụ thuộc vào yếu tố thời tiết. Nhờ đó
đáp ứng nhu cầu khơng ngừng tăng lên của thị trường Đây là điều mà phương
pháp truyền thống khơng thực hiện được.
Nói đến chi lan gấm Anoectochilus, khơng chỉ biết đến bởi giá trị làm cảnh do lá
và hoa đẹp mà cịn vì giá trị làm thuốc của nó. Theo các tài liệu y học thế giới,
lan gấm là lồi cây thuốc đặc biệt có tác dụng tăng cường sức khoẻ, phịng
bệnh, có tính kháng khuẩn, làm khí huyết lưu thơng, chữa các bệnh viêm khí
quản, lao phổi, chống tăng huyết áp, đau nhức khớp xương Hơn nữa mới đây
người ta đã phát hiện ra khả năng phòng và chống ung thư của loại thảo dược
này. Như vậy, lan Gấm là loại thảo dược có giá trị và có tiềm năng rất lớn.Tuy
nhiên, hiện nay ở Việt Nam số lượng loài lan này trong tự nhiên được phát hiện
cịn rất ít mà lại bị thu hái cả cây với số lượng lớn để bán làm thuốc
(500,000VNĐ/ kg tươi) do vậy loài lan này đang bị đe doạ mạnh và đứng trước
nguy cơ tuyệt chủng nếu khơng có biện pháp bảo tồn hữu hiệu. Hiện nay, lan

3


Gấm được xếp trong nhóm IA của Nghị định 32/2006/CP; và nhóm thực vật đang
nguy cấp EN A1a, c, d trong Sách Đỏ Việt Nam 2007.
Hiện nay vẫn chưa có một nghiên cứu nào cụ thể về thành phần hợp chất có giá
trị trong y họ trên lan gấm. Hầu hết tác dụng chữa bệnh của nó đều do lưu
truyền, đổi thổi trong dân gian. Lan gấm được biết đến chủ yếu để làm kiểng, chỉ
trong một vài năm gần đây người ta mới biết đến và sử dụng nó như một bài
thuốc.
Vì những vấn đề trên mà hiện này, mà hiện này các đề tài về nuôi cấy mô các
loài quý hiểm trong chi Anoectochilus đang rất được quan tâm để phát triển,
nhằm bảo tồn và hứa hẹn mang lại một thu nhập lớn trong việc cải thiện cuộc
sống nông dân và mang lại những giá trị y học to lớn.

Hình 1: Hình dạng lá của một số lồi lan gấm
1.Nguồn gốc lịch sử
- Lịch sử về cây lan gấm
4


-

-

+ Ở Trung Quốc và Đài Loan lan gấm được lưu truyền lâu đời trong dân gian là
một loài cây thuốc nổi tiếng vơ cùng q giá có tác dụng tăng cường sức khỏe,
lưu thơng khí huyết. Cây thuốc có tính kháng khuẩn, chữa các bệnh viêm khí
quản, viêm gan mãn tính. Ngồi ra cịn dùng chữa thần kinh suy nhược, chữa ho
khan, đau họng, cao huyết áp, suy thận, chữa di tinh, đau lưng, phong thấp, làm

tiêu đờm, giải độc, giải nhiệt. Nó được dùng để tiến cơng cho triều đình và được
các ngự y sử dụng để sắc cho vua chúa qua các thời đại. Từ lâu người Trung
Quốc, Đài Loan thường cho người sang Việt Nam để tìm và mua lồi lan này.
+ Người dân địa phương Việt Nam ở những vùng cao coi cây lan gấm như một
lồi có rừng và khơng biết nhiều đến cơng dụng của nó. Từ năm 1990 trở lại đây,
các thương gia Đài Loan hoặc khách du lịch từ thành phố Hồ Chí Minh lên Đà
Lạt thường tìm mua cây Lan gấm tươi hoặc khô. Việc thu mua lan gấm bất
thường đã đẩy giá lan gấm tăng lên rất cao, người dân thấy vậy cũng đổ nhau
vào rừng tìm lan gấm về bán. Hậu quả làm cho lan gấm ngoài tự nhiên hiện nay
đang dần cạn kiệt.
+ Cây có tên là “ lan gấm” vì đó là một lồi lan, có lá màu nâu tía nhìn tựa như
gấm. DO cây mọc trên đá và thân có đốt trong như ngó sen, nên sách Trung
Quốc gọi là “thạch thưỡng ngẫu” (“thạch thượng” là trên đá, “ngẫu” là ngó sen);
cây mọc sát đất, màu đỏ tía, có rễ bám vào đá trơng giống con tằm, nên còn gọi
là “thạnh tằm” hay “hồng thạch tằm” (“thạch” là đá, “tằm” là con tằm, “hồng” là
đỏ). “Kim cương” là tên mới xuất hiện thời gian gần đây. Những người đi khai
thác về bán thường gọi như vậy, có thể do lá óng ánh như kim cương; cũng có
thể do “tam sao thất bản” từ tên “chân kim thảo”; hoặc gọi như vậy với mục đích
làm tăng thêm giá trị của cây; khó thể khảo chứng chính xác.
-Trung tâm sinh học kiệm nghiệm là đơn vị đầu tiên ở Việt Nam nhân giống và
trồng thành công Lan Kim tuyến bằng kĩ thuật nuôi cấy mô tế bào thực vật.
2.Phân bố
Lan gấm là loại cây đặc biệt ưa ẩm và ưa bòng. Thường mọc rải rác hoặc thành
các đám nhỏ lẫn trong lớp tảm mục hoặc ở hốc đá, dưới tán rừng kín thường
xanh ẩm. Cây sinh trường mạnh trong mùa mưa ẩm; chịu được thời tiết có
sương mù dài ngày. Trong tự nhiên Kim tuyến mọc trên lớp lá rơi rụng của rừng
già, rất dễ lẫn với lá khơ nên đi rừng phải có kinh nghiệm và để ý mới có thể thấy
cây.
• Ở Việt Nam:
Cây lan gấm phân bố ở một số vùng núi thuộc các tinh Cao Bằng, Lạng Sơn,

Hịa Bình, Hà Tây cũ( chùa Hương), Vĩnh Phúc, Kontum, Gia Lai, Đắc Lắc,
Khánh Hịa, Bình Thuận và Lâm Đồng, Lạc Dương, Di Linh, Đơn Dương.

5


-

Trong Vườn quốc gia Ba Vì, Lan kim tuyến Blume được phân phối trong nhiệt
đới ngày càng xanh lá rộng đóng loại rừng với cấu trúc rừng: rừng nguyên sinh,
cấu trúc rừng từ 2 đến 3 lớp cây với các lồi ưu thế điển hình để các ever- lá
rộng cận nhiệt đới màu xanh lá cây rừng kín. Độ che phủ của tán cây là 80-95%.
Mật độ cây trưởng thành và cây giống thấp. Các nhóm lồi ưu thế là khơng đơn
giản. Lan kim tuyến Blume được tìm thấy trong đất giàu mùn đó là ga, thốt
nước tốt, giàu nitơ và kali, phốt pho và nghèo trong môi trường axit, từ cát và
hỗn hợp đất sét mềm, và điều kiện thời tiết với lượng mưa trung bình trên 1.700
mm / năm, trung bình độ ẩm hơn 80%, nhiệt độ trung bình hơn 20oC / năm.
Trong Vườn quốc gia Ba Vì, Lan kim tuyến Blume được tìm thấy trong phạm vi
hạn chế và số lượng. Nó là khơng thể thiếu để tun truyền, để ni dưỡng và
phát triển nó trong việc bảo tồn và phát triển dược liệu.
Đặc điểm phân bố của Lan kim tuyến
Phân bố theo kiểu rừng
Tại VQG Xuân Sơn, thảm thực vật nơi có lồi Lan kim tuyến phân bố thuộc các
kiểu rừng kín lá rộng thường xanh mưa mùa nhiệt đới và kiểu rừng kín lá rộng
thường xanh á nhiệt đới núi thấp. Rừng thường có cấu trúc 2 tầng cây gỗ.
- Kiểu rừng kín lá rộng thường xanh mưa mùa nhiệt đới
Tầng ưu thế sinh thái A2: độ tàn che thường từ 85-95%, với các loài cây gỗ chủ
yếu như: Dẻ gai bắc bộ Castanopsis tonkinensis, Trâm trắng Syzygium chanlos,
Sụ lá dài Phoebe poilanei, Côm tầng Elaeocarpus griffithii, Trâm tía Syzygium
sp., Gội nếp Aglaia spectabilis, Nhội Bischofia javanica, Trám trắng Canarium

album, Trường sâng Pometia pinnata, Trường mật Amesiodendron chinense, v.v.
Chiều cao của tầng A2 từ 15-24 m.
Tầng cây gỗ A3: bao gồm các loài cây của tầng trên cịn nhỏ và các lồi cây của
tầng dưới như: Phân mã Archidendron chevalieri, Táu nước Vatica subglabra,
Xoan đào Prunus arborea, Vàng kiêng Nauclea orientalis, Nhựa ruồi Ilex sp.,
Mán đỉa Archidendron clypearia, Mắc niễng Eberhardtia tonkinensis, Nanh chuột
Cryptocarya lenticellata, Hoa trứng gà Magnolia coco, Re hương Cinnamomum
iners, v.v. Chiều cao của tầng A3 từ 8-15m.
Tầng cây bụi B: gồm các loài thực vật như Ớt sừng lá nhỏ Kibatalia mycrophylla,
Lấu Psychotria rubra, Mua đất Melastoma sp., Bồ cu vẽ Breynia fruticosa, Bọt
ếch Glochidion hirsutum, Găng Randia spinosa, Hồng bì dại Clausena spp., v,v.
Tầng cỏ quyết: bao gồm chủ yếu các loài Thu hải đường Begonia spp., Sẹ
Alpinia tonkinensis, Sa nhân Amomum villosum, Cỏ chân vịt Dactyloctenium
aegyptium, Cỏ lá tre Centosteca latifolia, Thường sơn Dichroa febrifuga, Guột
Dicranopteris linearis, Tóc thần vệ nữ Adiantum capillus-veneris, Ráy Alocasia
macrorhiza, Cao cẳng các loại Ophiopogon spp., Trọng lâu Tacca chantrieri,
6


Chàm núi Strobilanthes cusia, Chuối rừng Musa coccinea, Mía dị Costus
speciosus, Dớn Diplazium esculentum, Quyết lá dừa Blechnum orientale, v,v.
Thực vật ngoại tầng: bao gồm các loài thuộc chủ yếu các họ Cau Arecaceae, họ
Na Annonaceae, họ Kim cang Smilacaceae, họ Củ nâu Dioscoreaceae, họ Tiết
dê Menispermaceae, họ Cà phê Rubiaceae, họ Đậu Fabaceae, họ Vang
Caesalpiniaceae, họ Trinh nữ Mimosaceae, họ Ráy Araceae. Điển hình như: Dây
hoa dẻ Desmos chinensis, Dây dất na Desmos sp., Dây kim cang các loại
Smilax spp., Củ nâu Dioscorea cirrhosa., Móc câu đằng Uncaria sp., Ráy leo
Pothos scandens, Dây sưa Dalbergia candenatensis, Dây móng bị Bauhinia sp.,
Bòng bong các loại Ligodium spp., Dây thèm bép Tetrastigma rupestre, v.v.
- Kiểu rừng kín lá rộng thường xanh á nhiệt đới núi thấp

Tầng ưu thế sinh thái A2: độ tàn che thường từ 80-95%, với các loài cây gỗ chủ
yếu như: Chân chim Schefflera octophylla, Sồi phảng Lithocarpus cerebrinus, Dẻ
gai bắc bộ Castanopsis tonkinensis, Trâm trắng Syzygium chanlos, Vỏ sạn
Osmanthus spp., Cơm tầng Elaeocarpus griffithii, Trâm tía Syzygium sp., Thừng
mực mỡ Wrightia laevis, Gội nếp Aglaia spectabilis, Trám trắng Canarium album,
Thích các loại Acer spp., Chắp tay Exbucklandia tonkinensis, Exbucklandia
populnea, v.v. Chiều cao của tầng A2 từ 15-23 m.
Tầng cây gỗ A3: bao gồm các loài cây của tầng trên cịn nhỏ và các lồi cây của
tầng dưới như: Hồi núi Illicium sp., Trứng gà 3 gân Lindera sp., Hoa trứng gà
Magnolia coco, Phân mã Archidendron chevalieri, Mắc niễng Eberhardtia
tonkinensis, Nanh chuột Cryptocarya lenticellata, Re hương Cinnamomum iners,
Mò roi Litsea balansae, v.v. Chiều cao của tầng A3 từ 8-12m.
Tầng cây bụi B: gồm các loài thực vật như Mua đất Melastoma sp., Ớt sừng lá
nhỏ Kibatalia mycrophylla, Lấu Psychotria rubra, v,v.
Tầng cỏ quyết: bao gồm chủ yếu các loài Dương xỉ thường Christella parasitica,
Lụi Rhapis cochinchinensis, Cỏ lá tre Centosteca latifolia, Thường sơn Dichroa
febrifuga, Cao cẳng Ophiopogon spp., Chàm núi Strobilanthes cusia, Chuối rừng
Musa coccinea, Mía dị Costus speciosus, Cỏ xước Achyranthes aspera, v,v.
Mật độ phân bố: của Lan kim tuyến ở đây là khá cao từ 100-600 cây/ha, trung
bình là 250 cây/ha. Tuy nhiên, Lan kim tuyến không phân bố đều trong rừng mà
thường tập trung thành từng đám hoặc rải rác. Thông thường chúng mọc tập
trung vài 3 cây tại một điểm.

7


Hình 2. Lan kim tuyến mọc tập trung 4 cây tại một vị trí ở sườn trên núi Ten –
VQG Xuân Sơn
Phân bố Lan kim tuyến theo trạng thái rừng và sinh cảnh
- Theo trạng thái rừng

Kết quả điều tra trên 2 tuyến và 10 ô tiêu chuẩn đại diện đã khẳng định: Lan kim
tuyến phân bố tập trung chủ yếu ở trạng thái rừng IIIA2, thuộc vùng lõi của Vườn
quốc gia. Độ tàn che của các trạng thái này từ 80-90%. Đặc điểm của cây bụi và
thảm tươi ở khu vực Lan kim tuyến phân bố là thưa thớt, độ che phủ thấp
thường vào khoảng từ 20-30%, với độ cao của lớp cây bụi và thảm tươi khoảng
từ 0.1-0.45m tuỳ từng khu vực. Lan kim tuyến thường ít phân bố ở những nơi
cây bụi thảm tươi dày đặc. Chúng có thể nằm ngay trên lớp thảm mục của rừng
đang bị phân huỷ.
- Về sinh cảnh
Lan kim tuyến chủ yếu phân bố trên đất, chúng mọc sát ngay bề mặt đất, nơi đất
giàu mùn, độ ẩm và độ xốp cao, thống khí; thậm chí ngay trên lớp thảm mục
của rừng đang phân huỷ. Đôi khi chúng mọc trên các tảng đá ẩm, trên các đoạn
thân cây gỗ mục, trong gốc cây. Có thể bắt gặp Lan kim tuyến ở trong rừng nơi
ẩm ướt, ven các khe suối, dưới tán rừng cây gỗ lớn, hoặc dưới rừng trúc, rừng
sặt, trên đường mòn đi lại trong rừng.
Phân bố Lan kim tuyến theo địa lý, địa hình và đai cao
Về địa lý, địa hình: có thể gặp chúng ở hầu hết các dạng địa hình, như chân núi,
sườn núi, đỉnh núi; chúng thường phân bố bố ở những nơi dốc hay rất dốc.
8


Về đai cao: Lan kim tuyến thường phân bố ở đai cao trên 550m, tập trung chủ
yếu ở độ cao trên 900m.
Điều kiện đất đai Lan kim tuyến sinh trưởng phát triển ở Xuân Sơn – Phú Thọ
Kết quả phân tích 2 mẫu đất đại diện cho khu vực có phân bố của Lan kim tuyến
tại Vườn Quốc gia Xuân Sơn đã cho thấy:
+ Về hàm lượng mùn: ở mức rất giầu (lần lượt là 9,15 và 9,37%).
+ Về hàm lượng các chất dễ tiêu: Đạm và kali dễ tiêu rất giầu, nhưng lân dễ tiêu
lại rất nghèo (khoảng 1,8 mg/100g đất).
+ Hàm lượng tổng số các chất đạm, lân và kali đều ở mức giầu đến rất giầu.

+ Về độ chua hoạt động: đất tại khu vực có phản ứng chua. Chỉ số pHKCl ở hai
mẫu lần lượt là 4,6 và 4,7.
+ Độ chua trao đổi và thủy phân đều cao.
+ Tổng Ca++ và Mg++ đều ở mức thấp (lần lượt là 2,65 và 2,68 lđl/100g đất).
+ Độ no bazơ thấp, chỉ đạt 32-33% (đều nhỏ hơn mức yêu cầu là 50%)
+ Về thành phần cơ giới: Đất tại 2 mẫu nghiên cứu đều có thành phần cơ giới
nặng.
Điều kiện khí hậu Lan kim tuyến sinh trưởng phát triển ở Xuân Sơn – Phú Thọ
Vườn Quốc gia Xuân Sơn và vùng đệm nằm hồn tồn trong vùng khí hậu nhiệt
đới gió mùa có mùa đơng lạnh và gió mùa đơng bắc thịnh hành. Nhiệt độ trung
bình hàng năm từ 22oC-23oC. Mùa hè, do ảnh hưởng của gió mùa đơng nam
nên thời tiết ln nóng ẩm mưa nhiều, nhiệt độ bình qn trên 25oC. Nhiệt độ
trung bình tháng nóng nhất là 28oC (tháng 6 và 7), nhiệt độ cao nhất tuyệt đối là
40,7oC vào tháng 6. Mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Do ảnh hưởng
của gió mùa đông bắc, nhiệt độ của các tháng này xuống dưới 20oC. Nhiệt độ
trung bình tháng thấp nhất là 15,3oC-15,5oC (tháng 1). Tuy nhiên lên đến độ cao
800m nhiệt độ trung bình năm giảm xuống dưới 20oC, tạo ra khí hậu á nhiệt đới
cho vành đai này. Lượng mưa trung bình năm là 1.826 mm, phân phối khơng
đều trong năm. Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm, lượng mưa chiếm
80-90% lượng mưa cả năm. Hai tháng có lượng mưa cao nhất là tháng 8 và
tháng 9 hàng năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, nhưng hạn hán ít
xảy ra vì có mưa phùn. Độ ẩm khơng khí trong vùng bình qn cả năm đạt 85%
[6].
• Trên thế giới
- Anoectochilus formosanus Hayatađược phát hiện ở Srilanka, Malaysia, Ấn Độ,
Nhật Bản, Nam Trung Quốc, Australia và quần đảo Nam Thái Bình Dương, (Liu;
Su, 1978 và Teuscher, 1978)
3.phân loại

9



-

Cây lan gấm (Anoectochilus sp) còn gọi là cây kim cương, kim tuyến, mộc sơn
thạch tùng, thuộc họ Orchidaceae, gồm bốn chi: Ludisia, Anoectochilus,
Goodyera, Macodes và trên 50 loài (Ormerod Paul, 2005). Trong đó chi
Anoectochilus có số loài phong phú nhất (30-40 loài) và lồi có giá trị dược liệu
và thương mại cao trên thế giới hiện nay là Anoectochilus formosanus Hayata.
Loài này được phát hiện ở Srilanka, Malaysia, Ấn Độ, Nhật Bản, Nam Trung
Quốc, Australia và quần đảo Nam Thái Bình Dương, (Liu; Su, 1978 và Teuscher,
1978). Trước đây cây lan gấm trồng làm cây cảnh trong nhà, một số dân tộc
thiểu số sử dụng lá lan gấm chữa các vết thương do rắn độc cắn. Nhưng hơn
một thập niên trở lại đây, Đài Loan xem lan gấm là cây "Thuốc Vua" bởi tác dụng
dược lý đa dạng của nó (Lin và Wu, 2007).Trong các sách thuốc ở nước ta
thường gọi là “lan gấm”. Trong sách trung quốc, cây có tên là “thạch thượng
ngẩu”, “thạch tằm”, “ chân kim thảo”.
 Phân loại
Giới plantae.
Bộ Asparagates( Bộ măng tây) là một bộ trong lớp thực vật một lá mầm bao gồm
một số họ cây không thân gỗ.
Họ Orchidaceae( Họ lan) là một họ thực vật có hoa, thuộc bộ Măng tây
(Asparagales), lớp thực vật một lá mầm. Đây là một trong những họ lớn nhất của
thực vật, và chúng phân bổ nhiều nơi trên thế giới. Họ Orchidaceae phân bổ
rộng khắp thế giới, gần như có thể có mặt trong mọi môi trường sống, ngoại trừ
các sa mạc và sông băng. Phần lớn các lồi được tìm thấy trong khu vực nhiệt
đới, chủ yếu là châu Á, Nam Mỹ và Trung Mỹ. Chúng cũng được tìm thấy tại các
vĩ độ cao hơn vòng Bắc cực, ở miền nam Patagonia và thậm chí trên đảo
Macquarie, gần với châu Nam Cực.
Một nghiên cứu đăng trong tạp chí Nature[5] đã chỉ ra rằng nguồn gốc họ Lan có

xuất phát điểm lâu đời hơn so với dự tính ban đầu, có lẽ khoảng 76-84 triệu năm
trước. Một con ong của lồi ong khơng ngịi tuyệt chủng, với danh pháp
Proplebeia dominicana, được tìm thấy bị mắc trong hổ phách thế Miocen khoảng
15-20 triệu năm trước. Con ong này mang phấn hoa của một loài lan trước đây
khơng rõ, Meliorchis caribea, trên các cánh của nó. Đây là chứng cứ đầu tiên về
lan hóa thạch cho tới nay. Loài lan tuyệt chủng M. caribea này được đặt trong
tông Cranichideae, phân tông Goodyerinae (phân họ Orchidoideae).
Điều này chỉ ra rằng họ Lan có thể có nguồn gốc cổ đại và đã phát sinh khoảng
76-84 triệu năm trước trong thời kỳ Hậu Creta. Nói cách khác, các lồi lan có thể
cùng tồn tại với khủng long. Nó cũng chỉ ra rằng vào thời gian đó cơn trùng là
các sinh vật thụ phấn tích cực cho các lồi lan. Theo M.W. Chase và ctv. (2001)
thì địa lý sinh học chung và mơ hình phát sinh lồi của họ Orchidaceae chỉ ra
10


-

rằng chúng thậm chs cịn cổ hơn và có thể đã phát sinh khoảng 100 triệu năm
trước.
Phân họ: Orchidoideae( Phân họ lan) là một phân họ trong họ lan(Orchidaceae).
Phân họ Orchidoideae có 208 chi và khoảng 3.755 lồi khắp thế giới.
Chi: Anoectochilus là một chi thực vật có hoa thuộc họ Lan (Orchidaceae) và
phân họ cùng tên (Orchidoideae). Cái tên "Lan kim tuyến" hay "Lan kim hoàn bắt
nguồn từ những đường gân rất đẹp trên phiến lá của các loài lan này. Tên tiếng
La tinh bắt nguồn từ các từ Hy Lạp aniktos (mở) và cheilos (mơi).

Hình : Lan gấm
 Một số loài lan gấm

1.Anoectochilus albolineatus: Loài này được E.C.Parish & Rchb.f. mô tả khoa

học đầu tiên năm 1874.

11


Hình 3: Anoectochilus albolineatus
2.Anoectochilus albomarginatus: Lồi này được Loudon mơ tả khoa học đầu tiên
năm 1855
3.Anoectochilus annamenis( hay còn gọi là lan sứa trung bộ): Loài đặc hữu của
Việt Nam, cây mọc chủ yếu ở miền trung Thừa thiên Huế. Đây là loài mới ở Việt
Nam do Do L. Averyanov, A Averyanova, Nguyễn Tiến Hiệp, Phạm Văn Thế,
Phan Kế Lộc, phát hiện.

Hình 4: Anoectochilus annamenis
4.Anoectochilus baotingensis: lồi này được ( K.Y.Lang) Ormerod mô tả khoa
học đầu tiên năm 2003.

12


Hình 5: Anoectochilus baotingensis
5.Anoectochilus brevilabris( lan kim tuyến mơi nhỏ): lồi này được Lindl mơ tả
khoa học đầu tiên năm 1840.

Hình 6: Anoectochilus brevilabris
6. Anoectochilus brevistylus( Lan nhung bắc): lồi này được (Hook.f.)Ridl mô tả
khoa học lần đầu tiên năm 1907.

Hình 7: Anoectochilus brevistylus
13



7. Anoectochilus burmannicus: lồi này được Rolfe mơ tả khoa học đầu tiên năm
1922.

Hình 8: Anoectochilus burmannicus
8. Anoectochilus calcareus: Lồi này được Aver. mơ tả khoa học đầu tiên năm
1996.

Hình 9: Anoectochilus calcareus
9. Anoectochilus roxburghii

14


Hình 10: Anoectochilus roxburghii
10. Anoectochilus setaceus

Hình 11: Anoectochilus setaceus
11. Anoectochilus clarkei (Hook.f.) Seidenf. & Smitinand (1959).
12. Anoectochilus crispus Lindl. (1857).
13. Anoectochilus daoensis Gagnep. (1951).
14. Anoectochilus chapaensis Gagnep.(1931).
15. Anoectochilus dewildeorum Ormerod (2005) (Sumatra)
16. Anoectochilus elatus Lindl. (1857).
17. Anoectochilus elwesii (C.B.Clarke ex Hook.f.) King & Pantl. (1898).
18. Anoectochilus emeiensis K.Y.Lang (1982)
19. Anoectochilus falconis Ormerod (2005) (Malaysia)
20. Anoectochilus flavescens Blume (1825).
21. Anoectochilus formosanus Hayata (1914). (chữ Hán: 臺灣金線蓮 ; bính âm:

{{{p}}}) Lan kim tuyến Đài Loan
15


22. Anoectochilus geniculatus Ridl. (1896) (Thái Lan, Mã Lai, Sumatra)
23. Anoectochilus grandiflorus Lindl. (1857).
24. Anoectochilus imitans Schltr. (1906).
25. Anoectochilus inabai Hayata (1914).
26. Anoectochilus insignis Schltr. (1911).
27. Anoectochilus integrilabris Carr (1935).
28. Anoectochilus kinabaluensis (Rolfe) J.J.Wood & Ormerod (1994).
29. Anoectochilus klabatensis (Schltr.) S.Thomas (2002).
30. Anoectochilus koshunensis Hayata (1914).
31. Anoectochilus lanceolatus Lindl. (1840).
32. Anoectochilus longicalcaratus J.J.Sm. (1922).
33. Anoectochilus lylei Rolfe ex Downie (1925).
34. Anoectochilus narasimhanii Sumathi & al. (2003).
35. Anoectochilus nicobaricus N.P.Balakr. & P.Chakra (1978 publ. 1979).
36. Anoectochilus papuanus (Schltr.) W.Kittr. (1984 publ. 1985).
37. Anoectochilus pectinatus (Hook.f.) Ridl. (1907).
38. Anoectochilus petelotii (Gagnep.) Seidenf. (1975).
39. Anoectochilus pingbianensis K.Y.Lang (1996).
40. Anoectochilus reinwardtii Blume (1858).
41. Anoectochilus repens (Downie) Seidenf. & Smitinand (1959).
42. Anoectochilus rhombilabius'' Ormerod (2002).
43. Anoectochilus sandvicensis Lindl. (1840).
44. Anoectochilus sikkimensis King & Pantl. (1896): Lan kim tuyến Sikkim
45. Anoectochilus subregularis (Rchb.f.) Ormerod (1996).
46. Anoectochilus sumatranus (J.J.Sm.) J.B.Comber (2001).
47. Anoectochilus tetrapterus Hook.f. (1890).

48. Anoectochilus tridentatus Seidenf. (1992).
49. Anoectochilus xingrenensis Z.H.Tsi & X.H.Jin (2002).
50. Anoectochilus yatesiae F.M.Bailey (1907).
51. Anoectochilus zhejiangensis Z.Wei & Y.B.Chang (
-

4. Đặc điểm
Lan gấm có thân cỏ mềm mọng nước, có nhiều đốt màu đỏ hay tím hồng. Thân
khí sinh và thân rễ thường nhẵn, không phủ lông; màu xanh trắng, đôi khi có
màu nâu đỏ phần dưới mọc bị sát đất, từ các mấu rễ mọc ra bám chặt vào đá.
Thân phần trên mọc đứng, cao 15-25 cm, hơi có lơng. Từ phần thân già thường
mọc ra những chồi nhánh, bò lan sát mặt đất. Đoạn thân cắt rời, nếu được tiếp
xúc với đất, có khả năng tái sinh thành cây mới. Lá mọc so le, hình bầu dục hoặc
hình trứng, dài 4-7 cm, rộng 2,5- 3 cm, gốc tròn, đầu tù hơi nhọn, cuống lá dài có
bẻ ờ gốc. Lá óng ánh, có vân trằng hình mạng rất rõ. Mặt trên có màu xanh lục
hay nâu tía, mặt dưới màu hồng tím. Lá và thân có màu tía hay đỏ nâu giúp cây
16


vẫn có thể quang hợp ngay cả trong điều kiện ánh sáng yếu. Cụm hoa mọc ở
ngọn thân thành bông dài 3-8cm, có lơng dày đặc. Lá bắc màu nâu vàng. Hoa
màu trắng. Mùa hoa nở tháng 9-12. Mùa quả chín tháng 12 - 3 năm sau. Lá dài
lưng dính với cánh hoa hình mũ có 3 răng. Lá đài bên rời nhau, cánh mơi màu
vàng hình chữ T, cột dài bằng bao phấn. Bầu có lơng. Những nhánh cây trường
thành( thường trên 1 năm tuổi) có hoa quả hàng năm và sau đó tiếp tục tồn tại
khoảng gần 1 năm nữa mới tàn lụi. Cây tái sinh chủ yếu bằng hạt hoặc được
trống bằng các đoạn thân.
Đặc điểm hình thái cây trưởng thành
Cây thảo, có thân rễ mọc dài; thân trên đất mọng nước mang 2-6 lá mọc xoè sát
đất. Lá hình trứng, gần trịn ở gốc, chóp hơi nhọn và có mũi ngắn, cỡ 3,5-4,5 x

2,5-3,5 cm. Lá có màu nâu đỏ ở mặt trên. Hệ gân lá mạng lưới lơng chim,
thường có 5 gân gốc. Các gân này thường có màu hồng ở mặt trên và nổi rất rõ.
Đơi khi gân ở giữa có màu vàng nhạt. Mặt dưới lá có màu nâu đỏ nhạt, nhẵn với
5 gân gốc nổi rõ. Các gân bên ở phía rìa lá nổi rõ, gân ở giữa lá ở mặt dưới
không rõ. Cuống lá dài 0.6 – 1.2 cm, thường nhẵn và có màu trắng xanh, đơi khi
hơi đỏ tía ở bẹ lá. Bẹ lá nổi rõ và nhẵn. Hoa tự chùm mọc ở đầu ngọn thân, trục
hoa dài từ 5-20 cm, thường phủ lông màu nâu đỏ, mang từ 4-10 hoa. Mùa hoa
nở tháng 9-12. Mùa quả chín tháng 12 - 3 năm sau. Hoa có cánh mơi màu trắng.
Hai bên rìa mang từ 6-8 râu mỗi bên.
Đặc điểm thân rễ
Thân rễ nằm ngang sát mặt đất, đôi khi hơi nghiêng, bò dài. Chiều dài thân rễ từ
5-12 cm, trung bình là 8,5 cm. Đường kính thân rễ từ 2,5-3,5 mm, trung bình là
3,28 mm. Số lóng trên thân rễ từ 3-7 lóng, trung bình là 4,03 lóng. Chiều dài của
lóng từ 1–5 cm, trung bình là 2,14 cm. Thân rễ thường có màu xanh trắng, đơi
khi có màu nâu đỏ, thường nhẵn, khơng phủ lơng.
Đặc điểm thân khí sinh
Thân khí sinh thường mọc thẳng đứng trên mặt đất, ít khi mọc nghiêng. Chiều
dài thân khí sinh từ 3-7 cm, trung bình 5,63 cm. Đường kính thân khí sinh từ
2,5–3,5 mm, trung bình là 3,09 mm. Thân khí sinh mang nhiều lóng, các lóng có
chiều dài khác nhau. Số lóng trên thân khí sinh thay đổi từ 2-5 lóng, trung bình là
3,07. Chiều dài mỗi lóng từ 1,5-4 cm, trung bình 1,87 cm. Thân khí sinh thường
mọng nước, nhẵn, khơng phủ lơng; thường có màu xanh trắng, đơi khi có màu
hồng nhạt.
Đặc điểm của rễ
Rễ được mọc ra từ các mẫu trên thân rễ. Đơi khi rễ cũng được hình thành từ
thân khí sinh. Rễ thường đâm thẳng xuống đất. Thơng thường mỗi mấu chỉ có
một rễ, đơi khi có vài rễ cùng được hình thành từ một mấu trên thân rễ. Số lượng
17



và kích thước rễ cũng rất thay đổi tuỳ theo cá thể. Số rễ trên một cây thường từ
2-9 rễ, trung bình là 5,2. Chều dài của rễ thay đổi từ 1-9 cm, rễ dài nhất trung
bình là 6,37 cm và ngắn nhất trung bình là 1,04 cm, chiều dài trung bình của các
rễ trên một cây là 4,07 cm.
Lá cây
Số lượng lá trên một cây thay đổi từ 2-6 chiếc, thơng thường có 4 lá. Lá mọc
cách xoắn quanh thân, xoè trên mặt đất. Kích thước của lá cũng thay đổi,
thường dài từ 3-5 cm, trung bình là 3,87 cm và rộng của lá từ 2-4 cm, trung bình
là 2,93 cm. Các lá trên một cây thường có kích thước khác nhau rõ rệt. Chiều
rộng trung bình của các lá trên một cây là 2,5 cm.

-

Hình 12. Lan kim tuyến Anoectochilus setaceus
Đặc điểm hình thái của một số lồi được trồng
Anoectochilus formosanus: Một loài mạnh mẽ với lá màu xanh đậm, gân có màu
bạc và vàng. Mặt dưới của lá là màu đỏ.

18


-

-

Hình 13: Anoectochilus formosanus
Anoectochilus formosanus variegata: lá lưỡi vàng với gân vàng.
Haemaria discolor var Dawsoniana: Một loài phát triển lớn hơn với màu xanh
đậm đen gân lá vàng. Mặt dưới của lá có màu nâu đỏ.
Haemaria discolor var alba: Một loài phát triển nhỏ hơn với lá màu xanh ngọc,

gân bạc. Mặt dưới của lá khơng có màu đỏ nâu. Hình ảnh cho cả hai lồi alba và
var Odina để so sánh.

Hình 14: Haemaria discolor var alba
Haemaria discolor var Odina: một loài phát triển nhỏ hơn một chút so với lồi
bình thường. Gân bạc xác định trên nền lá màu xanh đậm.

HÌnh 15: Haemaria discolor var Odina
19


-

Dossinia marmorata var Dayii: một lồi có lá lớn với lá màu đỏ sậm và gân vàng.

-

Hình 16: Dossinia marmorata var Dayii
Macodes sanderiana: một loài lá lớn khác màu xanh với gân vàng.

-

Hình 17: Macodes sanderiana
Goodyera hispida: lá màu xanh sáng gân bạc

Hình 18: Goodyera hispida
20


Mọi người đều biết lá cây có màu xanh, nhưng tại sao loại lan này có lá màu

đen? và một điều khác nữa, một số loại cây lấy lá có những màu đặc sắc không
phải màu xanh?
đối với những người đi rừng, họ khơng lạ với việc tìm thấy lan kim tuyến ở
những nơi thấp dưới tán rừng, một nơi tăm tối và ẩm ướt, nơi mà ánh sáng chỉ
là những cái bớt loang lổ cắt qua những tàn cây to lớn. sự tăm tối - ánh sáng
không đủ, là một yếu tố giới hạn rất lớn đối với sự quang hợp của thực vật. bạn
thử để một cây lan khoẻ mạnh, đủ nước dưới gầm bàn một thời gian, chúng sẽ
chết dần chết mòn và cuối cùng là cái chết có thể đốn trước được, vì khơng đủ
ánh sáng.
để đối phó với tình trạng thiếu ánh sáng, một số thực vật phải gồng mình "chịu
chơi" với hồn cảnh này.
Ở cầu vồng, đỏ, cam, vàng, lục, lam, chàm, tím. đây chính là 7 màu của ánh
sáng nhìn thấy, thực vật đã quang hợp được dựa trên phổ ánh sáng này. nhưng
thực tế lại khác, ánh sáng nhiều "màu" hơn chúng ta tưởng, như hồng ngoại, tử
ngoại, tia đỏ xa, UV-A, UV-B,...mà mắt thường khơng cảm thấy được. chính ánh
sáng dưới tán rừng rất giàu tia đỏ, các loài lan dưới tán phải "lấy" nguồn sáng đỏ
này để quang hợp. thế cịn màu đen thì sao?
Ở hiện tượng khúc xạ ánh sáng khi ánh sáng đi qua 2 mặt phẳng phân cách.Lấy
ví dụ bọt bóng xà phịng. Khi ánh sáng đi từ mơi trường khí sang mơi trường rắn
hay lỏng, ánh sáng sẽ bị bẻ gãy ở mặt phân cách này (hiện tượng ống hút bị
"gãy" khi cho vào ly nước). sau khi chạm vào bề mặt bong bóng, chúng sẽ phản
xạ ngược lại, từ lỏng ngược lại ra khí, khi đó ánh sáng bị bẻ gãy lần nữa và
bước sóng ánh sáng cũng bị thay đổi. thường là bước sóng ngả dần về phía ánh
sáng đỏ xa - loại ánh sáng mà chúng ta khơng thể nhìn thấy. hiện tượng càng rõ
nếu mặt trong được tráng một lớp màu
Các loại lan kim tuyến cũng vậy, ánh sáng đi vào chủ yếu là tia đỏ, khi đó ánh
sáng bị bẻ cong, đi vào trong các cơ quan quang hợp, và sau đó phản xạ lại. do
mặt dưới lá được phủ một lớp tế bào chứa màu, thường là anthocyanin có màu
đỏ hoặc tím đỏ, khiến cho ánh sáng gần như bị hấp thụ hoàn toàn và chỉ phản xạ
lại chút ánh sáng đỏ xa mắt thường khơng nhìn thấy được, hoặc chỉ phản xạ ra

một số màu lạ mắt - đó là nguyên nhân tại sao lá lan kim tuyến có màu "đen"
hoặc có một số màu rất đẹp
Cịn hiện tượng lấp lánh thì sao? đó là do các cấu trúc giống kim tự tháp ở biểu
bì trên của lá có tác dụng tăng độ hội tụ ánh sáng vào các cơ quan quang hợp,
khi nhìn nghiêng, góc chiếu thay đổi khiến cho ánh sáng rọi vào các kim tự tháp
này phản xạ lại vào mắt gây ra hiện tượng "lấp lánh" hoặc "láng như gương", kết
21


hợp với hiện tượng khúc xạ đã nếu ở trên trên khiến cho màu phản xạ rất đa
dạng của các loại lá lan kim tuyến

II.KĨ THUẬT NHÂN GIỐNG
1. Nhân giống hữu tính
 Sự thụ phấn

Trong tự nhiên, sự thụ phấn của lan do côn trùng thực hiện. rõ ràng cấu trúc của
hoa lan là để hồn tồn thích ức với sự thụ phấn ấy:
+ Phấn hoa dính thành phấn khối để côn trùng dễ dàng mang đi một số lượng
lớn phấn hoa trong một chuyến.
+ Cái môi như bãi đáp cho côn trùng đậu.
+ Tạo ra màu sắc, hương vị để hấp dẫn côn trùng đến
+ Tạo lập các cơ quan có hình dạng cơn trùng khác phái hay tạo ra cơ cấu giống
bộ phận sinh dục của côn trùng để dẫn dụ chúng đến giao cấu… tất cả đều giúp
cho sự thụ phấn ở lan.
Từ đó ta phân biệt hai cách thụ phấn:
- Sự tự thụ phấn: khi phấn hoa của bông hoa này được rơi vào nuốm của chính
hoa ấy. Điều này hiếm khi xảy ra ở lan do cấu trúc sinh dục đực và cái ở hoa lan.
- Sự thụ phấn chéo: khi phấn hoa ở hoa này được để vào nuốm của hoa khác hay
cùng loài ( thường xảy ra với lan trong thiên nhiên), hoặc khác loài, khác giống

( thường do con người thực hiện trong việc cải thiện giống, gọi là lai. Sự tự nhiên
ở lan có xảy ra nhưng rất hiếm).
 Lai tạo
- Một trong những khó khăn chính yếu lúc đầu của việc gây giống lan là việc
không kiểu biết về cấu trúc cảu hoa lan, đặc biệt là của trục hợp nhụy
- Lai là sử dụng 2 cây khác nhau (cùng loài hay khác loài, khác giống), lấy phấn
hoa của cây này ( cây cha) để nhuộm vào cây kia ( cây mẹ). Hạt có được sẽ
đem một số đặc tính của cây cha và một số đặc tính của cây mẹ và cây phát
triển từ đám hạt ấy sẽ có những đặc tính khác hẳn cả cha và mẹ: đó là cây mới.
Kết quả lai giữa 2 cây tùy thuộc vào mức độ khác giữa chúng.
- Hai cây chỉ khác nhau một trong hai tính thường được xem như những thứ cảu
cùng 1 loại. Nếu cho lai với nhau thì con cái của chúng chỉ biến đổi ở đặc tính
mà ch mẹ chúng khác nhau.
- Nếu hai loài khác biệt nhau về nhiều tính chất cho lai với nhau thì kết quả sẽ vơ
cùng phức tạp. Thường có thể trung gian giữa cha mẹ ít hay nhiều ở hầu hết các
đặc tình.
Muốn thu được tổ hợp những đặc tính tốt và hiếm, ta phải lai nhiều lần. Tuy
nhiên ở các lần lai sau thường gặp các trở ngại là chúng khơng thụ hay thụ mà
khơng có hạt. Tiến trình lai càng xa thì mức độ bất thụ càng cao.
22


Nay chúng ta biết những lồi trong cùng tơng phụ có khả năng lai được hơn là
khác tơng.
Sự bất thụ ở lan phức tạp: đôi khi ta lai A x B thì khơng thụ. Nhưng ta đổi ngược
mẹ thành cha, cha thành mẹ B x A thì có kết quả. Hoặc đối khi đổi ngược như
vậy mà không thụ. Nguyên nhân của việc bất thụ có thể là:
+ Do kích thước của trục hợp này
+ Sự bất tương hợp của một số cặp nhiễm sắc thể của cha mẹ ở trong cây lan
lai cũng là nguyên nhân của sự bất thụ. Vì chúng khơng có khả năng tạo ra giao

tử bình thường mặc dù cây lan ấy vẫn phát triển khỏe mạnh và có hoa tưới tốt.
+ Đa bội thể là kết quả của sự bắt cặp khơng bình thường trong thời kì giảm
phân. Lúc đó có thể thêm một hay nhiều bộ nhiễm sắc thể trọn vẹn hay không
đầy đủ cũng là nguyên nhân của bất thụ. Các cây lan tam bội (4n) có nhiều đặc
tính tốt ( cây to, hoa lớn…) và dễ thụ nên thường được sưu tầm để lai.
Một tính chất vơ cùng quan trọng khác là ảnh hưởng của môi trướng vào sự phát
triển của lan.
Như vậy với mục đích của việc là đem lai là đem lại những cây tốt đẹp hơn, mới
lạ hơn, khơng có được trong tự nhiên ( hoa lớn hơn, kín hơn, màu mới, sắc
thuần hay biến thiên, sắc độ phân minh, cây nhiều hoa hơn, số lần ra hoa nhiều
hơn, cánh dài dai bền, lâu tàn dễ trồng, khàng bệnh…).
Vì mỗi trái lan có đến hàng ngàn hay hàng triệu hạt cho nên khi trồng cần kiên trì
trồng chúng để tuyển chọn vì khơng phải tất cả cây con đều mang đặc tính tốt
đẹp. Mà trái lại, trong số đó đơi khi mang đặc tính xấu, có thể thua xa đặc tính
cha mẹ chúng. Vì vậy khơng nên dùng cây lan con này để nuôi cấy mô nhân
giống khi chưa thấy hoa của chúng ( thường ta cẩn thận quan sát hai mùa hoa
rồi mới quyết định chọn làm cây giống).
• Những điều cần lưu ý khi thụ phấn ở lan:
- Tưới nước: sau khi thụ phấn xong đừng tưới nước ướt cành hoa, nhất là cái hoa
mà ta vừa mới thụ phấn. Giọt nước tưới có thể làm cho sự thụ phấn khơng có
kết quả. Khi trái đã lớn rồi thì phải lưu ý đến mưa. Giọt nước mưa cũng làm cho
trái nứt ra, nước sẽ chui vào bên trong hạt làm cho trái thối hư. Vì vậy khi trái
già, ta dùng bọc nylon trong chụp trên trái, để miệng hở bên dưới kẻo hầm hơi.
Nếu dùng trái non để gieo hạt thì khỏi bọc bao nylon này
- Tưới phân: cần dùng nhiều phân có chứa nhiếu phosphi để tưới khi cây đã đậu
trái. Mỗi tuần tưới 1 – 2 lần.
- Ánh sáng: thường nếu trái nào nhận nhiều ánh sáng thì trí đó chóng già, nhưng
khơng cần thiết phải di chuyển cây lan đến nơi có nhiều ánh sáng khi đã đậu trái.
- Sâu bệnh: phải quan sát từ khi cây mới nhú hoa xem chúng có bị bệnh gì khơng,
phải trị cho hết rầy, rệp, bệnh tật rồi mới thụ phấn. Sau khi đậu trái l;ại càng phải

23


chú ý hơn, nhất là các côn trùng như cào cào, chuột… đến cắn phá trái. An toàn
nhất là để cây lan ấy vào trong lồng có lưới bao xung quanh
• Lợi ích của việc dùng trái non để gieo hạt
Ta rút ngắn được 2/3 thời gian so với dùng trái già.
Nhiều cặp lai khó đậu trái, nếu khơng trái thường vàng và rụng sớm trước khi
chín. Việc gieo hạt non sẽ giải quyết được vấn đề này.
Giúp cho cây mẹ bớt ảnh hưởng sức khỏe vì phải ni trái trong thời gian dài.
Nếu hái trái non, cây mẹ sẽ chóng phục hồi và tiếp tục ra hoa.
Việc sử dụng trái non rất thuận lợi cho việc gieo hạt vì chỉ cần khử trùng trái một
cách dễ dàng mà khỏi phải khử trùng hạt như khi dùng trái chín bung ra vì phải
ni trái trong thời gian dài. Nếu hái trái non, cây mẹ sẽ chóng phục hồi và tiếp
tục ra hoa.
Việc sử dụng trái non rất thuận lợi cho việc gieo hạt vì chỉ cần khử trùng trái một
cách dễ dàng mà khỏi phải khử trùng hạt như khi dùng trái chín bung ra.
 Gieo hạt
Vì hạt lan q nhỏ, khơng chứa dữ liêu vá chỉ có một phơi chưa phân hóa, nên
khơng thể phất triển theo một phuong cách bình thường được. Vì vậy việc làm
cho hạt nảy mầm và phát triển thành cây lan trưởng thành là vấn đề khó khăn
trong giai đoạn đầu của thời kì phát triển ngành lan. Người trồng lan đã tìm mọi
cách để gieo hạt nhưng không thành công. Năm 1884, Neumann, người làm
vườn Pháp, đã làm nảy mầm một số hạt lan bằng cách rãi đãi chúng trên các
cục đất ở quanh các gốc lan lớn. Sự thành côn ấy được đốn xa lan rộng nhưng
không ai biết được lý do các hạt ấy nảy mầm. Dminy là người đầu tiên đã tạo
được các hạt lan lai và làm nảy mầm các hạt lan ấy trước năm 1853. Nhiều lúc
ông chỉ tạo được vài cây, mọi trường hợp khác đều thất bại.
Năm 1899. Noel Bernard là nhà thực vật người Pháp, đã khám phá ra sự bí mật
của việc làm nảy mầm ở hạt lan khi khảo sát hạt Neottia nidus-avis nảy mầm tự

nhiên trong rừng vùng Fontainebleau ở nước Pháp. Ông thấy các cây lan ấy đều
nhiễm nấm. Sự thật thì việc liên hệ giữa nấm và cây lan con đã được khảo sát từ
1850, sự liên hệ giữa nấm và rễ lan đã được các nhà khoa học nghiên cứu suốt
hơn nữa thế kỉ tiếp theo đó. Điều này cắt nghĩa lý do thành công của Neumann:
hạt nảy mầm nhờ nấm có sẵn quanh gốc lan lớn.
Người ta đã khám phá ra 3 loại nấm giúp nảy mầm ờ hạt lan: Rhizoctonia
repens, Rhizoctonia mucoroides, Rhizotonia lanuigiosa. Mỗi loài chỉ giúp naay3
mầm một số giống lan nhất định.
Kể đến, khoảng 1922, Knudson ở Mỹ, lại thành công trong việc thay thế nấm
bằng đường ở môi trường thạch để gieo hạt. Knudson nhận thấy rằng với các
chai cấy có chứa thạch và muối khống thích hợp thì khả năng nảy mầm của
các hạt lan xảy ra rất sớm. Ông nhận thấy chỉ có một sự khác biệt giữa cây lan
24


và hạt lan là sử dụng CO2 trong khơng khí: từ CO2 và nước, cây lan tạo ra
hydratcabon ( gồm đường và tinh bột ) theo phản ứng:
nCO2 + 2nH2O  (CH2O)n + nCO2 + nH2O
từ hydrat cacbon ấy và muối khoáng do rễ mang lại, cây lan đã tạo ra được các
hợp chất phức tạp cần thiết cho sự phát triển của nó. Knudson nghĩ rằng hạt lan
khơng mọc được bởi lí do đơn giản là do thiếu khả năng tạo ra carbon hydrat từ
CO2. Khi thí nghiệm để kiệm tra ý nghĩa đó thì ơng thành cơng ngay. Ông thấy
rằng chỉ cần thêm 2% đường vào môi trường gieo hạt chỉ gồm thạch và muối
khống. Như thế khơng cần có nấm cho sự nảy mầm của hạt. Như thế vai trị
chính yếu của nấm trong sự nảy mầm của hạt lan là cung cấp chất dinh dưỡng.
Từ đó, phương pháp của Knudson đã được sử dụng khắp nơi trên thế giới và
được gọi là phương pháp gieo hạt khơng cộng sinh.
Cây giống lan gấm có thể tạo từ nhân in vitro các nốt thân, hạt giống và các bộ
phận sinh dưỡng của cây. Tuy nhiên sự sinh trưởng các của cây lan gấm in vitro
chậm, kéo dài thời gian nhân giống. Hiện nay nhiều nước chủ yếu sản xuất cây

lan gấm từ nuôi cấy hạt in vitro.
Hạt giống lan gấm gieo trên mơi trường MS giảm ½ khống đa lượng, bổ sung
nước dừa, than hoạt tính và dịch chiết trái cây, hạt giống sẽ nảy mầm sau 4
tháng nuôi cấy.
Cấy chuyển sang môi trường tạo chồi MS giảm ½ khoáng đa lượng, bổ sung BA,
NAA và sucrose, sau 4 tháng cấy chuyển qua mơi trường tạo cây hồn chỉnh.
Khi cây được 10 tháng tuổi, chuyển cây lan gấm in vitro ra trồng trong khay
ngồi vườn ươm có hệ thống làm mát (cooling pad hoặc phun sương).
Để nâng cao tỉ lệ nảy mầm của hat lan gấm, hiện nay người ta dùng nấm
Rhizoctonia cộng sinh với hạt, đã làm tăng tỉ lệ nảy mầm lên 80% trong môi
trường OMA, gồm bột yến mạch, dịch chiết nấm men và agar (Ling-Chin Chou
and Doris Chi-Ning Chang, 2003).
2. Nhân giống vơ tính
Thân non
Một số cây tạo ra những cây non trên thân chứa hoa. Khi điều này xảy ra, để lại
những cây non trên thân hoa cho đến khi chúng đã phát triển một ít rễ dài vài
cm.

25


×