Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Hoạt động kinh doanh quốc tế của coca – cola tại việt nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.95 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
BỘ MÔN KINH DOANHQUỐC TẾ

ĐỀ ÁN MÔN HỌC
(Bản chính)
Đề tài
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH QUỐC TẾ CỦA COCA – COLA TẠIVIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI NỀN KINH TẾ

Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Hường.
Sinh viên: Nguyễn Đức Anh. (098765 6322)
Mã sinh viên: CQ520108.
Lớp: QTKDQT52B.
Khóa: K52
Hệ: Chính quy
Hà Nội, 2013


Trong kinh doanh quốc tế, hình thức đầu tư trực tiếp là hình thức phát triển
cao nhất xong cũng phức tạp nhất.Đây là hình thức thâm nhập thị trường đòi hỏi
các nhà đầu tư phải xem xét mọi khía cạnh từ môi trường đầu tư đến các yếu tố
thuộc bản thân doanh nghiệp.
Việt Nam, từ một quốc gia lạc hậu nghèo nàn với các nghành
nghề hoạt động yếu kém và chủ yếu là tập trung vào nông nghiệp,
các ngành kinh tế khác thì thiếu thốn về cơ sở vật chất , thiếu
nền tảng khoa học do đó khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường nước ta đã gặp rất nhiều khó khăn. Việc xây dựng nên các
chính sách, ban hành các bộ luật, xây dựng cơ sở hạ tầng,.. còn
nhiều hạn chế. Tất cả những điều đó cũng ảnh hưởng ít nhiều tới
các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh vào Việt Nam từ những


năm 90 của thế kỉ 20, trong đó có COCA – COLA.
COCA – COLA là một tập đoàn lớn với sự hiện diện ở hơn
200 quốc gia Thương hiệu COCA-COLA được mọi người ở hầu
khắp các nước trên thế giới biết đến. Đây cũng là thương hiệucó
giá trị lớn nhất thế giới với hơn 70 tỷ USD.Ngoài ra COCA COLAcòn được đánh giá là một trong những tập đoàn có hoạt động
kinh doanh đạt hiệu quả. Ở Việt Nam cũng vậy, COCA – COLA
trong những năm gần đây luôn được biết đến là Doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài với số vốn đầu tư tăng kèm theo đó là mở
rộng quy mô cũng như mạng lưới phân phối sản phẩm của mình
tới mọi miền của nước ta.
Nội dung nghiên cứu gồm 3 vấn đề lớn nằm trong 3 chương:
CHƯƠNG 1: Hoạt động kinh doanh của COCA – COLA trong quá trình
chuyển đổi nền kinh tế của Việt Nam
CHƯƠNG 2: Thuận lợi, khó khăn và giải pháp của công ty COCA - COLA
CHƯƠNG 3: Định hướng phát triển của công ty COCA – COLA.
Do hạn chế về mặt thời gian và kiến thức, nên bài viết của em có thể còn nhiều
thiếu sót. Em mong nhận được sự đóng góp và phê bình từ cô để bài viết được hoàn
thiện hơn trong các lần sau.

22


Em xin chân thành cảm ơn ạ!
CHƯƠNG 1
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH COCA – COLA TRONG QUÁ TRÌNH
CHUYỂN ĐỔI NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM.
Cũng như một số công ty nước ngoài khác, Coca – cola với bề
dày hơn 100 năm tồn tại và phát triển huy hoàng cho tới ngày
nay, một trong những thành công lớn nhất và vang dội nhất của
công ty mà bất kỳ một công ty nào cũng phải mơ ước. Đó chính là

thương hiệu Coca – cola với giá trị lớn trên thế giới (khoảng 70 tỷ
USD). Để có được điều này không phải ngày một ngày hai, không
phải chỉ cần có một chiến lược nào đó là có được mà nó phải được
xây dựng trên một cơ sở chiến lược hoạt động sản xuất kinh doanh
một cách cụ thể trong từng giai đoạn, trong suốt hơn một thế kỷ
tồn tại.
Vào năm 1960 lần đầu tiên Coca – Cola xuất hiện tại Việt Nam.Nhưng mãi
đến tháng 2 năm 1994, Coca – Cola mới trở lại Việt Nam và bắt đầu quá trình kinh
doanh lâu dài.Trong giai đoạn này nền kinh tế của Việt Nam còn rất lạc hậu, tại
thời điểm này Việt nam đang là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.Với một quốc
gia lạc hậu nghèo nàn các nghành nghề hoạt động yếu kém, thiếu
thốn về cơ sở vật chất, về nền tảng khoa học do đó không thể làm
tiền đề cho sự phát triển kinh tế, một hạn chế rõ nhất của nước ta
lúc đó là sản phẩm được phân phối bằng tem phiếu.Và điều đó đã
tạo ra rất nhiều khó khăn cho công ty Coca – Cola tiêu thụ sản
phẩm trong thị trường Việt Nam.
Tháng 8 – 1995 Liên doanh đầu tiên giữa Coca – Cola Đông
Dương và công ty Vinafimex được thành lập có trụ sở tại miền Bắc.
Cũng trong năm đó một liên doanh nữa của Coca – Cola được
thành lập có trụ sở tại miền nam. Coca Cola là một trong những
trường hợp điển hình cho việc liên doanh với doanh nghiệp khi mới
thâm nhập thị trường Việt Nam. Công ty Coca – Cola muốn "dựa"
vào doanh nghiệp trong nước để nhờ giải quyết thủ tục hành

33


chính, giấy tờ.và mong muốn tìm được sức mạnh nội lực của các
doanh nghiệp Việt Nam.
Tháng 12 năm 1986, đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam

đã họp và đề ra đường lối đổi mới kinh tế. Đó là chuyển sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước. Tháng 10/1998,
Chính Phủ Việt Nam đã cho phép các công ty liên doanh trở thành
công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài.Các liên doanh của CocaCola tại Việt Nam lần lượt thuộc về quyền sở hữu hoàn toàn của
Coca-Cola Đông Dương và sự thay đổi này đã được thực hiện trước
tiên bởi Công ty Coca-Cola Chương Dương - miền Nam. Tháng 3
đến tháng 8/1999, liên doanh tại Đà Nẵng và Hà Nội cũng chuyển
sang hình thức sở hữu tương tự. Điều này đã gây rất nhiều khó
khăn cho COCA – COLA buộc công ty phải đưa ra những chiến
lược, chính sách để thâu tóm toàn bộ các doanh nghiệp thuộc liên
doanh.
Khi nền kinh tế Việt Nam mở cửa đã tạo ra cho Coca – Cola
dễ dàng hơn trong việc tiếp cận khách hàng và tiêu thụ sản
phẩm.Nên công ty đã đẩy mạnh phát triển các chiến lược về
marketing để quảng bá thương hiệu một cách mạnh mẽ, xây dựng
kênh phân phối rất rộng rãi.Nhưng Trước sức ép cạnh tranh ngày
càng gay gắt đến từ các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh
nghiệp trong nước của ngành nước giải khát cũng chuyển động.
Với chất lượng lao động của Việt Nam còn yếu kém mà Coca –
Cola muốn có được đôi ngũ nhân viên tiếp thị tốt nhất đến với
người tiêu dùng, và công nhân, lãnh đạo của công ty đã phải vạch
ra những chiến lược cũng như hoạt động kinh doanh cụ thể cho
từng thời kì, giai đoạn để Coca – Cola có những bước đi vững và
đạt hiệu quả cao nhất.
Câu hỏi:
1. COCA – COLA đã tiến hành các hoạt động kinh doanh quốc
tế như thế nào trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế tại
Việt Nam?
2. Bài học rút ra đối với COCA – COLA? Giải pháp?
Nguồn :

44


http:// luan-van/de-tai-mot-so-giai-phap-day-nhanh-tientrinh-chuyen-doi-doanh-nghiep-co-von-dau-tu-nuoc-ngoaisang-hoat-dong-theo-hinh-13405.
/>-

CHƯƠNG 2
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA COCA – COLA TRONG QUÁ TRÌNH
CHUYỂN ĐỔI NỀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
2.1. Sơ lược về công ty COCA – COLA
Được thành lập hơn 100 năm qua, Coca-cola đã có mặt trên
200 quốc gia
trong đó có Việt Nam với 300 loại đồ uống khác nhau. Một triết lý
xuyên suốt
quá trình hoạt động kinh doanh đó là câu khẩu hiệu “Công ty
Coca-cola tồntại để đem lại lợi ích và sự sảng khóai cho tất cả mọi
người, có liên quan đếnhoạt động của công ty.” Và cùng với nó
công ty Coca-cola đã trải qua cácbước phát triển thăng trầm sau:
Bước ngoặc đầu tiên trong lịch sử thành công của Coca-cola
là sự phát
minh và phát triển hình dáng chiếc chai và hệ thống đóng chai
được phát triển
cho đến bây giờ. Chiếc chai đem lại hiệu quả hình ảnh cho sản
phẩm Coca -Cola mạnh đến mức nếu hỏi hầu hết mọi người khi
nhìn thấy hình dáng củanó không mang trên mình bất kể nhãn
55


hiệu nào thì họ đều trả lời đó là chaiCoca - Cola, và cũng bằng việc
phát triển hệ thống các nhà máy đóng chai(Bottling Plant ) trên

khắp thế giới, các hãng đóng chai ("Bottler") đã cungcấp cho
người tiêu dùng những sản phẩm Coca-Cola với giá cả rất phải
chăng8 mà chất lượng không hề thay đổi. Nó mở ra một hướng
phát triển mới khôngchỉ cho ngành hàng nước giải khát mà còn
nhiều ngành hàng khác như hoámỹ phẩm, may mặc, điện tử về
việc đầu tư sang nước khác những công đoạnđơn giản hoàn thành
sản phẩm.
Năm 1960, Coca-cola lần đầu tiên được giới thiệu ở Việt
Nam.Tháng 2 năm 1994, Coca-cola trở lại Việt Nam trong vòng 24
giờ sau khi Mỹ xoá bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam.
Tháng 8 năm 1995, công ty TNHH Coca-cola Indochina Pte
(CCIL) đã liên doanh với Vinafimex, một doanh nghiệp nhà nước
thực thuộc bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn hình thành
nên Công ty thức uống có gas Coca-cola Ngọc Hồi ở Hà Nội vào
tháng 9 năm 1995, CCIL liên doanh với Công ty nước giải khát
Chương Dương, hình thành nên Công ty TNHH thức uống có gas
Coca-cola Chương Dương ở TPHCM. Tháng 1 năm 1998, CCIL tiếp
tục liên doanh với Công ty nước giải khát Đà Nẵng, hình thành nên
Công ty TNHH thức uống có gas Coca-cola Non nước.
Tháng 10 năm 1998, Chính phủ chấp thuận liên doanh tại
miền Nam chuyển sang hình thức công ty 100% vốn nước ngoài.
Tháng 3 năm 1999, Chính phủ cho phép Coca-Cola Đông
Dương mua lại toàn bộ cổ phần tại Liên doanh ở miền Trung.
Tháng 8 năm 1999, Chính Phủ cho phép chuyển liên doanh
Coca Cola Ngọc Hồi ở sang hình thức doanh nghiệp 100% VNN với
tên gọi Công ty nước giải khát Coca-Cola Hà nội.
Tháng 1 năm 2001, Chính Phủ Việt nam cho phép sát nhập 3
doanh nghiệp tại 3 miền Bắc, Trung, Nam thành một công ty
thống nhất gọi là Công ty TNHH nước giải khát Coca-Cola Việt
nam, có trụ sở chính đóng tại Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh và

2 chi nhánh tại Hà Tây và Đà Nẵng.
2.2. Chính sách đổi mới nền kinh tế của Đảng và nhà nước.
66


2.2.1. Về “mô hình” xã hội chủ nghĩa
Trước đây, “mô hình” xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam cũng như
hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa tiến hành xây dựng là xã hội
được đối lập hoàn toàn với xã hội tư bản chủ nghĩa.Tất cả những
vấn đề tồn tại trong xã hội tư bản, như sở hữu tư nhân, sản xuất
hàng hóa, kinh tế thị trường… đều không được chấp nhận trong xã
hội xã hội chủ nghĩa.Tính chất, trình độ phát triển của xã hội xã
hội chủ nghĩa được quy về tốc độ và quy mô thiết lập sở hữu công
cộng và sở hữu tập thể. Nền kinh tế được vận hành theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp. Đây là cơ chế kinh tế
được hình thành ở Liên Xô trong những năm tiến hành công
nghiệp hóa và sau đó, được áp dụng trong tất cả các nước xã hội
chủ nghĩa mà kết quả là, vào cuối những năm 70 – đầu những
năm 80 của thế kỷ XX, các nước xã hội chủ nghĩa và Việt Nam đã
lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội.
Từ năm 1986 đến nay, thông qua các kỳ Đại hội (VI, VII, VIII, IX và
X), nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan niệm lý luận về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã
được hình thành trên những nét cơ bản. Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà Việt Nam xây dựng là một "xã hội dân giàu, nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh; do dân làm chủ; có nền kinh tế phát
triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải

phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, phát triển toàn diện…; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân
các nước trên thế giới”.
Kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, được
phát triển tới trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản, nhưng tự bản
thân nó không đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản… Sử dụng kinh tế
thị trường làm phương tiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”;
77


“con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện. Kinh tế thị trường
hiện đại là phương tiện để tạo dựng chức năng xã hội; là bản chất,
mục tiêu và phương tiện để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Đây
là đổi mới nhận thức rất căn bản về chủ nghĩa xã hội.
2.2.2. Đổi mới chế độ sở hữu và thành phần kinh tế
Trước Đại hội VI, trong nhận thức cũng như trong hành động thực tế, chế độ
sở hữu với nhiều hình thức sở hữu đan xen, hỗn hợp và nền kinh tế nhiều thành
phần với nhiều hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh khác nhau không được thừa
nhận. Chế độ sở hữu được quy về hai hình thức chính là sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể. Nền kinh tế chia thành hai bộ phận: kinh tế xã hội chủ nghĩa (gồm quốc
doanh và tập thể) và kinh tế phi xã hội chủ nghĩa (gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ). Các
hình thức sở hữu toàn dân, tập thể và các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa được
tạo điều kiện thuận lợi để phát triển, còn các hình thức sở hữu và thành phần kinh
tế phi xã hội chủ nghĩa thì không những không có điều kiện phát triển, mà còn bị
cải tạo, thu hẹp dần và tiến tới bị thủ tiêu, xóa bỏ. Đến Đại hội VI, quan điểm đó đã
được thay đổi một cách căn bản, khi chúng ta xác định rằng: Quá trình từ sản xuất

nhỏ đi lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển nền kinh tế còn nhiều tính
chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hóa. Đây là điểm đột phá trong lý luận về
mô hình phát triển. Trước đó, trong các văn kiện chỉ mới nói tới việc sử dụng quan
hệ hàng hóa – tiền tệ, thì nay đã khẳng định là chuyển nền kinh tế tự cung, tự cấp
sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Sau này, tại các Đại hội VII, VIII, IX
và X, chúng ta đã hoàn chỉnh quan niệm về các thành phần kinh tế và chế độ sở
hữu trong thời kỳ định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là:
- Về chế độ sở hữu, trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân)
hình thành nhiều hình thức sở hữu: Sở hữu nhà nước; sở hữu tập thể; sở hữu tư
nhân; sở hữu hỗn hợp; sở hữu nước ngoài.
- Nền kinh tế nhiều thành phần là nền kinh tế bao gồm: Kinh tế nhà nước;
kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản, tư nhân; kinh tế tư bản nhà
nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế này có các hình
thức tổ chức kinh doanh đa dạng với sự đan xen, hỗn hợp của các loại hình sở hữu.
Trên cơ sở đổi mới quan niệm về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội, các Đại hội VI, VII, VIII, IX và X đều chủ trương thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
88


nghĩa. Trong nền kinh tế ấy, như khẳng định của Đại hội X, “các thành phần kinh
tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực
lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi
trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của
nền kinh tế”
2.2.3 Về tiến trình đổi mới hệ thống thể chế kinh tế

Có thể khái quát tiến trình đổi mới hệ thống thể chế kinh tế qua các giai đoạn
chính như sau:
- Giai đoạn 1979 – 1981: Năm 1979, Nghị quyết về lưu thông phân phối của
Hội nghị Trung ương 6 khóa IV đã mở đường cho việc áp dụng cơ chế “kế hoạch 3
phần”, cho phép doanh nghiệp nhà nước bán sản phẩm vượt kế hoạch pháp lệnh ra
thị trường tự do. Năm 1981, chính sách khoán 100 trong nông nghiệp với nội dung
khoán sản phẩm theo công việc và được bán sản phẩm vượt khoán trên thị trường
tự do đã được ban hành và thực hiện.
Đây là hai điểm đột phá thị trường đầu tiên ở hai lĩnh vực kinh tế chủ chốt, tạo
động lực phát triển cho doanh nghiệp, tập thể và người lao động.
- Giai đoạn 1985 – 1987: Trong giai đoạn này, chúng ta đã thay đổi nguyên
tắc hoạt động của các chủ thể hoạt động trong hai lĩnh vực chủ chốt của nền kinh tế
là công nghiệp và nông nghiệp; đồng thời xây dựng cơ chế hoạt động để thực hiện
nguyên tắc hoạt động mới giữa các chủ thể kinh tế thông qua thị trường nhờ áp
dụng chính sách mới về giá, lương, tiền.
Có thể nói, hai thay đổi này đã “cởi trói” cho các cá nhân và tập thể, song đó
mới chỉ là thay đổi ở cấp vĩ mô. Đại hội VI (12 – 1986) đã công bố chủ trương thực
hiện đổi mới toàn diện về kinh tế – xã hội với nội dung kinh tế cốt lõi là thay đổi cơ
chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp bằng cơ chế thị trường và trong
khuôn khổ mở cửa với nền kinh tế thế giới, thừa nhận sự tồn tại khách quan của
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Song, trong các năm 1986 – 1987, do chủ
trương đổi mới chưa được cụ thể hóa, nên đường lối đổi mới chưa chuyển thành
quá trình đổi mới trên thực tiễn.
99


- Giai đoạn 1988 – 1996: Từ 1988 – 1989 là giai đoạn đột phá thị trường
mạnh, toàn diện và căn bản ở khâu trung tâm của hệ thống (giá cả). Hệ thống giá cả
chuyển sang vận động theo nguyên tắc thị trường một cách thống nhất, đồng bộ.
Đây cũng chính là quá trình đổi mới trên thực tiễn với nội dung kinh tế là

chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường – mở cửa.
Từ 1990 – 1996 là giai đoạn chuyển mạnh nền kinh tế sang cơ chế thị trường
– mở cửa. Điểm đột phá trong giai đoạn này là khẳng định chủ trương và thực hiện
“phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa…, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”(16).
- Giai đoạn 1997 – 2001: Đây là giai đoạn mà do chịu nhiều tác động tiêu
cực từ cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ trong khu vực, tốc độ tăng trưởng kinh
tế bị suy giảm kéo dài. Các yếu tố của cơ chế cũ, như bao cấp, độc quyền, xin – cho
và bảo hộ trỗi dậy, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và việc cải thiện
môi trường kinh doanh theo hướng tự do hóa và hội nhập quốc tế diễn ra một cách
chậm chạp.
Năm 2000, với việc áp dụng luật doanh nghiệp, chúng ta đã tạo ra động lực
phát triển mạnh của khu vực kinh tế tư nhân.Năm 2001, chúng ta ký kết Hiệp định
thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ; đồng thời xác định vai trò động lực của chủ
trương hội nhập kinh tế quốc tế.Đại hội IX đã khẳng định đường lối phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, coi đây là mô hình kinh tế tổng
quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Giai đoạn 2002 – đến nay: Đây là giai đoạn chúng ta tiếp tục khẳng định
mô hình kinh tế tổng quát và xác định nhiệm vụ hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3 .Hoạt động kinh doanh quốc tế của COCA – COLA trong quá trình
chuyển đổi nền kinh tế
Hoạt động sản xuất kinh doanh.
+ Hoạt động sản xuất
Hiện nay công ty có 14 dây chuyền sản xuất các loại như sau:
- 5 dây chuyền đóng chai thuỷ tinh với công suất thực
tế:300chai/phút
- 2 dây chuyền đóng lon : 200lon/phút
- 6 dây chuyền sản xuất gói bột uống liền: 20gói/phút
- 1 dây chuyền đóng chai PET: 70 chai/phút

2.3.1

10


Trong các dây chuyền đóng chai thuỷ tinh còn có bộ phận
xúc rửa vỏchai và loại bỏ các vỏ chai không đạt tiêu chuẩn, ở
ngoài Bắc có 3 dây chuyềnđóng chai và lon, nhập vỏ lon từ nhà
máy tại Hài Phòng.
Hiện nay ngoài sản phẩm truyền thống, công ty cải tiến, đổi
mới cho rathị trường nhiều loại sản phẩm khác nhau nhằm phục
vụ mọi đối tượng, nhưngoài hương vị cam truyền thống của Fanta
còn có thêm hương vị chanh, đào,dâu, các sản phẩm nước tinh
khiết, nước uống tăng lực giàu chất bổ dưỡng, vàDietCoke cho
những người ăn kiêng, mẫu mã sản phẩm thường xuyên thayđổi
nhưng chỉ thay đổi hình thức nhãn hiệu còn kiểu dáng vẫn giữ
như cũ.Dây chuyền sản xuất khá hiện đại tiết kiệm đáng kể chi
phí sản xuất,lượng nhân công lao động, với công suất và năng lực
của công ty thì công tycó thể cung cấp 80% nhu cầu nước ngọt có
gas trên thị trường Việt nam(160/200 triệu lít/năm) .
Tuy nhiên thực tế tiêu thụ vào khoảng trên 100 triệu lít chiếm
khoảng70% năng lực thực tế của doanh nghiệp. Hiện nay để tận
dụng công suất dư thừa doanh nghiệp chuyển sang đóng chai
mặt hàng nước uống tinh khiết vìtheo điều tra nhu cầu về mặt
hàng này đang tăng nhanh.
+ Hoạt động kinh doanh
Triết lý kinh doanh của Công ty Coca-cola Việt Nam là “Công
ty tồntại để đem lại lợi ích và sự sảng khoái cho tất cả mọi người,
có liên quan đếncác Hoạt độngkinh doanh của Công ty “. Cocacola Việt Nam hiện nay chiếmkhoảng 55% thị phần nước giải khát
toàn thi trường Việt Nam và khoảng80% thị phần nước giải khát

miềm bắc với 16 loại đồ uống khác nhau. Côngty có một mạng
lưới tiêu thụ rộng khắp khoảng có 270.000 đại lý và cửa hàngbán
lẻ trên toàn quốc với hơn 900 nhân viên.Vốn đầu tư hiền nay của
công tykhoảng 163 triệu đôla. Tổng số công suất hiện nay của
Công ty Coca-colaViệt Nam là khoảng 420 triệu lít một năm. Công
ty thuê khoảng 2000 laođộng Việt Nam và tạo ra khoảng 25.000
việc làm cho các nghành công nghiệpcó liên quan.
11


Mục tiêu Marketing của hãng là:”Gần gũi với mọi gia đình”.
Vớinguyên tắc chính là mọi người tiêu dùng sản phẩm của Công ty
Coca-cola đềuthu được lợi ích.Công ty đã sử dụng chiến lược
Marketing quan hệ côngchúng mà trong đó nhân viên của Công ty
sẽ đóng vai trò quan trọng trongviệc tạo dựng, dui trì và phát triển
mối quan hệ gần gũi với khách hàng. Cụthể là khi Công ty thành
lập chi nhánh ở đâu thì sẽ thuê nhân viên ở đó vi họcó thể hiểu rõ
hơn tâm lý cũng như tập quán tiêu dùng của dân cư vùng
đó.Khách hàng của Công ty Coca-cola là tất cả mọi người trên
toàn thế giới. Đốivới người tiêu dùng Việt Nam thì các sản phẩm
của Công ty Coca-cola đã trởnên quen thuộc, được hình thành và
ăn sâu vào trong tâm trí Người tiêu dùngViệt Nam bởi uy tín và
hình ảnh của nhãn nhiệu. Tuy nhiên, ở mỗi vùng, mỗingười tiêu
dùng lại có nhu cầu và khẩu vị khác nhau.ởthành thị, sản
phẩmcủa Công ty được tiêu dùng nhiều hơn ở nông thôn và miền
nuí. Tại thịtrường Việt Nam Công ty Coca-cola cũng phải đối mặt
với sự cạnh tranh của nhiều hãng nước giải khát trong nước cũng
như ở nước ngoài như: Number 1của công ty Bến thành , Pepsi,
Nestle…với rất nhiều hương vị khác nhau vàcũng đang được ưa
chuộng trên thị trường Việt Nam. Từ năm 1994 đến nay,Công ty

Coca-cola đã đầu tư hơn150 triệu đôla cho việc phát triển thị
trường
Việt Nam.
Xây dựng kênh phân phối, tiếp cận khách hàng.
Tập đoàn Coca-Cola có trên 30.000 công nhân ở khắp thế giới
ngày đêm trực tiếp sản xuất bên những dây chuyền đóng chai và
đóng lon Coca-Cola hiện đại.Đó chỉ là con số những người ăn
lương trực tiếp của tập đoàn. Còn số lượng những người kinh
doanh, làm đại lý phân phối độc quyền hưởng hoa hồng của CocaCola thì có thể lên đến hàng trăm nghìn người. Coca-Cola Việt
Nam có 3 nhà máy đóng chai trên toàn quốc: HÀ TÂY - ĐÀ NẴNG HỒ CHÍ MINH
2.3.2

Các sản phẩm nước giải khát Coca-Cola được sản xuất tại ba
nhà máy đóng chai đặt tại Thành Phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà
12


Nẵng. Năm 2001, Chính Phủ Việt Nam đồng ý cho phép ba nhà
máy đóng chai sáp nhập theo cơ cấu quản lý tập trung, trong đó,
nhà máy đóng chai Coca- Cola Việt Nam (CCBV) ở Thành Phố Hồ
Chí Minh giữ vai trò quản lý. Hai nhà máy đóng chai ở Hà Nội và
Đà Nẵng hiện đang hoạt động như hai chi nhánh của Công ty
Coca-Cola Việt Nam ở khu phía Bắc và miền Trung. Với 3 nhà máy
sản xuất ở 3 miền Bắc, Trung, Nam tạo điều kiện cho công ty có
thể mở rộng mạng lưới phân phối ở các miền, cung cấp đầy đủ sản
phẩm cho các đại lí ở 3 khu vực này. Đối với sản phẩm nước giải
khát, khâu phân phối rất quan trọng, việc Pepsi vào thị trường Việt
trước nên nắm được khá nhiều nhà phân phối hơn Coca, vì vậy
coca vẫn tiếp tục mở rộng mạng lưới phân phối, thông qua các đại
lí, các quán cà phê, nước giải khát, nhà hàng,… thu hút các đại lí

bằng cách gia tăng các hoạt động hỗ trợ cho các đại lí như: tặng
dù, hỗ trợ trang trí cửa hàng, hỗ trợ tài chính,…
2.3.3 Chính sách giá
Sản phẩm cocacola định giá dựa trên người mua theo giá trị
nhận thức được. Họ xem nhận thức của người mua về giá trị chứ
không phải chi phí của ngươì bán là cơ sở quan trọng để định
giá.Họ sử dụng những yếu tố chi phí giá cả trong marketing-mix
để xây dựng giá trị được cảm nhận trong tâm trí của người mua.
Giá được định ra căn cứ vào giá trị được cảm nhận đó.•Chiến
lược định giá cocacola thâm nhập thị trường: khác với chiến lược
định giá cao nhằm chắt lọc thị trường, doanh nghiệp cocacola
chon chiến lược định giá sản phẩm mới tương đói thấp nhằm thâm
nhập thị trường, với hi vọng rằng sẽ thu hút được một số lượng lớn
khách hàng và đạt được một thị phần lớn.
•Định giá chiết khấu: phần lớn doanh nghiệp cocacola sẽ
điều chỉnh giá của mình để thương cho những khách hàng thanh
toán trước thời hạn, mua khối lượng lớn,Chiết khấu trả tiền mặt là
sự giảm giá cho những khách hàng nào mua và thanh toàn tiền
ngay, Chiết khấu theo số lượng là sự giảm giá cho những khách
hang mua sản phẩm với số lượng lớn.
13


•Định giá phân biệt theo dạng sản phẩm: theo cách định giá
này các kiếu sản phẩm và các mặt hàng của cocacola được định
giá khác nhau, nhưng tỉ lệ vớ chi phí tương ứng của chúng
•Định giá theo loại sản phẩm: doanh nghiệp cocacola thường
sản xuất nhiều kiểu sản phẩm và mặt hàng chứ không phải một
thứ duy nhất.Chúng khác biệt nhau về nhãn hiệu, hình thức, kích
cỡ, tín năng..do đó chúng được định giá ở các thang bậc khác

nhau. Hiện nay, giá của sản phẩm Coca tại thị trường VN cao hơn
so với các sản phẩm cùng loại tương ứng, tuy nhiên mức chênh
lệch về giá không cao. Có thể xem xét thông qua bảng giá được
cập nhật gần đây giữa Coca và Pepsi:
Bảng so sánh giá năm 2007
Lon 330ml
Pet 1.5 Lít
Thùng ( 24L/T)

Coca
6.800
14.000
140.000

Pepsi
6.500
13.500
145.000

2.4 Thuận lợi, khó khăn trong quá trình kinh doanh của công ty COCA –
COLA tại Việt Nam từ năm 1994 đến nay.
2.4.1. Thuận lợi của công ty COCA – COLA.
Tạo môi trường đầu tư thuận lợi thông qua chính sách thuế
xuất nhập khẩu thuế nhập khẩu đã đóng góp một cách tích cực vào tăng trưởng
kinh tế nói chung. Việc có được tốc độ tăng trưởng đó là nhờ một phần quan trọng
từ việc cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam, trong đó chính sách
về xuất nhập khẩu, cụ thể là hệ thống văn bản pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nên môi trường đầu tư thuận
lợi cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, qua 13 năm thực hiện, Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu đã bộc lộ một số nhược điểm cần được sửa đổi nhằm tạo nên một

hành lang pháp lý rõ ràng hơn, hiệu quả hơn không chỉ khuyến khích các doanh
nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao năng lực sản xuất trong nước, cải thiện tính
cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế mà còn là
một bước hài hoà các quy định của Việt Nam với các chuẩn mực quốc tế tiến tới
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới.

14


Việc sửa đổi, bổ sung Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu lần này sẽ tiếp tục
góp phần nhiều hơn nữa vào việc tạo một môi trường đầu tư thuận lợi hơn, thông
thoáng hơn cho COCA – COLA được cụ thể ở một số điểm chủ yếu sau đây:
- Tiếp tục duy trì các ưu đãi về thuế suất và miễn giảm thuế đối với phần lớn
các đối tượng chịu thuế sao cho các doanh nghiệp về cơ bản được hưởng ưu đãi
không kém thuận lợi hơn so với trước đây. Việc này củng cố lòng tin cho các
doanh nghiệp trong và ngoài nước đang hoạt động tại Việt Nam và các nhà đầu tư
tiềm năng. Do đó, theo chúng tôi đây là một dấu hiệu tích cực đối với việc cải thiện
môi trường đầu tư, tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh. Khi
COCA – COLA báo lỗ lên tổng cục thuế thì với chính sách hỗ trợ trên nhà nước đã
tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động đó là miễn giảm thuế trong vòng 3 năm
liên tục.
- Với phương châm khuyến khích phát triển sản xuất và xuất khẩu, bảo hộ
hợp lý có điều kiện cho các ngành sản xuất trong nước phù hợp với tiến trình hội
nhập, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi) dự kiến thay đổi cơ chế tổ
chức thu thuế xuất nhập khẩu, theo đó doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tự
khai, tự tính và nộp tờ khai hải quan cho cơ quan hải quan nơi có hàng hoá xuất
nhập khẩu, đồng thời tự nộp thuế vào NSNN điều này làm tăng tính tự giác của cả
doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài, rút ngắn thủ tục hành
chính, tạo nên một khung pháp lý minh bạch và thuận tiện hơn đối với hoạt động
xuất nhập khẩu. Với chính sách này thì tạo thuận lợi cho COCA – COLA thúc đẩy

nhập khẩu nguyên liệu sản xuất từ Mỹ tạo điều kiện cho công ty duy trì hoạt động,
đẩy mạnh sản xuất.
- Hài hoà các quy định về xuất nhập khẩu với chuẩn mực quốc tế. Sửa đổi bổ
sung lần này của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, ngoài các mục đích khác
còn nhằm mục tiêu tạo thuận lợi trong việc đàm phán gia nhập WTO của Việt
Nam, hài hoà các quy định về giá tính thuế, khiếu nại và quyền khiếu nại, thuế
chống bán phá giá v.v… Chính sách của nhà nước đã giảm mức thuế suất xuống từ
25% xuống còn 23% năm 2008. Đây là chính sách của nhà nước hỗ trợ các doanh
nghiệp mở rộng sản xuất, tăng tổng số vốn đầu tư tại Việt Nam

15


Tạo nên một môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn luôn là một mục
tiêu mà Chính phủ hướng tới với nỗ lực rất cao.Cải thiện môi trường đầu tư sẽ
khuyến khích được các nguồn lực trong và ngoài nước tập trung cho đầu tư, phát
triển kinh tế. Việc sửa đổi bổ sung Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu lần này
cũng là một trong các nỗ lực đó. Chúng ta tin tưởng rằng, việc ra đời của Luật thuế
xuất khẩu thuế nhập khẩu sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện hơn nữa môi
trường đầu tư ở Việt Nam.
MDC là cách phân phối mà Coke không sử dụng đại lý mà xây dựng nhà phân
phối độc quyền chỉ bán các sản phẩm của công ty. Các nhà phân phối này được
phân bố đều trên các địa bàn (khoảng 4-5 MDC/ quận) và mỗi MDC được điều
phối bởi 1 nhân viên giám sát của công ty. Có lẽ cần nhiều thời gian để xây dựng
thành công mô hình này tại Việt Nam, vì đặc thù ở đây là các chủ cửa hàng bán lẻ
thường làm ăn lâu năm với các đại lý .Bởi vì như thế sẽ lợi thế: thứ nhất là thuận
tiện trong giao dịch, thứ hai có thể mượn vỏ chai, thứ ba có thể gối đầu (trả sau)
tiền mua sản phẩm.
Bên cạnh đó, các chủ MDC do Coke dựng nên một phần không nhỏ không có
kinh nghiệm kinh doanh trong ngành nước giải khát . Đây chính là khó khăn trong

việc cạnh tranh với các đại lý (bán cả Pepsi, Number 1, và các thương hiệu khác)
Tuy nhiên, với hương vị ngon, thói quen sử dụng của người Việt Nam từ hàng
chục năm, và thương hiệu nổi tiếng, Coke vẫn chiếm 1 thị phần không nhỏ: gần
43% trên toàn quốc.
Khi thị trường Việt Nam mở cửa cũng làm cho cuộc chiến càng diễn ra gay gắt
hơn khi thị trường xuất hiện ngày càng nhiều các nhãn hiệu sản phẩm giải khát
khác cạnh tranh, trong đó có đối thủ truyền kiếp của CocaCola – Pepsi. Điều này
làm cho ban điều hành của tập đoàn phải liên tục cải tiến các chiến lược quảng cáo,
sản xuất, tài chính … để có thể thích nghi tồn tại cùng với sự chuyển biến của xã
hội. Bằng các chiến lược chiêu thị nhắm tới nhiều đối tượng khách hàng, danh tiếng
của CocaCola đã được biết đến ở từng ngõ ngách.Trong chiến tranh thế giới, những
nhà lãnh đạo của công ty đã rất linh hoạt trong việc sử dụng chính những người
lính Mỹ để tiếp thị cho sản phẩm này.Nhờ đó mà khi chiến tranh thế giới kết thúc,
cái tên CocaCola đã trở nên quen thuộc với châu Âu và xa hơn nữa.Không phải là
quá khi mà nói rằng CocaCola biết nắm bắt mọi cơ hội từ lớn đến nhỏ để quảng cáo
cho thương hiệu của mình. Những biển quảng cáo nổi bật màu đỏ tươi cùng với
dòng chữ CocaCola xuất hiện khắp nơi, từ sân bóng đến siêu thị, tiệm tạp hóa …
16


Cũng vì lẽ đó mà cái tên CocaCola trở nên quen thuộc với mọi người. Chiến lược
marketing đã ngốn của tập đoàn này hàng trăm triệu USD mỗi năm, nhưng nhờ đó
mà CocaCola đã trở thành cái tên hết sức quen thuộc mỗi khi nhắc đến các sản
phẩm giải khát.
Trong vinh quang của CocaCola không thể không nhắc đến những vị giám đốc
điều hành, những người đã lèo lái con tàu khổng lồ này qua một quãng thời gian dài
và từng bước phổ biến tên tuổi CocaCola đến với từng người tiêu dùng.CocaCola
có được thành công như ngày hôm nay, một phần quan trọng là nhờ tài năng và sự
tận tâm của Roberto Goizueta. Ông là người tận tụy với công việc cũng như với các
cổ đông đồng thời biết quan tâm đến chính sách trọng dụng nhân tài và bảo vệ lợi

ích của người lao động. Và bởi vậy, rất nhiều nhân viên giỏi của Coca Cola đã và
đang trở nên giàu có.
2.4.2. Khó khăn của công ty COCA – COLA.
Các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng , nhãn hiệu
phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện như phải được biết đến rộng rãi trên rất nhiều
quốc gia và vùng lãnh thổ, có uy tín lớn trên thị trường; doanh thu mà nhãn hiệu
này đem lại cho nhà đầu tư từ việc bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ phải lớn (Ví dụ
CocaCola là một trong những nhãn hiệu nổi tiếng nhất thế giới với giá trị thương
mại năm 2008 là 66.667 tỷ USD); nhãn hiệu phải được sử dụng liên tục trong một
thời gian dài từ khi xuất hiện trên thị trường đến khi được công nhận và còn duy trì
là nhãn hiệu nổi tiếng.
Chính sách đất đai: Mục tiêu của chính sách đất đai là tạo điều kiện thuận lợi
và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, bảo đảm cho các nhà đầu tư yên tâm và tin
tưởng đầu tư lâu dài ở Việt nam. Điểm đặc thù ở Việt nam là đất đai là tài sản quốc
gia, thuộc sở hữu toàn dân nên các nhà đầu tư nước ngoài không có quyền sở hữu
về đất đai. Cho đến nay đã có nhiều văn bản pháp lý liên quan đến đất đai gắn liền
với Luật Đầu tư nước ngoài như: Nghị định 18/CP ngày 13/02/1995, Quyết định số
1477/TC/TCĐN ngày 31/12/1994 của Bộ Tài chính ban hành bản quy định về
quyền cho thuê mặt đất, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước
ngoài... Tuy nhiên nhìn chung chính sách đất đai áp dụng đối với lĩnh vực đầu tư
nước ngoài vẫn còn những hạn chế nhấtđịnh.
Giá thuê đất của Việt nam hiện nay đã được điều chỉnh thấp hơn nhiều nước
trong khu vực (giá thuê đất của Việt nam là 2,62 USD/năm/m 2 - khu công nghiệp
17


Sài Đồng, thấp hơn nhiều so với Philippin: 85 USD/năm/m 2 trong khu công
nghiệp., hay như Singapore: 6,9 USD/năm/m 2 trong khu công nghiệp). Tuy nhiên,
thủ tục thuê đất, cấp đất, giá đền bù, giải phóng mặt bằng còn phức tạp gây mất cơ
hội và thời gian của các nhà đầu tư. Việc giao đất nhất là các dự án có đền bù và

giải tỏa kéo dài, nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp phải
mất hàng năm để thực hiện việc đền bù.
Công ty COCA – COLA thâm nhập vào thị trường VIệt Nam do ảnh hưởng từ
luật đất đai nên đã liên doanh với một số doanh nghiệp Việt Nam nhằm được
hưởng quyền sử dụng đất từ các doanh nghiệp trong nước với thời hạn lâu dài và ổn
định.
Chính sách thuế : Chính sách thuế này đã hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài
nhưng ở một khía cạnh nào đó lại ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Các văn bản về
thuế được ban hành rất nhiều nhưng không có hệ thống và luôn thay đổi.Vì lợi
nhuận của nhà đầu tư có liên quan đến việc nộp thuế nên khi mức thuế thay đổi gây
khó khăn cho họ trong việc lập kế hoạch kinh doanh. Mức thuế suất thuế doanh
nghiệp ở Việt Nam vẫn còn cao năm 2012 là 23%, thuế nhập khẩu nguyên vật liệu
thuế chồng thuế nên gây khó khăn trong lợi nhuận của công ty.
Chính sách tỷ giá và chính sách ngoại hối của Việt nam: đang bộc lộ một số
tác động tiêu cực đối với các công ty nước ngoài nói chung và đối với COCA –
COLA nói riêng. Điều 75 Luật Đầu tư nước ngoài 1996 quy định "tỷ giá chuyển
đổi tiền nước ngoài sang tiền Việt nam và ngược lại áp dụng trong quá trình tiến
hành đầu tư và sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và
bên nước ngoài hợp doanh được thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước
Việt nam tại thời điểm chuyển đổi", nhưng Luật năm 2000 không sửa đổi bổ sung
điều này. Như vậy, do tỷ giá hối đoái đồng Việt nam được ấn định hàng ngày bởi
Ngân hàng Nhà nước mà không phải là được ấn định bởi tỷ giá trên thị trường nên
hầu hết tỷ giá của Ngân hàng thường cao hơn và việc này gây thiệt hại cho COCA COLA do sự chênh lệch lớn này gây ra. Việc định giá đồng Việt nam quá cao đi
đôi với việc kiểm soát quá nghiêm ngặt các khoản vay nước ngoài trên một năm
của công ty mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra có thể dẫn đến việc thiếu hoặc không
có khả năng cung ứng ngoại tệ.
Chính sách lao động: Về chế độ tuyển dụng lao động, Luật Đầu tư nước ngoài
sửa đổi bổ sung năm 2000 đã có một vài thay đổi theo hướng nới lỏng hơn, chẳng
hạn như các doanh nghiệp có quyền được trực tiếp tuyển lao động Việt nam sau 15
18



ngày kể từ ngày nộp đơn yêu cầu cung ứng lao động cho các tổ chức cung ứng lao
động Việt nam (trước đây là 30 ngày); hay các doanh nghiệp có thể điều chỉnh mức
lương tối thiểu và lương của lao động Việt nam nếu chỉ số giá tiêu dùng tăng từ
10% trở lên so với lần điều chỉnh gần nhất. Tuy nhiên quy định thì như vậy nhưng
thực tế COCA - COLA rất khó tuyển dụng được lao động có chất lượng như mong
muốn, ở địa phương hầu như chỉ có một tổ chức cung ứng lao động và do đó chiếm
vị trí độc quyền trong việc cung ứng dịch vụ này. Ngoài ra, công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ tuy đã được đặt ra nhưng chưa giải quyết được nhiều hoặc có tính
chất tạm thời.
Nhìn chung, Luật tại Việt nam còn đơn giản, chung chung nhưng lại dẫn chiếu
đến nhiều văn bản dưới luật quá phức tạp làm giảm giá trị pháp lý của Luật nước
ngoài, làm cho pháp luật Việt nam về đầu tư nước ngoài thiếu tính đồng bộ, trong
sáng và tính dự đoán được. Hơn nữa, trìnhđộ hiểu biết pháp luật của người dân nói
chung còn kém, việc tuyên truyền pháp luật còn chưa đầy đủ dẫn đến việc thực
hiện pháp luật còn tùy tiện. Chính những hạn chế kể trên đã làm cho công ty
COCA – COLA gặp khó khăn lung túng trong thị trường Việt Nam trong giai qua.
CHƯƠNG 3
BÀI HỌC VÀ GIẢI PHÁP CỦA CÔNG TY COCA – COLA
3.1 Bài học của COCA – COLA
Coca Cola là một brand vô cùng mạnh với số tiền đầu tư vào marketing ở
hàng khủng khiếp, vì vậy cũng dễ hiểu khi ta phải học hỏi ở họ để phát triển hoạt
động quảng bá của mình.Công ty này luôn luôn đi đầu với những phát kiến và
phương thức marketing mới lạ.Họ là công ty đầu tiên thử phương thức cho khách
hàng sử dụng thử sản phẩm.Họ là một trong những công ty đầu tiên sử dụng phiếu
giảm giá.Và họ cũng là những người tiên phong trong phong trào nữ quyền tại công
sở.Coca Cola được biết đến như công ty luôn cách mạng hóa các phương thức
marketing, khiến cho nhiều công ty khác phải bắt chước các cách thức quảng bá
của họ với mong muốn sẽ đạt được một phần thành công mà tập đoàn này đạt được.

Bởi vì các phương thức marketing của Coca Cola đã rất thành công trong
quá khứ, chúng ta cũng nên nhìn vào những gì họ đang làm và cân nhắc các
19


phương pháp marketing của riêng mình dựa trên đó. Một điều tuyệt vời là Coca
Cola cũng tung ra các video về việc họ tiếp cận content marketing như thế nào, và
các video này có thể được tìm thấy trên Internet.
Jonathan Mildenhall, Phó Giám đốc quảng cáo và tiếp thị toàn cầu của Coca
Cola đã từng nói trong một buổi phỏng vấn rằng công ty lựa chọn việc công bố
những thông tin này, bởi họ tin rằng sẽ tốn quá nhiều công sức để che giấu kế
hoạch marketing mới của công ty. Thay vào đó, Coca Cola lựa chọn tung ra mọi
thông tin và nhận lại nhiều lợi ích từ sự công khai này.
Các bí quyết từ video content marketing của Coca Cola:
Mềm dẻo và có liên quan
Trong video của mình, đội ngũ marketing của Coca Cola đã sử dụng cụm từ
“mềm dẻo và có liên quan” khi họ nói về kế hoạch marketing mới: Content
Marketing 2020. Cụm từ này được dùng để chỉ hai khía cạnh của phương thức
content marketing này:
Mềm dẻo: Coca Cola dự tính sẽ tạo ra những nội dung thật hay và đáng lưu
ý để các nội dung đó có thể được viral hóa và truyền đến mọi nơi trên các website.
Công ty sẽ không phí thời gian vào các nội dung “bình thường” hay thậm chí là “có
chút hấp dẫn”. Họ sẽ chỉ đưa ra những nội dung tuyệt vời nhất và gây ra nhiều sự
thích thú, tò mò nhất trên các mạng xã hội.
Có liên quan: Điều này nêu ra tầm quan trọng của việc chắc chắn là các nội
dung vẫn gắn liền với mục tiêu của công ty. Sẽ không có chút lợi ích nào nếu như
các nội dung của bạn có thể được viral hóa và truyền bá khắp nơi nếu nó không thể
tăng doanh số bán các sản phẩm của bạn.
Bài học: Luôn chỉ đưa ra những nội dung ấn tượng nhất gắn liền với việc
kinh doanh của bạn.

Những người thường như chúng ta có thể sẽ không có đủ tài nguyên để tạo ra
các nội dung sẽ liên tục được viral hóa, nhưng chúng ta vẫn có thể học được rất
nhiều từ cụm từ “mềm dẻo và có liên quan” này.
Không có sự khác biệt lớn lắm giữa một nội dung mang tính trung bình và
một nội dung hay, và thậm chí không có khoảng cách nào nhiều nhặn giữa một nội
dung hay và một nội dung tuyệt vời. Nhưng luôn có một khoảng cách khá xa giữa
những nội dung gây ấn tượng mạnh mẽ và những cái còn lại. Nội dung gây ấn
tượng có thể được viral hóa, các nội dung viral sẽ mang lại những hiệu quả không
ngờ. Hãy bỏ thêm một chút công sức nữa để làm nên một điều thật đặc biệt.
20


Nếu một vài sản phẩm của bạn có thể viral hóa, và nó gắn kết khá chặt tới
những mục tiêu của công ty bạn, bạn sẽ nhanh chóng được thưởng rất nhiều share
và link trên mạng xã hội, và điều này sẽ khiến công ty của bạn được biết đến nhiều
hơn, cũng như ra tăng độ phủ của bạn trên các công cụ tìm kiếm, cũng như có thể
tăng doanh thu của bạn.
3.2. Giải pháp của Coca – cola.
- Trong nền kinh tế đang chuyển đổi của Việt Nam, các chính sách thay đổi
liên tục, acsc khe hở về luật pháp COCA – COLA đã tìm hiểu rõ về văn hóa, pháp
luật của Việt Nam trước khi tiến hành thâm nhập vào thị trường. Tìm hiểu rõ ràng
về luật đất đai, một chiến lược được đặt ra tiếp cận người tiêu dùng Việt Nam cần
phải có sự hỗ trợ của các doanh nghiệp trong nước để dẫn đường cho COCA –
COLA vào Việt Nam.
- Khi chính sách của nhà nước thay đổi cho áp dụng doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài. Ngay khi đó COCA – COLA đã có những chiến lược cụ thể để đẩy các
doanh nghiệp liên doanh ra khỏi COCA – COLA một mình nắm giữ 100% cổ phần
- Coca cola ‘chắc chân trên thịtrường’, tập trung vào dòng sản phẩm chủ
lực, tập trung vào các thịtrường chủchốt chứ không đầu tư dàn trải để rồi không thu
được gì trong cả năm.

- Công ty cần thực hiện các vụthôn tính quan trọng trong khu vực đồ uống
không có ga nhằm tăng cường sự hiện diện của mình trong phân khúc thị trường
đang lên.
- Các chiến dịch marketing cần phải bao quát rộng hơn những điểm liên
quan đến người tiêu dùng như sử dụng những công cụtiếp thị mới từ hình thức
quảng cáo 3D sang chương trình khách hàng lâu dài trực tuyến nhằm kết nối với
người tiêu dùng, thu hút khách hàng tuổi teen– đây chính là đốtượng khách hàng có
tiềm năng lớn để duy trì bền vững doanh thu của công ty.
- Tiến hành ‘cú hích’ Việt hóa nhân sự cấp cao nhằm thay đổi nhận thức
của các công ty đa quốc gia về chất xám và tay nghề của lao động tại chỗ. Nên sử
dụng nhiều lao động Việt Namtrong cơ cấu của công ty bởi vì lao động Việt Nam
cũng có trìnhđộ không kém gì lao động các nước khác, hơn nữa, sử dụng lao động
21


nội địa cũng là một lợi thế cho Coca - Cola trong công cuộc trinh phục người tiêu
dùng Việt Nam.
- Đitheo hướng kinh doanh bền vững với những sáng kiến như tiết kiệm
nước trong quá trình sản xuất, vật liệu khi đóng gói và thậm chí là cả điện năng của
hàng triệu tủ lạnh của các hãng trên khắp thế giới.
Bên cạnh chiến lược chung cho toàn thị trường Việt Nam, Coca Cola cần tập
trung nghiên cứu thị trường, khoanh vùng, phân cấp phân phối từ đó làm cơ sở để
xây dựng những chiến lược giá tối ưu hơn cho từng vùng thị trường, từng phân
khúc thị trường…Ví dụ thị trường miền Trung có mức tiêu thụ thấp hơn miền Bắc
và miền Nam, Coca Cola có thể sử dụng chiến lược điều chỉnh giá theo chiết khấu
để kích thích hệ thống phân phối hoạt động hiệu quả hơn bằng hình thức chiết
khấu trực tiếp trên doanh thu sẽ hấp dẫn và tạo được hiệu ứng “đẩy” tốt hơn.
Việc hoàn thiện chiến lược giá nên đặt trọng tâm trong sự hài hoà với các
chiến lược kinh doanh của công ty. Đặc biệt phải lưu ý đến những phản ứng của thị
trường tiêu dùng và đối thủ cạnh tranh trước khi đưa ra những điều chỉnh hay thay

đổi dù là nhỏ nhất về giá để đảm bảo sự thành công vì người tiêu dùng Việt Nam là
những người rất nhạy cảm về giá.
3.3 Giải pháp chung cho các công ty kinh doanh quốc tế.
- Nắm

rõ các vấn đề cơ bản có liên quan đến việc chuyển đổi
DNCVĐTNN sang hoạt động theo hình thức CTCP và hình thức
CTCP CVĐTNN .
Một trong những vấn đề quan trọng để việc chuyển đổi được
thực hiện một cách thuận lợi là các chủ đầu tư của các DNCVĐTNN
có nhu cầu chuyển đổi sang hình thức CTCP cần phải nắm rõ các
vấn đề cơ bản có liên quan đến vấn đề chuyển đổi. cụ thể như:
- Chủ chương của nhà nước và mục tiêu chuyển đổi;
- Ưu, nhược điểm của hình thức CTCP; những khó khăn và
thuận lợi khi chuyển đổi sang hình thức CTCP;
- Các điều kiện chuyển đổi và hình thức chuyển đổi;
- Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, những
thuận lợi và khó khăn khi áp dụng từng phương pháp;
22


- Hồ sơ đề nghị chuyển đổi, trình tự và thủ tục chuyển đổi;
- Một số quy định của luật doanh nghiệp áp dụng đối với hình
thức CTCP có VĐTNN
Chủ động xử lí những vấn đề tài chính trước khi xác định giá trị DN
:
- Tiến hành kiểm kê, phân loại tài sản:
Đối với tài sản thiếu thì tiến hành phân tích làm rõ nguyên
nhân, xác định mức độ trách nhiệm đền bù.Giá trị tài sản thiếu
sau khi trừ khoản đền bù trách nhiệm và tài sản thừa sẽ hoạch

toán vào kết quả kinh doanh.
Đối với tài sản không cần dùng, tài sản ứ đọng.tài sản chờ
thanh lí thì tiến hành thanh lí. Các khoản thu và chi phí cho hoạt
động thanh lí được hoạch toán vào kết quả kinh doanh.
- Xử lí các khoản nợ phải thu:
Đối với các khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn nhưng không có
khả năng thu hồi thì tiến hành đôn đốc thu hồi nợ.
Đối với các khoản nợ quá hạn không có khả năng thu hồi
hoặc còn trong hạn nhưng có dấu hiệu không thể thu hồi như: đã
phá sản, giải thể hoặc đã ngừng hoạt động, không có khả năng chi
trả ( đối với khách nợ là pháp nhân ) ; đã chết hoặc mất tích ( đối
với khách nợ là có nhân ) thì tiến hành xử lí vào chi phí của DN
( nếu có đầy đủ hồ sơ, chứng từ theo quy định )
- Xử lí các khoản phải trả:
Đối với các khoản nợ phải trả đã đến hạn thì tiến hành thanh
toán kịp thời cho nhà cung cấp.trong trường hợp chuyển nợ phải
trả thành vốn góp cổ phần phải đảm bảo tuân thủ đúng các qui
định của nhà nước về quền mua cổ phần lần đầu tiên.
Đối với các khoản nợ phải trả đã quá hạn và có đầy đủ căn cứ
là chủ nợ đã từ bỏ các quền của mình đối với khoản nợ đó thì xử lí
vào thu nhập của DN.
- Xử lí tài sản góp vốn liên doanh:
23


Trong trường hợp CTCP sẽ tiếp tục kế thừa các hoạt động liên
doanh thì giá trị tài sản góp vốn liên doanh được tính vào giá trị
DN khi xác định giá trị DN.
Trường hợp CTCP không thừa kế hoạt động liên doanh thì tiến
hành xem xét, xử lí theo hướng sau:

+ Chấm dứt hợp đồng liên doanh trước thời hạn.
+ Thỏa thuận chuyển nhượng góp vốn liên doanh.
- Xử lí các quỹ công ty:
Các quỹ của công ty ( nếu có ) sẽ được xử lí theo Ý kiến của
hội đồng quản trị ( đối với DNLD hoặc DN 100% VNN có hội đồng
quản trị) hoặc theo Ý kiến của tổng giám đốc ( đối với DN 100%
VNN không có hội đồng quản trị

KẾT LUẬN
Qua những nghiên cứu về sản phẩm Coca-cola của công ty Coca - cola Việt
Nam chúng ta có thể thấy đây làmộtsản phẩm đang phát triển mạnh trên thị trường
Việt Nam cũng như thế giới. Nguyên nhân chính là do quản trịxúc tiến sản phẩm
Coca-cola của công ty có hiệu quả cao. Tuy nhiên vẫn còn những công cụ xúc tiến
chưa được chú ý phát triển mạnh vì thế cần tận dụng tốiđađể nâng cao hiệu quả
củaquản trị xúctiến với nhãn hiệu Coca-cola.
Từ việc phân tích tìm hiểu trên, những công ty nước giải khát củaViệt Nam
cần rút ra bài học cho mình để có thể phát triển mạnh hơn. Đặc biệt trong điều kiện
gia nhập WTO, thị trường mở cửa rộng lớn và những hang nước ngọ tnội địa vẫn
chưa đủ sức cạnh tranh. Trong tương lai không xa nếu biết nghiên cứu, vận dụng
24


sáng tạo những công cụ trong quản trị xúc tiến thì có thể những công ty này sẽ trở
thành đối thủ mạnh của Coca-cola giống như đối thủ Pepsi.

Danh mục tài liệu tham khảo

1.
2.
3.

4.

/> /> /> />25


×