Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục đào tạo tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (363.25 KB, 52 trang )

Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm
1986. Kể từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi
mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung,
bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện CNH-HĐH
đất nước, đa dạng hoá và đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực
hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam
giảm nhanh được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng
tương đối trong xã hội. Tiền đề phát triển đất nước trong thời kỳ mới chính
là do sức mạnh của con người Việt Nam quyết định. GD- ĐT là con đường
quan trọng nhất để xây dựng nguồn nhân lực và làm nên sức mạnh ấy.
Ngành GD- ĐT muốn phát triển được và đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
mới nhất thiết phải được đầu tư cả về sức người và sức của. Đầu tư cho GDĐT là một nội dung trong đầu tư phát triển con người. Từ trước đến nay đào
tạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực luôn được Đảng và Nhà
ta coi là hoạt động đầu tư cơ bản nhất. Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định mục tiêu tổng quát của Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001-2010 là: “Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng
cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại hoá”. “ Con đường CNH- HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian so với các nước đi trước, vừa có những bước tuần tự, vưac có những bước
nhẩy vọt…”. Để đạt được các mục tiêu nêu trên, giáo dục và khoa học công
nghệ có vai trò quyết định,nhu cầu phát triển giáo dục là rất bức thiết.
Việc đầu tư vào lĩnh vực GD- ĐT đã gặt hái nhiều thành tựu đáp ứng
công cuộc CNH- HĐH ở Việt Nam cụ thể như quy mô GD-ĐT được mở
1


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam



rộng, đa dạng hóa các hình thức GD-ĐT đồng thời không ngừng nâng cao
dân trí và tăng cường cơ sở vật chất hạ tầng nhà trường. Tuy nhiên thực tế
vốn đầu tư phát triển GD- ĐT chưa tương xứng với vị thế của nó và nó phản
ánh một cơ cấu vốn đầu tư phát triển GD- ĐT chưa hợp lý, việc quản lý hoạt
động này còn hạn chế là nguyên nhân chất lượng GD-ĐT ở trong vòng luẩn
quẩn nên đã dẫn đến những hạn chế trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo của
nước ta.

2


Tỡnh hỡnh huy ng v s dng vn u t phỏt trin giỏo dc o to ti Vit Nam

PHN I
TNG QUAN V U T PHT TRIN GIO DC V NNG
CAO CHT LNG LAO NG TI VIT NAM
1. Lý thuyt v u t phỏt trin giỏo dc o to
ầu t phát triển giáo dục đào tạo là một nội dung trong đầu t phát triển
con ngời. Đào tạo bồi dỡng, nâng cao chất lợng nguồn nhân lực luôn đợc
Đảng và Nhà nớc ta coi là hoạt động đầu t cơ bản nhất. Vậy có thể hiểu đầu
t cho giáo dục đào tạo là hành động bỏ tiền ra để tiến hành hoạt động nhằm
tạo tài sản mới cho nền kinh tế nói chung, cho giáo dục nói riêng. Tài sản
mới có thể là trình độ đợc nâng cao của mọi đối tợng trong xã hội, từ đó tạo
tiềm lực, động lực mới cho nền sản xuất xã hội.
Con ngời là lực lợng sản xuất trực tiếp tạo ra của cải vật chất, là lực lợng sáng tạo ra xã hội. Đào tạo nguồn nhân lực có khả năng đáp ứng những
yêu cầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa vai trò hàng đầu thuộc
về công tác giáo dục và đào tạo. Giáo dục đào tạo tạo ra sự chuyển biến về
chất trong lực lợng lao động, góp phần thực hiện thành công mục tiêu kinh tế
xã hội.

2. S cn thit phi u t phỏt trin ngnh giỏo dc v nõng cao cht
lng lao ng ti Vit Nam
Ngnh giỏo dc - o to mun phỏt trin c v ỏp ng yờu cu
ca thi k mi nht thit phi c u t c v sc ngi v sc ca. Cú
th hiu u t cho giỏo dc - o to v nõng cao cht lng lao ng l
hnh ng b tin ra tin hnh hot ng nhm to ti sn mi cho nn
kinh t núi chung v cho ngnh giỏo dc - o to núi riờng. Ti sn mi
c to ra cú th l trỡnh c nõng cao ca mi i tng trong xó hi,
t ú to ra tim lc, ng lc mi cho nn sn xut xó hi. Nh ó nờu trờn,
giỏo dc - o to chớnh l ng lc thỳc y v l iu kin c bn m bo
3


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

việc thực hiện những mục tiêu kinh tế- xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước.
Giáo dục - đào tạo vừa gắn với yêu cầu phát triển đất nước, phù hợp với xu
thế của thời đại - phát triển nền kinh tế tri thức trên phạm vi toàn cầu, thực
hiện giáo dục thường xuyên cho mọi người, hướng tới xây dựng một xã hội
học tập suốt đời.
Phát triển giáo dục chính là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, đào tạo con người có văn hoá, khoa học, có kỹ năng nghề
nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, sống lành
mạnh....
Phát triển nguồn nhân lực(PTNNL) bao gồm cả về số lượng và chất
lượng dân số nhưng hiện nay chất lượng nguồn nhân lực là trọng tâm của
PPNNL nhất là đối với các nước đang phát triển với dân số đông và chất
lượng nguồn nhân lực thấp. Nguồn vốn nhân lực này được tạo ra qua quá
trình đầu tư vào nguồn nhân lực bao gồm đầu tư vào giáo dục và học tập
kinh nghiệm tại nơi làm việc, sức khoẻ và dinh dưỡng. Thực tế đã cho thấy,

lợi ích thu được từ việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực mà cụ thể là thông
qua giáo dục - đào tạo là rất lớn. Trình độ nhân lực trung bình ở một nước
cao hơn cho phép tăng trưởng kinh tế tốt hơn và điều chỉnh tốt hơn đối với
các vấn đề dân số, kế hoạch hoá gia đình, môi trường và nhiều vấn đề khác.
Tuy nhiên giáo dục nhìn từ góc độ PTNNL hẹp hơn so với giáo dục như một
quá trình tồn tại trong xã hội. Giáo dục bản thân nó là một quá trình đa mục
tiêu và đào tạo nguồn nhân lực để cung cấp nguồn lao động có đủ kỹ năng
cho công nghiệp hoá chỉ là một mục tiêu trong số các mục tiêu đó. Không
phải tất cả những gì thu được trong GD- ĐT đều nằm trong khuôn khổ
PTNNL. PTNNL vừa rộng hơn và vừa hẹp hơn quá trình GD- ĐT. Những
kiến thức và kinh nghiệm thu nhận được trong quá trình GD- ĐT và làm việc
không sử dụng cho quá trình sản xuất nằm ngoài phạm vi của PTNNL.
4


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

Những kiến thức và kinh nghiệm này nằm trong một khuôn khổ khác liên
quan tới một khái niệm rộng hơn là phát triển con người. PTNNL là khái
niệm hẹp hơn so với phát triển con người. Phát triển con người nhìn nhận
con người không chỉ từ góc độ là yếu tố đóng góp cho phát triển kinh tế xã
hội mà còn từ khía cạnh thoả mãn và tiếp nhận các nhu cầu phát triển, giải trí
của riêng cá thể đó.
Khoa học- công nghệ trở thành động lực cơ bản của sự phát triển kinh
tế- xã hội. Giáo dục là nền tảng của sự phát triển khoa học- công nghệ, phát
triển nguồn lực đáp ứng nhu cầu của xã hội, tinh thần trách nhiệm và năng
lực của các thế hệ hiện nay và mai sau.
Đổi mới giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu đã tạo nên những
thay đổi sâu sắc trong giáo dục, từ quan niệm về chất lượng giáo dục, xây
dựng nhân cách người học đến cách tổ chức quá trình và hệ thống giáo dục.

Đầu tư cho giáo dục từ chỗ được xem là phúc lợi xã hội chuyển sang đầu tư
cho phát triển
Xã hội tạo điều kiện cho giáo dục phát triển, đồng thời cũng đòi hỏi
giáo dục phải phục vụ đắc lực cho xã hội; Bối cảnh quốc tế và trong nước
vừa tạo thời cơ lớn vừa đặt ra những thách thức không nhỏ cho giáo dục
nước ta. Sự đổi mới và phát triển giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu
tạo cơ hội tốt để giáo dục Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với các xu thế
mới, tri thức mới, những cơ sở lý luận, phương thức tổ chức, nội dung giảng
dạy hiện đại và tận dụng các kinh nghiệp quốc tế để đổi mới và phát triển.
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta ngày càng coi trọng vai trò của giáo
dục, quan tâm nhiều hơn và đòi hỏi giáo dục phải đổi mới và phát triển đáp
ứng nhu cầu ngày càng lớn của mọi tầng lớp nhân dân về học tập và tiếp thu
những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, rèn luyện những phẩm chất, năng lực

5


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

cần thiết trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Giáo dục nước ta phải vượt qua không chỉ những thách thức riêng của
giáo dục Việt Nam mà cả những thách thức chung của giáo dục thế giới.
Một mặt phải khắc phục những yếu kém bất cập, phát triển mạnh mẽ để thu
hẹp khoảng cách với những nền giáo dục tiên tiến cũng đang đổi mới và phát
triển. Mặt khác, phải khắc phục sự mất cân đối giữa yêu cầu phát triển nhanh
quy mô và đòi hỏi gấp rút nâng cao chất lượng; giữa yêu cầu vừa tạo được
chuyển biến cơ bản, toàn diện vừa giữ được sự ổn định tương đối của hệ
thống giáo dục.
Thực tiễn chuyển đổi cơ chế và phát triển kinh tế đòi hỏi giáo dục phải

tiếp cận và thích nghi với cơ chế mới, phải luôn phát triển và đi trước một
bước đón đầu sự phát triển của xã hội.

6


Tỡnh hỡnh huy ng v s dng vn u t phỏt trin giỏo dc o to ti Vit Nam

PHN II
ThựC TRạNG HUY Động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn
đầu t phát triển giáo dục đào tạo tại việt nam
I - C cu ngun vn u t phỏt trin giỏo dc ti Vit Nam thi gian
qua.
1. Cỏc ngun vn u t phỏt trin giỏo dc o to
Giỏo dc- o to ó v ang úng vai trũ ht sc quan trng, l ng
lc thỳc y tng trng, xoỏ úi gim nghốo, m bo cụng bng xó
hi...Chớnh vỡ vy u t phỏt trin giỏo dc o to úng vai trũ ht sc
quan trng i vi s phỏt trin ca t nc núi chung v ca ngnh giỏo
dc núi riờng. Ngun ti chớnh c bn dnh cho giỏo dc- o to nc ta
gm:
- Ngõn sỏch Nh nc (NSNN).
- Cỏc ngun vn ngoi NSNN: thu t hc phớ, phớ, úng gúp xõy dng
nh trng v cỏc úng gúp khỏc, cỏc khon thu t nghiờn cu khoa hc, lao
ng sn xut, lm dch v, cỏc khon úng gúp t nguyn t cỏc t chc
kinh t, xó hi v cỏc nh ho tõm, ngun vn u t t cỏc t chc v cỏc
nhõn cho giỏo dc- o to....
Ta cú th thy c cu ngun vn u t phỏt trin ngnh giỏo dc- o
to th hin bng di õy:

7



Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam
Bảng: Nguồn vốn đầu tư phát triển ngành giáo dục – đào tạo
giai đoạn 2001-2006
Đơn vị: tỷ đồng,%
2001

2002

2003

2004

2005

2006

1. Tổng VĐT (tỷ)

25.882

34.088

37.552

54.223

68.968


78.088

- NSNN

15.337

19.898

22.777

32.819

41.547

46.072

- Các nguồn vốn
ngoài NSNN

10.545

14.190

14.775

21.404

27.421

32.016


2. Tốc độ tăng (%)

-

31,7

10,2

44,4

27.2

13.2

- NSNN

-

29,7

14,5

44

26,6

10.9

- Các nguồn vốn

ngoài NSNN

-

34,6

4,1

4,5

28,1

16.8

(Nguồn: Bộ GD – ĐT và Ngân sách Nhà nước)

Nhìn vào bảng số liệu ta thấy vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo
liên tục tăng qua các năm , nếu như năm 2001 tổng VĐT là 25882 tỷ đồng
thì đến năm 2006 tổng VĐT đã tăng lên tới 78088 tỷ đồng (tăng gấp 3,02 lần
so với năm 2001), thể hiện mức độ quan tâm ngày càng lớn của xã hội dành
cho sự nghiệp giáo dục – đào tạo.

Nhìn chung nguồn vốn đầu tư phát triển ngành giáo dục- đào tạo Việt

8


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

Nam giai đoạn từ 2001-2006: NSNN vẫn chiếm tỷ trọng lớn, chiếm khoảng

60% tổng nguồn vốn đầu tư, các nguồn vốn ngoài NSNN chiếm khoảng
40%. Đây cũng có thể nói là đặc điểm riêng của Việt Nam, trong điều kiện
là một nước kinh tế đang phát triển, đời sống người dân còn nhiều khó khăn
và để đảm bảo mức độ phổ cập cũng như các mục tiêu vĩ mô thì Nhà nước
cần đóng vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục- đào tạo, nhất là
đối với giáo dục mầm non và phổ thông, bài toán đặt ra ở đây là làm thế nào
để sử dụng nguồn vốn này một cách hiệu quả. Tuy nhiên, tỷ lệ trên cũng
phản ánh mức độ bao cấp còn tương đối lớn của NSNN và việc huy động
chưa hiệu quả đối với các nguồn lực khác trong đầu tư phát triển ngành giáo
dục- đào tạo.
1.1.

Nguồn vốn Ngân sách Nhà nước (NSNN).

Giai đoạn 2001-2010, tỷ trọng chi cho giáo dục – đào tạo trong tổng
chi Ngân sách sẽ tăng lên, dự báo đến năm 2010 tỷ lệ chi sẽ không dưới
20%. Cũng theo Luật giáo dục năm 2005, Nhà nước dành ưu tiên hàng đầu
cho việc bố trí ngân sách giáo dục, đảm bảo tốc độ tăng chi NSNN cho giáo
dục – đào tạo cao hơn tốc độ tăng NSNN hàng năm.
Cùng với việc tăng NSNN, việc phân cấp quản lý Ngân sách giáo dục
cũng đang được cải tiến từng bước. Các biện pháp nhằm cải tiến cơ chế phân
bổ và điều hành ngân sách nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách giáo
dục – đào tạo cũng đang được xúc tiến. NSNN được tập trung chủ yếu cho
các bậc giáo dục phổ cập với mục đích đầu tư cải tạo, nâng cấp và mở rộng
các cơ sở giáo dục và đào tạo. Thực hiện từng bước kiên cố hoá các trường
học, quan tâm nhiều hơn cho các vùng khó khăn và thường xuyên xảy ra
thiên tai, trong đó chú trọng đến đảm bảo đủ trường, lớp học từ nhà trẻ, mẫu
giáo đến các trường phổ thông trung học cho vùng đồng bào dân tộc thiểu
9



Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

số, miền núi, vùng sâu, vùng xa. Hiện đại hoá một số trường dạy nghề, tăng
nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội.... Tập trung
đầu tư cho một số trường đại học trọng điểm, ưu tiên kinh phí cho việc đào
tạo cán bộ khoa học, kỹ thuật ở nước ngoài. Dành kinh phí để đào tạo cán bộ
trình độ cao cho công nghệ thông tin, đào tạo nhân tài, cán bộ cho những
ngành kinh tế mũi nhọn, cho đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, NSNN
cũng dành để đầu tư đổi mới nội dung, chương trình giáo dục, chất lượng
giáo dục, cung cấp đủ đồ dùng học tập và giảng dạy cho các trường tiểu học
và trung học cơ sở, phát triển các cơ sở đào tạo giáo viên, đảm bảo cả về số
lượng cũng như chất lượng giáo viên dạy học cho các trường phổ thông. Để
cụ thể hơn về cơ cấu chi của NSNN cho hoạt động giáo dục – đào tạo qua
các năm ta có thể xem xét bảng dưới đây:
2001

2002

2003

2004

2005

2006

1. Tổng chi NSNN cho GD - ĐT

15.337


19.898

22.777

32.819

41.547

46.072

- Tốc độ tăng
1.1. Chi thường xuyên

10.816

29,7
14.128

14,5
18.625

44,1
25.927

26,6
32.406

10,9
36.367


-

30,6

31,8

39,2

24,9

12,2

- Tỷ trọng so với tổng NSNN

70,5

71,0

81,7

79,0

78,0

78,9

1.2. Chi đầu tư

4.521


5.770

4.152

6.892

9.141

9.705

-

27,6

-28

65,9

32,6

16,2

29,5

29

18,3

21


22

21,1

- Tốc độ tăng

- Tốc độ tăng
- Tỷ trọng so với tổng NSNN

(Nguồn: Ngân sách Nhà nước)

Chi NSNN cho hoạt động giáo dục – đào tạo liên tục tăng qua các
năm, nếu như năm 2001 là 15.337 tỷ đồng thì đến năm 2006 là 46.072 tỷ
đồng (tăng gấp 3 lần) - tốc độ tăng là tương đối cao. Mặc dù nền kinh tế
nước ta còn kém phát triển, NSNN còn rất eo hẹp, song Ngân sách chi cho
giáo dục – đào tạo qua các năm đều tăng. Nếu như tỷ lệ phần trăm NSNN

10


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

chi cho giáo dục năm 1998 chiếm 13,7 tổng chi NSNN thì đến năm 2005, tỷ
lệ này đã lên tới 18%, như vậy tốc độ tăng bình quân về tỷ lệ Ngân sách
hàng năm khoảng 0,56%/năm. Tuy nhiên tỷ lệ chi Ngân sách hàng năm tuy
tăng song nếu tính đến các yếu tố như tỷ lệ trượt giá của đồng tiền và tốc độ
tăng học sinh quá nhanh kéo theo sự tăng lên số giáo viên, cán bộ quản lý thì
tốc độ tăng Ngân sách đã không theo kịp tốc độ phát triển giáo dục.
Nhìn vào bảng cơ cấu vốn cho đầu tư phát triển GD – ĐT ta thấy,

Ngân sách chi cho hoạt động giáo dục – đào tạo ta thấy chi thường xuyên
chiếm từ 70-80% Ngân sách, chi đầu tư chiếm từ 20-30% Ngân sách. Ta có
thể xem xét cụ thể cơ cấu chi NSNN bình quân cho hoạt động giáo dục –
đào tạo qua biểu đồ sau:

Chi thường xuyên ở đây gồm 4 nhóm: Nhóm 1: chi cho con người
gồm chi lương và phụ cấp lương cho giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục,
nhân viên phục vụ; Nhóm 2: chi cho công tác hành chính quản lý; Nhóm 3:
chi phí phục vụ giảng dạy học tập; Nhóm 4: Chi mua sắm sửa chữa nhỏ.
Đứng trên góc độ tổng thể thì đây là một con số tương đối hợp lý. Tuy vậy,
qua công tác giám sát cho thấy, hiện nay tỷ lệ này ở nhiều địa phương

11


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

thường chi lương chiếm từ 85-95%; chỉ còn khoảng 5-10% chi công tác
quản lý hành chính và các hoạt động giáo dục. Như vậy, tỷ lệ chi cho công
tác dạy và học là rất nhỏ bé. Ở một số nước phát triển như Anh, Pháp cơ cấu
chi cho giáo dục với tỷ lệ chi cho lương và cho các hoạt động giáo dục là: Ở
Tiểu học 90/10; Trung học cơ sở 60/40; Trung học phổ thông 50/50 (50%
chi lương và 50% chi cho các hoạt động giáo dục). Qua đó cho thấy chi
Ngân sách Nhà nước cũng cần có những điều chỉnh cơ cấu và mức tăng hợp
lý để phù hợp với tốc độ phát triển giáo dục.
1.2. Nguồn vốn ngoài NSNN.
Có thể nói nguồn vốn ngoài NSNN có vai trò ngày càng quan trọng
đối với sự phát triển của ngành giáo dục – đào tạo, chính vì vậy việc huy
động cao hơn nữa các nguồn tài chính ngoài NSNN đầu tư cho giáo dục
gồm: học phí, phí, đóng góp xây dựng trường và các đóng góp khác, các

khoản thu từ nghiên cứu khoa học, lao động sản xuất, làm dịch vụ, các
khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức kinh tế, xã hội, các nhà hảo tâm,
đầu tư của các doanh nghiệp cho giáo dục – đào tạo.
Bên cạnh nguồn vốn ngân sách nhà nước thì nhà nước cũng khuyến
khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân đầu tư, đóng góp trí tuệ , công sức,
tiên của cho giáo dục. Ngoài ra học phí, lệ phí tuyển sinh cũng là một nguồn
đầu tư vô cùng quan trọng của giáo dục. Học phi, lệ phí tuyển sinh là khoản
tiền của gia đình người học hoặc người học phải nộp để góp phần bảo đảm
chi phí cho các hoạt động giáo dục. Học sinh tiểu học trường công lập không
phải đóng học phí. Ngoài học phí và lệ phí tuyển sinh, người học hoặc gia
đình người học không phải đóng góp khoản tiền nào khác.
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, thu hút
đầu tư từ các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Theo ước tính, từ năm
12


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

1990 đến nay, tổng giá trị đóng góp của các doanh nghiệp và nhà hảo tâm
cho ngành giáo dục lên tới trên 1.200 tỉ đồng và khoảng 1,5 triệu m2 đất.
Bên cạnh đó, trong xu hướng hội nhập quốc tế hiện nay nước ta ngày
càng mở rộng hợp tác với các nước trên thế giới trên tất cả các lĩnh vực,
trong đó có cả lĩnh vực giáo dục đào tạo. Hầu hết nguồn vốn này đến từ các
nước dưới hình thức hỗ trợ, cho vay chứ rất ít có ở dạng đầu tư trực tiếp
nước ngoài, điều này chứng tỏ thị trường giáo dục ở nước ta chưa hấp dẫn
được các nhà đầu tư. Trong khi đó thì tại rất nhiều các công ty tư vấn giới
thiệu du học nước ngoài, cùng với rất nhiều các cuộc hội thảo du học do các
trường, các trung tâm tổ chức.
Tóm lại, xét trên phạm vi cả nước và trong toàn bộ hệ thống GD-ĐT,
các trường công lập đang đào tạo khoảng 86,27% tổng số HS, SV. Tổng chi

của Nhà nước cho GD-ĐT chiếm 75% tổng chi xã hội cho GD-ĐT, 13,73%
tổng số HS, SV đang học trong các trường ngoài công lập, tổng đóng góp
của người dân chiếm 25% tổng chi cho GD- ĐT.
Bắt đầu từ năm học 2007-2008, HS học nghề, SV CĐ-ĐH có hoàn cảnh
khó khăn được vay vốn để học với quy mô lớn. Điều này sẽ hỗ trợ học sinh
thông qua đó giảm mức đóng góp của gia đình có hoàn cảnh khó khăn cho
học tập giảm như vậy sẽ đảm bảo được cuộc sống cho bộ phận dân cư này.
Nguồn vốn ngoài ngân sách bao gồm:
a) Nguồn vốn trong nước: Gồm các khoản đóng góp của gia đình và
học sinh cho việc học tập. Theo các kết quả nghiên cứu về chi phí của cha
mẹ học sinh ở các cấp bậc học cho thấy phần đóng góp của dân tính trên đầu
một học sinh so với tổng chi phí chiếm 44,5% ở bậc tiểu học; 48,7% ở cấp
trung học cơ sở; 51,5% ở cấp trung học phổ thông; 62,1% ở dạy nghề;
32,2% ở trung học chuyên nghiệp và 30,7% ở bậc đại học và cao đẳng. Bên

13


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

cạnh đó các khoản thu khác cũng chiếm một vai trò khá quan trọng và đang
nâng dần tỷ trọng, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp. Các
doanh nghiệp hiện nay có nhu cầu rất cao về nguồn nhân lực, đặc biệt là
nguồn nhân lực chất lượng cao. Chính vì vậy, doanh nghiệp hiện nay không
những đóng vai trò là khách hàng của ngành giáo dục mà còn trực tiếp tham
gia vào công cuộc giáo dục. Điển hình là một số doanh nghiệp tự mở trường
đào tạo nghề, hay hình thức liên kết giữa nhà trường và doanh nghiệp để đào
tạo nhân lực theo yêu cầu của doanh nghiệp.
b) Nguồn vốn nước ngoài: Bao gồm nguồn viện trợ, vay nợ (ODA),
các khoản đầu tư trực tiếp của tổ chức và cá nhân nước ngoài cho phát triển

giáo dục – đào tạo. Trong điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn thì việc
huy động nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước nói chung và phát triển
ngành giáo dục – đào tạo nói riêng là hết sức cần thiết. Chính vì vậy, Nhà
nước ta có chủ trương ưu tiên nguồn vay và hợp tác quốc tế dành cho giáo
dục thông qua các dự án của Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát
triển châu Á (ADB) và các tổ chức quốc tế, các tổ chức chính phủ, phi chính
phủ nước ngoài. Để mở rộng hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế, các
cá nhân nước ngoài và Việt kiều nhằm khai thác mọi tiềm năng bên ngoài để
phát triển giáo dục. Dự báo nguồn viện trợ và vay nợ trong giai đoạn 20012010 chiếm khoảng 20% trong tổng chi NSNN cho giáo dục – đào tạo.
Bên cạnh vai trò quan trọng của nguồn viện trợ và vay nợ (ODA) thì
các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài vào giáo dục – đào tạo đang dần phát
huy tác dụng. Theo như cam kết gia nhập WTO, Việt Nam sẽ chấp nhận thị
trường giáo dục, trước hết là đối với giáo dục đại học và dạy nghề. Luật giáo
dục 2005 cũng nêu rõ các nhà đầu tư nước ngoài trong điều kiện cho phép có
thể được thành lập trường 100% vốn nước ngoài, cũng như chấp nhận các

14


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

hình thức liên doanh, liên kết trong hoạt động giáo dục – đào tạo. Điều này
vừa tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo, vừa tạo ra
mội trường cạnh tranh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo ở nước
ta hiện nay.
Dự báo khả năng huy động ngoài NSNN cho giáo dục và đào tạo:

Tổng nguồn ngoài NSNN chi cho giáo dục – đào tạo (tỷ

2000


2005

2010

5.749

12.880

24.577

3.149

5.855

13.234

1.400

4.685

7.562

1.200

2.340

3.781

đồng, giá năm 2000)

1. Huy động từ dân đóng góp (năm 2005 chiếm 25%, năm
2010 chiếm 35% so với tổng chi NSNN cho giáo dục – đào
tạo)
2. Viện trợ, vay nợ (ODA), (khoảng 20% trong tổng chi
NSNN cho giáo dục – đào tạo)
3. Từ các nguồn khác (các doanh nghiệp đóng góp, dịch vụ
của nhà trường,...)
(khoảng 10% so với tổng chi NSNN cho giáo dục và đào tạo)

2. Thực trạng sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo thời
gian qua.
Trong thời gian qua, Nhà nước đã rất chú trọng quan tâm tới việc đầu tư phát
triển giáo dục đào tạo. Và trong quá trình phát triển đất nước thì đầu tư phát
triển giáo dục luôn được coi là quốc sách hàng đầu. Chính vì vậy, thời gian
qua nguồn vốn đầu tư cho phát triển giáo dục ngày càng tăng nhanh và đa
dạng. Sự tăng cường đầu tư mạnh mẽ này góp phần phát triển nền giáo dục
nước nhà cả về quy mô và chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu đạt được thì tình hình sử dụng nguồn vốn đầu tư giáo dục kém
hiệu quả vẫn còn nhiều giáo dục. Có khi nguồn vốn đầu tư nhiều lại không
kém hiệu quả lại có những nơi rất cần nguồn vốn đầu tư phát triển giáo dục

15


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

lại không có. Sau đây là những phân tích về tình hình sử dụng nguồn vốn
đầy tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam trong thời gian qua.
Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển GD-ĐT
Năm


2001

2002

2003

2004

2005

2006

VĐT toàn XH(tỷ đồng)

163.5

180.4

217.6

258.7

324

388.2

VĐT cho GD-ĐT( tỷ đồng)
Tỷ trọng VĐT cho GD-ĐT
trên VĐT toàn XH(%)


25.882

34.088

37.552

54.223

75.2

15.83%

18.90%

17.26%

20.96%

68.968
21.29
%

19.37%

(Nguồn: www.mof.gov.vn và Bộ GD-ĐT)

Qua bảng trên ta thấy rằng vốn đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo
cùng với tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên không ngừng thì nguông vốn
dành cho giáo dục và đào tạo cũng tăng lên, năm sau cao hơn năm trước.

Trong năm 2001 tổng vốn đầu tư toàn xã hội chỉ là 163.500 tỷ đồng, tỷ trọng
vốn đầu tư cho GD- ĐT là 15,83% thì đến 2006 tỷ trọng này đã tăng lên
là19.37% đỉnh điểm là năm 2005 là 21,29%, điều này cho thấy cùng với sự
phát triển của nên kinh tế việc đầu tư cho GD-ĐT trong những năm qua
tăng.
2.1. Tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển GD-ĐT theo cấp học,
bậc học.
Hệ thống giáo dục và đào tạo ở Việt Nam có 4 cấp bậc học chính là:
giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục trung học chuyên nghiệp,
giáo dục cho cao đẳng , đại học.

16


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

Bảng: Chi ngân sách nhà nước cho GD-ĐT giai đoạn 2001-2007
đơn vị: tỷ đồng

Năm

2001

2002

2003

2004

2005


2006

2007

(Nguồn: www.moet.gov.vn)

Qua bảng trên ta thấy rằng qua 7 năm thì theo từng cấp học, bậc học có
sự gia tăng đáng kể về nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. Nếu như năm
2001 chi ngân sách nhà nước cho đại học cao đẳng là 75 tỷ đồng một con số
khá khiêm tốn nhưng đến năm 2007 là 297 tỷ đồng . Bên cạnh đó thì nguồn
vốn ngoài ngân sách dành cho các cấp học cũng gia tăng. Điều này ta sẽ thấy
ở bảng số liệu sau:
Bảng: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển GD-ĐT theo cấp học, bậc học giai
đoạn 2001-2005
Đơn vị: %
Năm
Tổng VĐT
VĐT cho

2001
100

2002
100

2003
100

2004

100

2005
100

mầm non
VĐT cho GD phổ

10

11,5

11,7

11,9

12,4

thông

81
1,2
7,8

80
1,3
7,2

80
1,2

7,1

79,6
1,3
7,2

79
1,5
7,2

GD

VĐT cho THCN
VĐT cho CĐ-ĐH

(Nguồn Vụ kế hoạch- tài chính, Bộ GD- ĐT)

Nhìn vào bảng trên ta thấy rằng tỷ trọng vốn đầu tư phát triển giáo dục
và đào tạo ở cấp phổ thông chiếm vị trí cao hơn cả trung bình chiếm gần
80% tổng vốn đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo. Còn vốn đầu tư phát

17


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

triển giáo dục và đào tạo ở bậc trung học chuyên nghiệp chiếm vị trí thấp
nhất trung bình chỉ khoảng 1,3% trong tổng vốn đầu tư phát triển. Như vậy
cơ cấu vốn đầu tư cho các cấp học, bậc học phần nào cũng tương xứng với
quy mô của từng cấp học và bậc học đó trong hệ thống giáo dục quốc dân.

2.2. Tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển GD- ĐT phân theo
vùng lãnh thổ.
Một thực tế rằng vốn đầu tư cho các vùng đô thị và đồng bằng bao giờ
cũng cao hơn so với các vùng núi, vùng sâu vùng xa như hải đảo, tuy nhiên
định mức chi phân bổ theo dân số cho các vùng lại có tính chất đảo ngược.
Quyết định số 139/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ quyết định
tiêu chí phân bổ ngân sách chủ yếu theo dân số, vì dân số nhiều thì nhu cầu
chi lớn và ngược lạ. Ngoài ra, việc phân bổ ngân sách còn căn cứ chi phí cho
cùng một công việc giữa các vùng khác nhau do khoảng cách đi lại, địa hình,
một độ, dân số, quy mô lớp học,..., kinh phí để thực hiện những chính sách
ưu đãi của Nhà nước. Trong thời gian qua Chính phủ đã đầu tư hỗ trợ phát
triển GD-ĐT ở các địa bàn khó khăn và đặc biệt khó khăn. Hiện nay hệ
thống các trường phổ thông nội trú và bán trú được củng cố và mở rộng với
13 trường trung ương, 50 trường tỉnh, 266 trường huyện, 519 trường bán trú
xã, cụm xã. Tình hình thiết bị, thư viện trong các trường cũng đang có sự
chuyển biến tích cực không chỉ ở các địa phương lớn như TP.HCM, Hà Nội
đã bước đầu hiện đại hoá cơ sở vật chất trường học, trang bị các thiết bị mà
các trường phổ thông dân tộc nội trú đã được nâng cấp, cải thiện về phòng
học, thư viện, trang thiết bị.

18


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

2.3. Tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển GD- ĐT theo hình thức
triển khai thực hiện.
a.Tình hình sử dụng VĐT phát triển cho GD- ĐT theo chương trình
mục tiêu quốc gia về GD- ĐT.
 Mục tiêu của chương trình.

- Tạo bước chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, đưa nền giáo
dục nước ta thoát khỏi tình trạng tụt hậu so với các nước phát triển trong khu
vực, tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới, phù hợp với thực tiễn Việt
nam, phục vụ thiết thực cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, của
từng vùng , từng địa phương
- Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp, chương trình giáo dục các
cấp học, bậc học và trình độ đào tạo, phát triển đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu
cầu vừa tăng quy mô, vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.
- Nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực, đặc biệt chú trọng nhân lực
khoa học- công nghệ trình độ cao, cán bộ quản lý, kinh doanh giỏi và công
nhân kỹ thuật lành nghề trực tiếp góp phần nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế; đẩy nhanh tiến độ thực hiện phổ cập trung học cơ sở.
 Nội dung của các chương trình mục tiêu:
Trong 10 năm qua, Chính phủ đã phê duyệt các chương trình mục tiêu
5 năm cho ngành giáo dục nhằm hỗ trợ thực hiện các chủ trương lớn như:
thực hiện phổ cập giáo dục, đổi mới chương trình giáo dục phổ thông, hỗ trợ
giáo dục vùng dân tộc thiểu số, tăng cường cơ sở vật chất cho hệ thống
trường sư phạm và bồi dưỡng giáo viên, tăng cường cơ sở vật chất các
trường học, trung tâm kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp, các trường đại
học và THCN trọng điểm, tăng cường năng lực đào tạo nghề, tăng cường
đào tạo và ứng dụng công nghệ thông tin trong trường học. Nhìn chung việc

19


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

thực hiện các chương trình đã được chỉ đạo tốt, đạt được hiệu quả cao với
những tác động rất tích cực. Chương trình có 7 dự án lớn.
 Tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển cho các chương trình mục

tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo
Các nguồn vốn huy động được để thực hiện chương trình mục tiêu quốc
gia về giáo dục bao gồm
- Nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước
- Nguồn kinh phí từ ngân sách địa phương và từ đóng góp của các tổ
chức và cá nhân đã chi cho các dự án
- Nguồn kinh phí từ vay nợ và viện trợ nước ngoài
Vốn và cơ cấu nguồn vốn thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia
về giáo dục và đào tạo giai đoạn 2001 và 2005 thì tỷ trọng chủ yếu ở nguồn
vốn ngân sách nhà nước là 73,3%, tiếp sau là ngân sách địa phương là
17,95% và cuối cùng là nguồn viện trợ và vay nợ là 8,75%. Nền kinh tế Việt
Nam đang trên đà tăng trưởng đặc biệt cùng với tốc độ tăng trưởng thì thu
ngân sách nhà nước cũng gia tăng.
Bảng: Kinh phí cho các CTMT về GD- ĐT trong tổng kinh phí cho
các CTMT quốc gia
Năm
Tổng số chi các CTMT(tỷ

2002

2003

2004

2005

2006

2007


đồng)
3015
Chương trình GD-ĐT (tỷ

3338

3515

4391

6205

6788

đồng)
Tỷ trọng vốn chi cho CTMT

990
29.66

1299
36.96

1770
40.31

2970
47.86

3380

49.79

%

%

%

về GD-ĐT(%)

720

23.88% %
%
(Nguồn www.mof.gov.vn)

Qua bảng trên ta thấy rằng kinh phí của ngân sách nhà nước chi cho các
chương trinh mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo là năm sau cao hơn

20


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

năm trước cụ thể: năm 2002 là 720 tỷ đổng chiếm 23,88% tổng kinh phí cho
các chương trình mục tiêu của quốc gia, đến năm 2007 là 3380 tỷ đồng
chiếm 49.79%. Tuy vậy kinh phí này mới chỉ đáp ứng được từ 60% đến 70%
nhu cầu của ngành giáo dục và đào tạo. Để cụ thể hơn chúng ta xem xét
bảng sau:
Bảng: Chi ngân sách nhà nước cho GD- ĐT trong giai đoạn 2001-2007

Năm
2001
Tổng số (tỷ đồng)
15609
Chi cho xây dựng cơ

2002
20624

2003
22795

2004
32730

2005
41630

2006
55300

2007
66770

bản (tỷ đồng)
2360
Chi thường xuyên cho

3008


3200

4900

6623

9705

11530

GD-ĐT (tỷ đồng)
12649
Kinh phí CTMT cho

16906

18625

27830

35007

45595

55240

GD-ĐT ( tỷ đồng)
600
Tỷ trọng chi cho


720

990

1299

1770

2970

3380

CTMT(%)

3.44%

4.26%

3.84%

3.82% 4.25%
5.37%
( Nguồn : www.moet.gov.vn)

5.06%

Trên bảng trên cho ta thấy rằng trong tổng vốn chi cho giáo dục và đào
tạo từ ngân sách nhà nước tăng theo các năm cụ thể năm 2001 là 15609 tỷ
đồng thì đến 2007 là 66770 tỷ đồng , cùng với xu hướng tăng đó thì kinh phí
chi cho các CTMT về Giáo dục và đào tạo cũng có chiều hướng gia tăng

năm sau lớn hơn nay trước. Tuy nhiên tỷ lệ này cũng chỉ chiếm một phần tỷ
trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn ngân sách nhà nước chi cho giáo dục và
đào tạo , để lý giải cho điều này có thể do ngân sách nhà nước chỉ có hạn và
việc giải ngân cho các chương trình mục tiêu chậm vì nó đòi hỏi vốn dài và
tuỳ thuộc vào tiến độ của các dự án trong chương trình và mức độ quan
trọng và cấp thiết của các công trình.
Bởi vậy ngoài nguồn vốn từ Ngân sách điạ phương và huy động từ dân
cư và các tổ chức đóng góp một phần quan trọng cho Chương trình mục tiêu
quốc gia giáo dục và đào tạo, với nguồn vốn này tăng theo các năm và thông

21


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

thường ngân sách địa phương chiếm tỷ lệ khoảng 30% trong tổng số vốn
ngân sách nhà nước . Điều này cho thấy sự chủ động và nỗ lực của các địa
phương để giảm bớt gánh nặng ngân sách của nhà nước với mục tiêu nâng
cao chất lượng giáo dục và đào tạo phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế- xã
hội của đất nước.
Vốn vay nợ và viện trợ nước ngoài cũng là một nguồn quan trọng để
góp phần thúc đẩy việc thực hiện các dự án giáo dục nâng cao chất lượng
giáo dục và đào tạo của đất nước. Các dự án tiêu biểu như sau:
- Dự án phát triển giáo dục tiểu học do World Bank tài trợ
- Dự án phát triển giáo dục trung học cơ sở do ADB tài trợ
- Dự án đào tạo giáo viên do ADB tài trợ
- Dự án phát triển giáo dục trung học phổ thông do ADB tài trợ
b. Tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển GD-DT không thuộc
Chương trình mục tiêu quốc gia
Các chương trình về GD-ĐT ngoài chương trình mục tiêu là các

chương trình và đề án để phát triển đội ngũ giáo viên và tăng cường cơ sở
vật chất để đáp ứng nhu cầu vùa tăng quy mô vừa nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục.
 Phát triển đội ngũ giáo viên.
Để đảm bảo chất lượng dạy và học luôn là coi là vấn đề cốt lõi trong
các mục tiêu phát triển của các địa phương nói riêng và các chiến lược phát
triển của chính phủ nói chung. Để làm được điều này cần phải có một đội
ngũ giáo viên có chất lượng cao, vì lẽ đó mà vấn đề đầu tư để bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên là một vấn đề luôn được quan tâm hàng đầu đối với sụ nghiệp
giáo dục và đào tạo. Trong giai đoạn 2001 đến 2005 thì vốn đầu tư phát triển
để bồi dưỡng đội ngũ giáo viên chiếm tới gần 60% tổng chi đầu tư phát
triển cho giáo dục và đào tạo ngoài chương trình mục tiêu quốc gia.
22


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam

Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên đồng thời cả chất lượng
của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục được đặt ra như một thách thức nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
 Tăng cường cơ sở vật chất,kỹ thuật cho nhà trường.
Trong những năm học vừa qua các trường lớp của Việt Nam đã và đang
đạt chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn về hạ tầng cơ sở đảm bảo cho việc dạy và học
có chất lượng tương đương với các nước khác trong khu vực. Vì vậy mà
trong những năm qua vốn đầu tư chi cho mục tiêu tăng cường cơ sở vật
chất, kỹ thuật chiếm một phần quan trọng trong tổng vốn đầu tư cho giáo
dục.
Bảng: VĐT cho tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật GD-ĐT
Đơn vị: tỷ đồng
Năm

VĐT

2001
phát

triển

không

2002

2003
36.234,

2004
52.562,

2005
66.659,

32.749

4
14.833,

7
21.834,

3
27.575,


thuộc

CTMTvề GD-ĐT
24.969,6
VĐT cho CSVCKT Giáo dục và
đào tạo

10.315,6 13.386 4
7
(Nguồn vụ kế hoach- tài chính, Bộ GD-ĐT)

3

Thông qua bảng trên cho chúng ta thấy rằng cùng với sự gia tăng về
vốn đầu tư phát triển chung của cả ngành giáo dục và đào tạo thì đầu tư phát
triển cơ sở vật chất kỹ thuật cũng không ngừng tăng lên năm sau cao hơn
năm trước và năm 2004 thì đánh dấu sự gia tăng vượt bậc là 21.534,7 tỷ
đồng chiếm đến 41,5%, tốc độ tăng là 47,2%. Cơ sở vật chất kỹ thuật cho
GD-ĐT ngày càng tăng cùng với nó là số lượng trường học ở các cấp học
ngày càng tăng lên ta sẽ thấy qua bảng sau.
Bảng: Tổng số trường học phân theo cấp bậc giai đoạn
2000-2007
Đơn vị: số trường
Năm

2000-

2001-


2002-

2003-

23

2004-

2005-

2006-


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam
2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

9641


9448

9715

10104

10453

11009

11509

thông
Trung học

24675

25264

25811

26359

26817

27231

27595

CN


253

252

268

286

285

284

269

ĐH-CĐ

178

191

202

214

230

255

322


GD
non
GD

mầm
phổ

(Nguồn : www.moet.gov.vn)

.

Mặc dù tình trạng cơ sở vật chất đã được đầu tư có những tiến bộ song
nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu.
Ở bậc giáo dục mầm non và phổ thông, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia
tính chung còn thấp. Phần lớn các trường đều chưa có phòng học bộ môn,
phòng bảo quản thiết bị, nhất là các vùng núi, nông thôn.
Ở bậc giáo dục nghề nghiệp và đại học, việc tăng cường cơ sở vật chất
không tương ứng vởi tốc độ tăng quy mô đào tạo của các trường. Phấn kinh
phí ngoài ngân sách do các trường tự tạo ra để đầu tư cho việc này cũng rất
hạn hẹp. Diện tích sử dụng trong các trường mới chỉ đạt 1/3 diện tích chuẩn
quy định. Một số trường trọng điểm tuy có vốn đầu tư nhưng tốc độ xây
dựng còn chậm. Việc chuẩn hoá, hiện đại hoá trường sở, giảng đường,
phòng thí nghiệm, trung tâm thông tin thư viên, ký túc xá sinh viên, nhà tập
luyện... vẫn đang là một thách thức lớn.

24


Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo tại Việt Nam


II - Định hướng đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo và những mục tiêu
đề ra cho nền giáo dục Việt Nam.
1. Định hướng đầu tư phát triển giáo dục – đào tạo
Xu hướng đầu tư phát triển ngành giáo dục đào tạo ở Việt Nam
đang đi dần vào quỹ đạo chung của thế giới, bên cạnh đó dựa trên cơ sở
điều kiện thực tiễn của Việt Nam để có những bước phát triển và đầu tư
thích hợp, phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế. Ta có thể tham
khảo bảng dưới đây:
Bảng: Đặc trưng chủ yếu của 3 giai đoạn kinh tế
Đặc trưng

1.Tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học.
2. Tỷ lệ kinh phí dành cho nghiên cứu khoa học trên
GDP.
3. Tỷ lệ đóng góp của khoa học và công nghệ cho tăng
trưởng kinh tế.
4. Tầm quan trọng của giáo dục.
5. Tỷ lệ kinh phí dành cho giáo dục trên GDP.

I
Kinh tế sức

II
Kinh tế tài

III
Kinh tế tri

người

nhỏ

nguyên
lớn

thức
rất lớn

<3%

1-2%

>3%

<10%

>40%

>80%

nhỏ
<1%

lớn

rất lớn

2-3%

6-8%

trung học

trung học

chuyên

tỷ lệ mù chữ

6. Bình quân trình độ văn hoá.

cao

nghiệp

Thực tiễn cho thấy những nước có trình độ vốn nhân lực cao thường
có mức tăng trưởng cao. Tuy nhiên, đằng sau các mức vốn nhân lực cao là
các chính sách đầu tư tích cực và giải pháp phát triển giáo dục hợp lý. Ở cấp
độ các nước riêng lẻ, Nhật Bản và Hàn Quốc là những dẫn chứng tốt về sự
đóng góp của giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế. Công dân và người dân
Hàn Quốc được đào tạo tốt, đồng đều nhờ tỷ lệ đi học cao ở tất cả các bậc
học. Ngày nay, hầu như tất cả người trẻ tuổi Hàn Quốc tham gia thị trường
lao động đã học ở trường không ít hơn 12 năm. Cùng với tăng trưởng kinh
tế, giáo dục được mở rộng ở mọi cấp bậc học và giáo dục sau trung học trở
25


×