Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở việt nam và sự vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.14 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

..............................................................

ĐỖ THỊ HẢO

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỤC TIÊU, ĐỘNG LỰC CỦA
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: CNXHKH
Mã số: 60220308

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Phạm Ngọc Anh

Hà nội - 2015


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu ....................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn ........................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 4
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu ..................................................... 5
6. Đóng góp của luận văn ..................................................................................... 5
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn ...................................................... 5
8. Kết cấu của luận văn ........................................................................................ 5
B. NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỤC TIÊU, ĐỘNG LỰC CỦA


CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ............................................................... 6
1.1. Cơ sở lí luận, thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu,
động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ........................................................ 6
1.1.1. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về mục tiêu, động lực
của chủ nghĩa xã hội ............................................................................................. 6
1.1.2. Tình hình thực tiễn ở Việt Nam và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và Đông Âu ................................................................................. 12
1.1.2.1. Tình hình thực tiễn ở Việt Nam ............................................................ 12
1.1.2.2. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu ........... 17
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam .................................................................................................... 19
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ........ 19
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về động lực của chủ nghĩa xã hội ................... 26
Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỤC TIÊU,
ĐỘNG LỰC CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI
MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY ......................................................................... 47
2.1 - Sự cần thiết phải tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu,
động lực của chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. ......................................... 47
2.1.1.Tác động của tình hình trên thế giới ....................................................... 47


2.1.2 Đối với nước ta........................................................................................... 49
2.2. Quá trình Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xác
định mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở nước ta ............................................ 53
2.3 Đánh giá quá trình hiện thực hóa nhận thức lý luận của Đảng ta trong
việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để xác định mục tiêu, động lực của chủ
nghĩa xã hội. ........................................................................................................ 66
2.4. Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xác định mục tiêu
và động lực của chủ nghĩa xã hội hiện nay ...................................................... 72
C. KẾT LUẬN .................................................................................................... 81

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 85


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh không chỉ là một vị anh hùng giải phóng dân tộc mà còn là
danh nhân văn hóa kiệt xuất của nhân loại. Xuất phát từ hoàn cảnh lịch sử cụ thể
của Việt Nam và với phương pháp tiếp cận đúng đắn, khoa học, Người đã có
nhiều luận điểm sáng tạo góp phần làm phong phú lý luận của chủ nghĩa Mác –
Nin, đặc biệt là trong cách tiếp cận tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt
phải kể đến là tư tưởng của Người về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam mà cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Người xác định: mục tiêu căn
bản, bao trùm của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội. Việc xác định mục tiêu bao trùm trên đã được thực tiễn cách mạng Việt
nam hơn 70 năm qua chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. Đó cũng chính là bài
học xuyên suốt toàn bộ quá trình của cách mạng nước ta.
Bên cạnh đó, Người còn đưa ra mục tiêu trực tiếp, cấp bách của chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam là: “ Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao
động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và
sống một đời hạnh phúc”[30;415]. Để đạt được các mục tiêu đó, theo Người, cần
phải khai thác mọi tiềm năng của dân tộc, của quốc tế, biết khéo léo sử dụng tổng
hợp sức mạnh của dân tộc, của thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thấm nhuần tư tưởng của Người, cho đến nay, sức sống của tư tưởng trên
vẫn đang được thể hiện trong các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
qua các kì Đại hội và đang đi vào cuộc sống của mọi người dân.
Tuy nhiên, quá trình đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội không hề đơn giản,
con đường đi tới chủ nghĩa xã hội không bằng phẳng, trơn tru, không ít khó khăn,

thậm chí còn mắc phải những sai lầm, thất bại. Đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng
và sụp đổ chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, các thế lực thù
địch, cơ hội trong và ngoài nước vẫn luôn tìm mọi cách tấn công vào các nước đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa còn lại, tấn công vào hệ tư tưởng Mác – Lênin,

1


trong đó có Việt Nam. Các thế lực thù địch đòi chúng ta phải từ bỏ con đường xã
hội chủ nghĩa mà Đảng, Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn để đi theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Nhưng với sự kiên định của mình, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam vững bước tiến lên trên con đường đã chọn.
Sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong suốt 30 năm
qua đã khẳng định điều ấy.
Mặt khác, hiện nay, tình hình trong nước và quốc tế có nhiều diễn biến
phức tạp, bên cạnh những thuận lợi do tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế đem
lại, đất nước ta cũng gặp nhiều khó khăn, thách thức trên con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Trước tình hình đó, đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải kiên trì mục
tiêu xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn. Đặc
biệt, trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần phải biết phát huy nội lực của dân tộc
kết hợp với ngoại lực để góp phần đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thử thách
để đi đến mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam và sự vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay” đã góp
phần làm sáng tỏ nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và thấy được sự vận dụng linh hoạt tư tưởng đó của
Đảng ta vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở nước ta, việc nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh được tiến hành từ
rất sớm, nhưng nghiên cứu tư tưởng của Người một cách toàn diện và có hệ

thống thì chủ yếu mới được đặt ra từ sau Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ VII (1991). Trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là
tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là
một trong những vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Hiện nay, đã có
một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này:
Các công trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam như:
1 - Tìm hiểu tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. TS. Vũ Viết Mỹ đã trình bày quá trình hình thành và

2


phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong đó, tác giả đã làm nổi bật bản chất,
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra nội dung tư tưởng
của Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực và các điều kiện để phát huy động lực
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2 - Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. GS.TS Mạch Quang Thắng đã đề cập đến một số vấn đề phương pháp
luận trong việc vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả nêu nên giá trị lí luận và thực
tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và một số vấn đề
cần bổ sung, phát triển Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
3 - “Từ thực tiễn đổi mới đến nhận thức lí luận mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam (1986-2011)” GS.TS Hoàng Chí Bảo đã đưa ra các tác động của tình hình
thế giới và trong nước tới công cuộc đổi mới, thời cơ thách thức và những quan
điểm chủ yếu của quá trình đổi mới tư duy lí luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn 1986 - 2011.

4 - Những vấn đề lí luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam của GS.TS Nguyễn Duy Quý (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1998.
Hay Đề tài khoa học KHXH03 - 01: Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng Việt Nam đặc biệt là về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội do PGS Song Thành chủ nhiệm 1996 – 2000.
Bên cạnh đó, còn có các bài viết của các nhà nghiên cứu được đăng trên
báo, tạp chí khoa học: Động lực phát triển của cách mạng nước ta của Nhị Lê,
Tạp chí cộng sản số 19/2003; Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu và con đường
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta, Tạp chí cộng sản số 5/1994; Tư tưởng Hồ
Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt
Nam của Nguyễn Duy Quý, Tạp chí triết học, Số 3/2000; Tư tưởng Hồ Chí Minh
về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của
Nguyễn Thế Nghĩa, Tạp chí triết học, Số 8/2002.

3


Các công trình nghiên cứu trên đã phản ánh được nhiều khía cạnh của tư
tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam góp phần làm sáng tỏ nhiều
vấn đề lý luận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên,
chưa có một công trình riêng nào nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu,
động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở
nước ta hiện nay.
Trên cơ sở của các thành quả của các tác giả đi trước, đề tài đã cố gắng đi
sâu nghiên cứu nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng vào
việc xác định mục tiêu, động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
3. Mục ích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động

lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của
Đảng vào việc xác định mục tiêu, động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay.
- Nhiệm vụ:
+ Trình bày cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động
lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
+ Phân tích được nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực
của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
+ Đánh giá quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng vào việc
xác định mục tiêu, động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng:Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam và sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng vào việc xác định
mục tiêu, động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
- Phạm vi: Trên sơ sở lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về mục
tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội, luận văn tập trung nghiên cứu nội dung tư
tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,

4


đồng thời làm sáng tỏ sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng vào việc xác
định mục tiêu, động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ 1986 đến nay.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lí luận: Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên sơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đề tài sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu như: Phương pháp hệ thống, phương pháp logic - lịch sử,
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, gắn lí luận với thực

tiễn…….
6. Đóng góp của luận văn
+ Luận văn trình bày một cách có hệ thống quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội và nội dung tư tưởng Hồ
Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam;
+ Đồng thời, luận văn cũng làm sáng tỏ sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh của Đảng vào việc xác định mục tiêu, động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
+ Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần làm sáng tỏ thêm
những luận điểm, các vấn đề lí luận, thực tiễn về mục tiêu, động lực của quá trình
đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
+ Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu, nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương,
6 tiết.

5


B. NỘI DUNG
Chương 1:
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỤC TIÊU, ĐỘNG LỰC CỦA CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lí luận, thực tiễn hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu,
động lực của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1.1.1. Quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin về mục tiêu, động lực
của chủ nghĩa xã hội
* Về mục tiêu

Theo quan điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, chủ nghĩa xã hội
chính là giai đoạn đầu, giai đoạn thấp hay một nấc thang của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đồng thời, các ông cho rằng đây không phải là một xã
hội đã hoàn chỉnh ngay một lúc mà nó có sự bổ sung, hoàn chỉnh cùng với sự vận
động, biến đổi của lịch sử xã hội.
Khi phân tích quy luật vận động của xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
phát hiện ra xu hướng phát triển tất yếu của lịch sử xã hội loài người và đi đến
kết luận rằng chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ bị thay thế bằng một xã hội khác tiến bộ
hơn, đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
C.Mác, Ph.Ăngghen đã phân tích mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản
đó là: mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa cao với quan
hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất, luận chứng tất yếu xã hội phải trực tiếp chiếm hữu tư liệu sản xuất. Vì vậy,
việc xóa bỏ chế độ tư hữu và xây dựng chế độ công hữu là tiêu chí đầu tiên của
chủ nghĩa xã hội. Vì theo các ông, đấy là nguồn gốc đẻ ra mọi áp bức, bóc lột,
bất công trong xã hội.
Kế thừa tư tưởng trên, V.I.Lênin nhận thấy rõ được tầm quan trọng của
việc xóa bỏ chế độ tư nhân tư bản chủ nghĩa. Ông cho rằng: chế độ sở hữu tư bản
chủ nghĩa là nguồn gốc gây ra mọi đau khổ của quần chúng nhân dân lao động.
Vì vậy, để giải phóng người lao động cần phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ
nghĩa và thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất. Các nhà kinh điển coi đó
là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà V.I.Lênin

6


giải thích: chủ nghĩa xã hội là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất từ chủ nghĩa tư
bản, nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội nghĩa là chế độ công hữu
về các tư liệu sản xuất và chế độ phân phối sản phẩm theo lao động của mỗi
người. Đồng thời, đó cũng là cơ sở để phát triển một nền sản xuất có kế hoạch.
Việc điều tiết nền sản xuất theo một kế hoạch là một trong những đặc trưng cơ

bản, là mục tiêu và thực chất của chủ nghĩa xã hội.
C.Mác coi chủ nghĩa xã hội là giai đoạn quá độ tất yếu để đi đến xóa bỏ sự
khác biệt giai cấp nói chung, đây là mục tiêu cần đạt tới của chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời, khi đã xóa bỏ được sự phân chia xã hội thành giai cấp thì sẽ xóa bỏ
được mọi sự bất bình đẳng xã hội và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới giải quyết được
vấn đề đó. Tuy nhiên, dưới chủ nghĩa xã hội, bình đẳng không có nghĩa là ngang
nhau về mọi phương diện mà phải luôn hiểu rằng đó là sự bình đẳng xã hội, bình
đẳng về địa vị xã hội của con người.
Đặc biệt, trong quá trình nghiên cứu sự vận động của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác và Ph.Ăngghen đã dự báo cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa sẽ nổ ra ở các nước tư bản ở trình độ cao. Trên cơ sở trình độ xã hội
hóa cao của lực lượng sản xuất, đòi hỏi cần phải thay thế quan hệ sản xuất dựa
trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bằng chế độ
công hữu đối với các tư liệu sản xuất.
Tuy nhiên, trong lịch sử thì cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa không nổ ra
ở một nước tư bản phát triển cao như C.Mác, Ph.Ăngghen dự báo mà lại nổ ra ở
một nước tư bản ở trình độ trung bình còn tồn tại đan xen những tàn dư nặng nề
của chế độ phong kiến nông nô – đó là nước Nga.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng 10 Nga năm 1917, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Bônsêvích đứng đầu là Lênin, nước Nga Xô Viết bước vào con đường
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính quyền Xô Viết đã ra sắc lệnh quốc hữu hóa các
nhà máy, các xí nghiệp thuộc sở hữu tư nhân … Tính ưu việt của chế độ mới lần
đầu tiên xuất hiện trong lịch sử. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân lao động
nước Nga đã đứng lên làm chủ nước nhà.
Tuy vậy, trong hoàn cảnh khó khăn đó, tư duy của V.I.Lênin đã đặt mục
tiêu trọng tâm vào phát triển lực lượng sản xuất của chủ nghĩa xã hội. Người

7



cũng nhận thấy ở nước Nga lúc này lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp trong
khi đó quan hệ sản xuất lại là xã hội chủ nghĩa. Điều này tạo ra mâu thuẫn giữa
lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Để giải quyết mâu thuẫn giữa quan hệ sản
xuất tiên tiến với lực lượng sản xuất lạc hậu, V.I.Lênin đã đưa ra và thực hiện Chính
sách kinh tế mới ( NEP).
Chính sách kinh tế mới đã thực hiện đa dạng hóa các quan hệ sở hữu, đa
dạng hóa các cách thức tổ chức quản lý sản xuất, khơi dậy tính tích cực xã hội
của người lao động vừa bằng lợi ích vật chất, vừa bằng giáo dục và động viên về
lí tưởng, sử dụng chuyên gia tư sản bằng cách trả lương cao và tạo những điều
kiện tốt nhất để họ làm việc, đồng thời tranh thủ thời gian ngắn nhất đào tạo
chuyên gia khoa học kĩ thuật trên các lĩnh vực … Chỉ sau vài năm thực hiện
Chính sách kinh tế mới, nước Nga đã đạt được những thành tự to lớn, không
ngừng phát triển lực lượng sản xuất, xác lập quan hệ sản xuất mới thích hợp để
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Tuy nhiên, sau khi khôi phục kinh tế, Liên Xô vẫn là một nước nông
nghiệp lạc hậu. Vì vậy, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô lúc này là phải
xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện mục tiêu
đó, Liên Xô phải thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Công
nghiệp hóa ngày càng mở rộng đòi hỏi cần phải có những kế hoạch dài hạn với
những mục tiêu cụ thể cho từng thời kì đó là các kế hoạch 5 năm phát triển kinh
tế - xã hội. Các kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1928-1932), lần thứ hai (19331937) đều được hoàn thành trước thời hạn…Nhờ vậy, Liên Xô đã đạt được nhiều
thành tựu to lớn vươn lên trở thành cường quốc đứng thứ hai trên thế giới, chỉ
sau Mĩ.
* Về động lực
Theo các nhà kinh điển, động lực của chủ nghĩa xã hội không phải là một
động lực mà là hệ động lực gồm cả vật chất và tinh thần, cả trong và ngoài nước.
Trước hết là động lực về lợi ích vật chất
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định: “Tất cả những gì mà con người đấu
tranh để giành lấy đều dính liền với lợi ích của họ: và một khi tư tưởng tách rời
khỏi lợi ích thì nhất định nó sẽ làm nhục nó” [45; 126]. Có nghĩa là, mọi hoạt


8


động đấu tranh của con người luôn gắn liền với lợi ích của họ. Như vậy, ở đây,
theo quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen thì lợi ích là “động lực gốc” của sự
phát triển xã hội nói chung và của chủ nghĩa xã hội nói riêng. Lợi ích là động lực
của mọi động lực.
Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: “Ở đâu không có lợi ích
chung thì ở đó không thể có sự thống nhất về mục đích và càng không thể có sự
thống nhất về hành động được”[48; 21]. Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, các
ông đã chỉ ra rằng; mặc dù nó là một nấc thang phát triển vượt bậc của nhân loại
nhưng chủ nghĩa tư bản vẫn có hạn chế lịch sử đó là chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất do có mâu thuẫn đối kháng về lợi ích giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản
nên đã gây nên nhiều hậu quả cho nhân loại.
Từ đó, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: “con đường và giải pháp cơ bản
để khắc phục tình trạng trên” – đó là cần phải tiến hành cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa lật đổ xã hội tư bản xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa
và xã hội cộng sản chủ nghĩa…do Đảng Cộng sản lãnh đạo với lực lượng nòng
cốt là liên minh công - nông. Trong xã hội đó, lực lượng sản xuất cần được tổ
chức hợp lý, phân phối thỏa đáng và đem lại lợi ích lớn cho tất cả mọi người.
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng chỉ ra rằng trong xã hội mới đó cần phải xây dựng
một nền kinh tế tập thể xã hội xã hội chủ nghĩa như là một tất yếu vì lợi ích của
toàn nhân loại.
V.I. Lênin cũng có nhiều luận điểm cơ bản, có giá trị bền vững về những
động lực sản xuất vật chất, động lực kinh tế trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khi
đề ra và thực thi Chính sách kinh tế mới, Người nói trong Hội nghị VII Đảng bộ
tỉnh Mátxcơva (10/1921): Chẳng những việc sản xuất “tự cung tự cấp” đã lạc hậu
mà hiện nay chế độ trao đổi hàng hóa đã tỏ ra không phù hợp với tình hình thực
tế…mà lại là lưu thông tiền tệ, mua bán bằng tiền mặt… sự thật đã chứng minh

điều đó. Điều đó có nghĩa là việc sản xuất theo hình thức tự cung tự cấp, trao đổi
hàng hóa lúc này không còn phù hợp nữa mà thay vào đó cần phải phát triển lưu
thông tiền tệ và mua bán bằng tiền mặt… nhằm khơi dậy các động lực sản xuất
vật chất, động lực kinh tế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

9


Thứ hai: Động lực chính trị
Khi đề cập đến cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã có nhiều luận điểm về
động lực chính trị trong quá trình cách mạng. Các ông cho rằng : “tất cả những
phong trào lịch sử từ trước đến nay, đều do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi
ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu
lợi ích cho khối đại đa số” [ 46; 611].
Chúng ta thấy rằng, hầu hết các phong trào đấu tranh trước kia dù của giai
cấp chủ nô, giai cấp phong kiến hay giai cấp tư sản đều do các giai cấp này thực
hiện và sau khi hoàn thành cách mạng thì đều đem lại lợi ích cho giai cấp thống
trị. Còn đại đa số nhân dân lao động không được một chút quyền lợi gì cả. Họ
vẫn sống cực khổ và bị áp bức bóc lột. Đa số các cuộc cách mạng trước đó chỉ là
sự thay thế hình thức bóc lột này bằng hình thức bóc lột khác mà thôi.
Tuy nhiên, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa lại khác hoàn toàn về chất
so với các cuộc cách mạng trước đó. Vì đây là cuộc cách mạng do đại đa số nhân
dân thực hiện và sau khi hoàn thành rồi thì nó đem lại lợi ích cho đại đa số nhân
dân lao động.
Đó chính là “động lực chính trị” trực tiếp nhất biểu hiện lợi ích và động
lực kinh tế của giai cấp công nhân và đại đa số nhân dân lao động trong tiến trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời, C.Mác và Ph.Ăngghen còn cho rằng trong quá trình tiến hành
cách mạng xã hội chủ nghĩa cần phải “tạo ra một chế độ dân chủ” [46; 469] vừa

với tư cách là thành quả của cách mạng, vừa là điều kiện, động lực chính trị cho
quá trình mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động từng bước xây dựng chế
độ mới của mình.
Bên cạnh đó, các ông còn đưa ra các luận điểm cơ bản về liên minh công
– nông vừa với tư cách là việc tập hợp các lực lượng cho cuộc cách mạng vô sản,
vừa là động lực chính trị cơ bản thể hiện quyền lực chính trị và biểu hiện quyền
lực kinh tế của công nhân, nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa và trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội.

10


Các ông khẳng định: “Nếu không tổ chức được liên minh công nông thì
cách mạng vô sản sẽ trở thành một bài ai điếu” hay “Trong một nước tiểu nông
chiếm đa số nếu không tổ chức được liên minh công nông thì giai cấp vô sản
không thể đụng đến một sợi tóc của giai cấp tư sản…”. Điều đó có nghĩa là, theo
C.Mác và Ph.Ăngghen, nếu như giai cấp công nhân mà không liên minh với giai
cấp nông dân để tạo nên một lực lượng cách mạng to lớn thì sẽ không thể lật đổ
được giai cấp tư sản để tiền lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
V.I.Lênin rất chú trọng đến việc tiếp tục củng cố, phát triển liên minh
công - nông do Đảng Cộng sản lãnh đạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà
thực chất trong giai đoạn mới của liên minh này là: “Giai cấp vô sản tiếp tục lãnh
đạo nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội”.
V.I.Lênin chỉ rõ: giai cấp vô sản nắm chính quyền, liên minh với hàng
triệu tiểu nông…giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo nông dân để tiến hành xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Theo V.I.Lênin, khi giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và mỗi người dân ý thức được và thể hiện được vai trò làm chủ xã hội, tự hào và
tự tin về vai trò và năng lực vĩ đại của mình thì đó chính là động lực chính trị cơ bản
và to lớn trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
V.I.Lênin cho rằng: trong việc Đảng Cộng sản thực hiện vai trò lãnh đạo

chính trị, lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội – Một sự nghiệp chưa
từng có tiền lệ kinh nghiệm về chính trị, khi Đảng Cộng sản và giai cấp công
nhân lãnh đạo xây dựng cả chế độ xã hội chủ nghĩa non trẻ, không thể không mắc
sai lầm, những thất bại, thậm chí rất nghiêm trọng, tạo ra “những bước lùi” tạm
thời.Tuy nhiên, vấn đề là cần phải nhận thức và sửa chữa được những sai lầm đó.
Thứ ba: là động lực văn hóa tinh thần
Khi đề cập đến động lực tinh thần trong cách mạng vô sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen đặc biệt coi trọng vấn đề nhận thức lý luận như một động lực rất cơ
bản và to lớn để phát triển phong trào công nhân, phát động, giác ngộ và tổ chức
quần chúng trong cách mạng vô sản vì: “Lý luận đóng vai trò quyết định trong
việc làm cho giai cấp vô sản ý thức được lợi ích của mình”.
Ngay trong các tác phẩm đầu tay của mình, Ph.Ăngghen đã nhận rõ vai trò
động lực của vấn đề giáo dục, của sự giác ngộ trong phong trào công nhân để có

11


năng lực làm cách mạng vô sản. Ông cho rằng: sở dĩ giai cấp công nhân Anh có
năng lực chống lại sự bạo ngược một cách mãnh liệt như thế đó là nhờ sự giáo
dục của họ.
V.I.Lênin, ngay từ khi lãnh đạo nước Nga bước vào thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Thời kì thực hiện Chính sách kinh tế mới), đã chú trọng cả những
động lực kinh tế, chính trị, lẫn các động lực về văn hóa tinh thần. Người đã chỉ
rõ: “Chính sách kinh tế mới cũng có ý nghĩa về mặt giáo dục nữa….ở nước ta
không còn chỗ cho những người không chịu học tập đến nơi đến chốn…Đứng về
mặt cần thiết phải học tập thật nhanh mà xét, thì mọi sự lơ là đều là tội lỗi rất
nặng” [42; 208 - 210].
Sau khi cách mạng Tháng 10 Nga thành công năm 1917, nước Nga lúc đó
về cơ bản vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ dân trí thấp. Sau khi hoàn
thành công cuộc khôi phục kinh tế, nước Nga vẫn là một nước nông nghiệp lạc

hậu. Khi bước vào thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội, ở nước Nga lúc này có sự
mâu thuẫn giữa cái nghèo khó và nạn mù chữ với yêu cầu ngày càng cao của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lúc này, V.I.Lênin đã coi động lực văn hóa tinh thần như một “bảo bối” để thoát khỏi tình trạng đó.
Người đặc biệt chú trọng tới vấn đề văn hóa, trình độ học vấn của quần
chúng trong xây dựng chủ nghĩa xã hội như là một trong những nhiệm vụ khó
khăn, nhưng cơ bản và quyết định nhất. Người chỉ rõ: “Nâng cao trình độ văn
hóa là một trong những nhiệm vụ bức thiết nhất…chúng ta còn phải ngâng cao
trình độ văn hóa lên thật nhiều …để cải thiện kinh tế của mình và nhà nước của
mình” [43; 213-214].
1.1.2. Tình hình thực tiễn ở Việt Nam và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và Đông Âu
1.1.2.1. Tình hình thực tiễn ở Việt Nam
Vào giữa thế kỉ XIX, thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình phong
kiến nhà Nguyễn đã chống cự yếu ớt, từng bước đầu hàng và dâng nước ta cho
thực dân Pháp. Đến cuối thế kỉ XIX, toàn bộ đất nước ta đã rơi vào tay thực dân
Pháp. Sau khi chiếm được nước ta, thực dân Pháp đã từng bước thiêt lập bộ máy
thống trị ở Việt Nam:

12


Về chính trị: Thực dân Pháp thực hiện chính sách “chia để trị”. Chúng
chia đất nước ta làm ba xứ : Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện mỗi kì một
chế độ cai trị riêng. Chúng câu kết với phong kiến để đàn áp, bóc lột nhân dân ta,
“tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào” [22; 1] rồi “chúng
thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các
cuộc khởi nghĩa của ta trong biển máu” [22; 2]. Bên cạnh chính sách nham hiểm
đó chúng còn thi hành chính sách “dùng người Việt trị người Việt”.
Về kinh tế: Thực dân Pháp xâm lược nước ta nhằm mục đích khai thác,
bóc lột nhân dân ta để bù đắp vào chỗ thua thiệt vì bị xa lầy vào cuộc chiến tranh

trước đó. Vì vậy, Ở Việt Nam chúng đã tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn
điền như cà phê, cao su, hồ tiêu…,đầu tư khai thác tài nguyên, xây dựng một số
cơ sở công nghiệp, xây dựng hệ thống đường giao thông, bến cảng nhằm phục vụ
lợi ích cho chúng. Chính sách khai thác đó của Pháp đã tạo ra sự chuyển biến đối
với nền kinh tế Việt Nam (hình thành một số ngành kinh tế mới…), nhưng dẫn
đến hậu quả là nền kinh tế nước ta phát triển một cách què quặt, không cân đối,
kinh tế nước ta bị lệ thuộc vào nền kinh tế của Phápvà bị kìm hãm trong vòng lạc
hậu “ khiến cho dân nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều”[22; 2].
Về văn hóa - xã hội: Thực dân Pháp đã thực hiện chính sách văn hóa giáo
dục thực dân, dung túng, duy trì các thủ tục lạc hậu. “Chúng lập ra nhà tù nhiều
hơn trường học…, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu,
cồn để làm cho giống nòi ta suy nhược” [22; 2].
Dưới chính sách cai trị của Pháp, đã làm cho tính chất xã hội Việt Nam
thay đổi chuyển từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa
nửa phong kiến, cơ cấu giai cấp có sự phân hóa sâu sắc. Ngoài hai giai cấp cũ là
địa chủ phong kiến và nông dân, xã hội Việt Nam xuất hiện thêm một số giai cấp
và tầng lớp mới là giai cấp công nhân, tư sản và tầng lớp tiểu tư sản.
Mặt khác, khi Pháp xâm lược nước ta, nhiều phong trào đấu tranh chống
Pháp đã nổ ra như: Phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết
khởi xướng theo khuynh hướng phong kiến; cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế
do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo diễn ra từ năm 1884 kéo dài đến năm 1913. Kết
quả đều thất bại. Sự thất bại của các phong trào trên chứng tỏ giai cấp phong kiến

13


và hệ tư tưởng phong kiến đã trở nên lỗi thời và lạc hậu, không đủ điều kiện để lãnh
đạo phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta.
Bên cạnh các cuộc khởi nghĩa trên, đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước
dưới sự lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu tiến bộ chịu ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư

sản diễn ra sôi nổi. Tuy nhiên, nó lại bị phân hóa thành hai bộ phận. Một bộ phận
chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp giành độc lập dân tộc, khôi phục lại chủ
quyền quốc gia bằng biện pháp bạo động, đại biểu là Phan Bội Châu. Một bộ
phận khác lại coi cải cách là giải pháp để tiến tới khôi phục độc lập, tiêu biểu là
Phan Châu Trinh. Tuy nhiên, hầu hết các phong trào trên dù theo khuynh hướng
bạo động hay cải cách kết quả đều thất bại. Sự thất bại của các phong trào yêu
nước chống Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ con đường cứu
nước theo hệ tư tưởng phong kiến và dân chủ tư sản đã hoàn toàn bế tắc. Cách
mạng Việt Nam lâm vào tình hình khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và
đường lối cứu nước.
Trong tình hình lúc đó, các nhà yêu nước và quần chúng nhân dân khát
khao mong chờ một đường lối cách mạng đúng đắn để đưa sự nghiệp giải phóng
dân tộc đi đến thành công. Người duy nhất có khả năng đưa dân tộc Việt Nam
thoát khỏi khủng hoảng về đường lối và giai cấp lãnh đạo lúc đó là Nguyễn Ái
Quốc.
Nguyễn Ái Quốc tên thuở nhỏ là Nguyễn Sinh Cung. Người sinh ra ở Kim
Liên – Nam Đàn – Nghệ An, nơi có truyền thống cách mạng yêu nước sục sôi từ
ngày Pháp đặt chân lên nước ta. Ngay từ nhỏ, Người đã chứng kiến tội ác của
thực dân Pháp và nỗi thống khổ của nhân dân, đồng thời thừa hưởng truyền
thống chống ngoại xâm của quê hương và dân tộc. Người cũng đã chứng kiến
được sự thất bại của các phong trào cứu nước của cha ông nhưng Người không
tán thành các con đường cứu nước đó. Người nói: con đường của Phan Bội Châu
– Con đường Đông Du chẳng khác nào “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.
Còn con đường của Phan Châu Trinh thì chẳng khác gì “cầu xin giặc Pháp rủ
lòng thương”, hay con đường cứu nước của Hoàng Hoa Thám có phần thực tế
hơn vì là trực tiếp chống Pháp nhưng Người cho rằng nó còn mang nặng cốt cách
phong kiến.

14



Vì vậy, ngày 5/6/1911, Người đã quyết định rời quê hương sang phương
Tây tìm một con đường cứu nước mới. Người đã trải qua nhiều châu lục trên thế
giới. Nơi Người ở lại lâu nhất là Pháp. Lần đầu tiên khi đặt chân lên cảng
Mácxây, Người thấy có người gọi Người là “Ông”. Người cảm nhận thấy, “ở
Pháp cũng có người nghèo như bên ta”, “người Pháp ở Pháp tốt và lễ phép hơn
người Pháp ở Đông Dương”. Nhận thức ấy lại được nhân lên ở một mức sâu sắc
hơn khi Người có điều kiện tiếp xúc cuộc sống khổ cực của giai cấp công nhân
và nhân dân các nước thuộc địa. Người nói: “những người Pháp ở Pháp phần
nhiều là tốt. Song những người Pháp thực dân lại rất hung ác và vô nhân đạo. ở
đâu chúng nó cũng thế … đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa
da vàng hay da đen cũng không đáng một xu”.
Từ đó, Người đã phân biệt được đâu là bạn, đâu là thù. Người đã nhận
thức rõ hơn bản chất của kẻ thù dân tộc là một bộ phận phản động Pháp đi xâm
lược, còn nhân dân Pháp chính là bạn của nhân dân Việt Nam. Kẻ thù của dân tộc
Việt Nam cũng chính là kẻ thù của các dân tộc bị áp bức và nô lệ trên thế giới.
Năm 1917, khi đang hoạt động ở Pháp, đúng lúc đó cách mạng tháng
Mười Nga nổ ra và giành thắng lợi đã làm chấn động trên toàn thế giới. Từ đó,
Người hướng tới tìm hiểu cuộc cách mạng ấy. Tuy nhiên, sự tham gia một cách
nhiệt thành để ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga lúc bấy giờ chưa phải là
Người đã nhận thức được đầy đủ cái ý nghĩa vĩ đại của cuộc cách mạng đó với
thế giới. Hơn nữa, cho đến lúc ấy, Người cũng chưa có dịp đọc một tác phẩm nào
của Lênnin viết. Nhưng sự kiện trên là một bước khởi đầu rất quan trọng để
Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Lênin, đến với Cách mạng Tháng Mười Nga
và tìm thấy ở đấy con đường giải phóng dân tộc, con đường phát triển tương lai
của đất nước. Vào năm 1960, Hồ Chí Minh viết: “Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách
mạng Tháng Mười chỉ theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa hiểu hết tầm quan trọng
lịch sử của nó. Tôi kính yêu Lênin, vì Lênin là một người yêu nước vĩ đại đã giải
phóng đồng bào mình, trước đó tôi chưa hề đọc một quyển sách nào của Lênin
viết” [30; 561].

Năm 1919, Đại hội đại biểu các nước thắng trận đã họp Hội nghị hòa bình
tại Vécxây. Tổng thống Mỹ Winsơn đã mang đến Hội nghị bản kế hoạch 14 điều

15


về quyền dân tộc tự quyết. Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người Việt Nam
yêu nước gửi tới Hội nghị bản yêu sách 8 điểm của nhân dân An Nam. Thực chất
bản yêu sách đó cũng chỉ đòi hỏi một số quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân
dân Việt Nam. Nhưng bản yêu sách đó đã không được Hội nghị chấp thuận. Tuy
nhiên, nó cũng gây một tiếng vang lớn. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc mới hiểu bản
chất của vần đề về quyền tự quyết của các dân tộc mà bọn đế quốc đưa ra chỉ là
một “trò bịp lớn”.
Tháng 7/1920, Người đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất “ Những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin trên báo Nhân đạo.
Người đã tìm thấy trong đó con đường cứu nước và giải phóng dân tộc, đó là đi
theo con đường cách mạng vô sản. Sau này, Người nói “muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Tuy
nhiên, lúc đó không phải chỉ có một người Việt Nam duy nhất là Nguyễn Ái
Quốc đọc được tờ báo Nhân đạo, mà nhiều người Việt Nam yêu nước khác ở
Pháp cũng đều đọc được. Song, chỉ có Nguyễn Ái Quốc mới thấy được” đây là
cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng cho chúng ta”. Theo
Người, cái cần thiết cho chúng ta ở đây là: Tổ quốc Việt Nam phải được giải
phóng, các dân tộc thuộc địa phải được giải phóng và Người đặt chủ nghĩa xã hội
trong xu hướng và triển vọng của cách mạng nước ta và xác định mục tiêu của
cách mạng nước ta là sau khi giành được độc lập dân tộc sẽ đi tới chủ nghĩa xã
hội. Người cũng xác định lãnh đạo cách mạng chính là Đảng Cộng sản, đội tiên
phong của giai cấp công nhân. Còn động lực ( lực lượng) cơ bản của cách mạng
là là giai cấp công nhân và đông đảo quần chúng nhân dân lao động (giai cấp
nông dân).

Sau khi tìm ra cho cách mạng Việt Nam con đường cứu nước đúng đắn,
Người đã ra sức chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho việc thành lập một
chính Đảng ở Việt Nam. Nhờ sự chuẩn bị chu đáo, tích cực của Nguyễn Ái Quốc
dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1930. Sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của cách mạng nước ta. Đảng
ra đời đã đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn xác định mục tiêu của cách
mạng nước ta là: sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ nhân dân sẽ đi lên

16


xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, Đảng cũng xác định lực lượng chính
(động lực) của cách mạng là công nhân, nông dân, trí thức.
1.1.2.2. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu
* Ở Liên Xô
Cuộc cách mạng Tháng 10 Nga thành công năm 1917, lần đầu tiên trong
lịch sử thế giới đã đưa nhân dân lao động Nga từ địa vị nô lệ nên địa vị làm chủ
nước nhà, lập nên được chính quyền của nhân dân lao động, xây dựng được một
xã hội hoàn toàn mới, một xã hội không có trạng người bóc lột người. Đồng thời,
thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử xã
hội loài người – Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi toàn thế giới.
Chính những thành tựu của cách mạng Tháng 10 Nga mang lại đã thúc
đẩy Nguyễn Ái Quốc hướng tới nghiên cứu tìm hiểu về cuộc cách mạng này.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn, tìm hiểu về cuộc cách mạng tháng 10 Nga
kết hợp với việc đọc sách báo của V.I.Lênin, Người đã quyết định đưa cách
mạng Việt Nam đi theo quỹ đạo của cách mạng vô sản.
Sau cách mạng Tháng 10, nước Nga lại bước vào thời kì nội chiến. Đảng
Cộng sản Nga đứng đầu là V.I.Lênin đã đề ra Chính sách cộng sản thời chiến.
Nhờ thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến, nước Nga Xô viết đã cung cấp đủ

lương thực cho quân đội và nhân dân, đảm bảo đánh thắng thù trong giặc ngoài.
Khi đánh giá về chính sách đó V.I.Lênin đã từng nói: Trong điều kiện chiến tranh
mà chúng ta đã lâm vào thì về cơ bản chính sách đó là đúng. Tuy nhiên đó không
phải là một chính sách kinh tế tất yếu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà
chỉ là một chính sách tạm thời. Do đó, việc duy trì quá lâu chính sách đó đã làm
cho nền kinh tế nước Nga bị khủng hoảng trầm trọng; Năm 1920 so với năm
1913 tổng sản lượng nông nghiệp chỉ còn 1/2, đại công nghiệp chỉ còn 1/7, giao
thông vận tải bị tê liệt, nạn đói, mất mùa xảy ra ở nhiều nơi….
Trước tình hình đó, năm 1921, sau khi nội chiến kết thúc tại Đại hội X
Đảng Cộng sản Nga đã quyết định thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP) thay
cho Chính sách cộng sản thời chiến như ban hành thuế nông nghiệp, khôi phục
phát triển công nghiệp nặng, khuyến khích đầu tư nước ngoài vào nước

17


Nga…Nhờ việc thực hiện Chính sách kinh tế mới, chỉ sau một thời gian ngắn
(1921 – 1923) nền kinh tế quốc dân của nước Nga Xô viết đã có những chuyển
biến rõ rệt, giúp nhân dân Nga vượt qua khó khăn, phấn khởi trong sản xuất và
hoàn thành công cuộc khôi phục kinh tế.
Tháng 12/1922, Đại hội Xô Viết toàn Nga đã tuyên bố thành lập Liên
bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết (gồm 4 nước) gọi tắt là Liên Xô ( đến
năm 1940 có thêm 11 nước). Tuy nhiên, đến năm 1924, V.I.Lênin mất, sau đó
nước Nga vẫn tiếp tục thự hiện Chính sách kinh tế mới thông qua các kế hoạch 5
năm lần thứ nhất (1928-1932) và kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1933-1937). Liên
Xô đã hoàn thành các kế hoạch 5 năm trước thời hạn và đạt được một số thành
tựu to lớn trong các lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa - xã hội. Đến năm 1936, với
các kết quả đạt được, Liên Xô đã xây dựng được về cơ bản thành công chủ nghĩa
xã hội tạo tiềm lực cho chủ nghĩa xã hội sau này. Đến năm 1939, chiến tranh thế
giới thứ 2 bùng nổ. Tháng 6/1941, Đức tấn công Liên Xô, vì vậy, công cuộc xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô tạm thời bị gián đoạn.
Năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Liên Xô là nước chiến
thắng nhưng bị tổn thất nặng nề. Tuy nhiên, với tinh thần tự lực, tự cường Liên
Xô đã hoàn thành kế hoạch 5 năm khôi phục kinh tế (1946 – 1950) trước thời hạn
9 tháng. Năm 1949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc
quyền vũ khí hạt nhân của Mĩ. Liên Xô đạt được nhiều thành tựu trong công
nghiêp, nông nghiệp, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học - kĩ thuật, quân sự.. trở
thành cường quốc công nghiệp thứ hai trên thế giới, chỉ sau Mỹ.
Về đối ngoại, Liên Xô thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và tích cực
ủng hộ phong trào cách mạng thế giới; đấu tranh cho hoà bình, an ninh thế giới,
kiên quyết chống chính sách gây chiến của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động; tích cực giúp đỡ các nước xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng đất
nước; ủng hộ các phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội.

18


* Ở Đông Âu
Trong những năm 1944 – 1945, cùng với quá trình Hồng quân Liên Xô
truy kích quân đội phát xít Đức, nhân dân Đông Âu đã nổi dậy giành chính
quyền, thành lập các nhà nước dân chủ nhân dân. Sau đó, các nước này bước vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong những năm 1950 – 1975, các nước
Đông Âu đã thực hiện nhiều kế hoạch 5 năm nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kĩ
thuật của chủ nghĩa xã hội và đạt được nhiều thành tựu to lớn.Từ chỗ là những
nước nghèo, các nước Đông Âu đã trở thành những quốc gia công – nông nghiệp.
Sản lượng công nghiệp tăng lên gấp hàng chục lần, nông nghiệp phát triển nhanh
chóng, trình độ khoa học – kĩ thuật được nâng lên rõ rệt.
Thành tựu đó đã làm biến đổi đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của các
nước, khẳng định tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, làm cho chủ nghĩa xã hội trở

thành một hệ thống thế giới với tiềm lực mọi mặt được tăng cường và có vị thế
quan trọng trong quan hệ quốc tế.
1.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực của chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
* Mục tiêu tổng quát
Trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ
Chí Minh đã hình thành một hệ thống quan điểm hết sức đặc sắc về chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Trong phương thức tiếp cận chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã
có nhiều cách định nghĩa khác nhau. Có khi, Người định nghĩa chủ nghĩa xã hội
như một chế độ xã hội hoàn chỉnh đối lập với chế độ tư bản chủ nghĩa, hay định
nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách chỉ ra các mặt riêng biệt của nó như: về kinh tế,
chính trị, văn hóa….hoặc có khi định nghĩa chủ nghĩa xã hội bằng cách nêu bật
mục tiêu của nó…
Tuy nhiên, trong các cách tiếp cận đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến
đến việc chỉ ra mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Bởi lẽ, theo Người, mục tiêu là sự
thể hiện cô đọng nhất các mặt bản chất, đặc trưng, tính ưu việt vốn hàm chứa
trong chế độ xã hội tương lai mà chúng ta xây dựng. Điểm then chốt có ý nghĩa
phương pháp luận quan trọng của Hồ Chí Minh là đề ra các mục tiêu chung và

19


mục tiêu cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội trong mỗi giai đoạn cách mạng khác
nhau ở nước ta.
Vào những năm 20 của thế kỉ XX, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu chung
của chủ nghĩa xã hội là đảm bảo cho mọi người không phân biệt chủng tộc và
nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no, hòa bình, hạnh phúc.
Nghĩa là, chủ nghĩa xã hội phải hướng tới đảm bảo các giá trị làm người chân
chính trong quá trình phát triển các quan hệ xã hội.

Đến những năm 50, 60 của thế kỉ XX, khi miền Bắc bước vào thời kì xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Người đã xác định rõ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là
thỏa mãn các nhu cầu sinh tồn và phát triển của con người: Chủ nghĩa xã hội
trước hết là nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi
người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc; hoặc ở một
mức độ khái quát cao hơn: Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là không ngừng cải
thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, cả đời sống vật chất và đời sống tinh
thần. Đây là cách diễn đạt mà Người thường dùng nhất.
Ở Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội và mục tiêu phấn
đấu của Người là một, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân;
đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đó cũng chính là
mục tiêu tổng quát theo cách diễn đạt của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội cũng chính là khát vọng, mong muốn cháy
bỏng mà Hồ Chí Minh hy sinh cả cuộc đời mình để phấn đấu vươn tới: xây dựng
một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của thế giới.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về khát vọng, về mục tiêu cao cả của chế độ
xã hội mới - chủ nghĩa xã hội - rất gần với triết lý nhân sinh của Phật giáo: “Dĩ
chúng tâm vi kỷ tâm” (lấy cái tâm của người khác làm cái tâm của chính mình).
Vì thế, cách nói và diễn đạt này dễ đi vào lòng người, dễ được chấp nhận, bởi nó
không hoàn toàn xa lạ với tâm thức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Bằng
cách xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh cho thấy, khi đề cập
đến một vấn đề hiện đại, Người vẫn đứng trên mảnh đất cội rễ truyền thống Việt

20


Nam, tạo nên một dòng chảy văn hoá liền mạch từ quá khứ, qua hiện tại, để
hướng tới tương lai theo một hệ chuẩn giá trị nhất quán, nhân văn và nhân đạo.

Mục tiêu này được Người đề cập dưới nhiều hình thức khác nhau:
+ Có khi Người trả lời một cách trực tiếp: “Mục đích của CNXH là gì?
Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất
tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”. Hoặc “mục đích của chủ
nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”. [ 30; 604]
Tiếp cận chủ nghĩa xã hội về phương diện mục đích là một nét đặc sắc thể
hiện phong cách và năng lực tư duy lý luận khái quát của Hồ Chí Minh. Hoặc có
khi Người diễn giải mục tiêu tổng quát thành các tiêu chí cụ thể: “Chủ nghĩa xã
hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy đều
được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động thì được nghỉ, những phong
tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ... Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ,
vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”. [31;
438]
+ Có khi Người nói một cách gián tiếp, không nhắc đến chủ nghĩa xã hội,
nhưng xét về bản chất, đó cũng chính là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội theo quan
niệm của Người. Trong bản Di chúc, Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng
của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. [33; 624]
Như vây, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống
cho nhân dân. Đó là sự tin tưởng cao độ vào lý tưởng vì dân. Theo Người, muốn
nâng cao đời sống cho nhân dân phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội theo quan niệm của Hồ Chí Minh đã khẳng định tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội so với các chế độ đã tồn tại trong lịch sử là chỉ ra nhiệm vụ giải
phóng con người một cách toàn diện, theo các cấp độ: từ giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, xã hội đến giải phóng từng cá nhân con người, hình thành liên
hiệp các nhân cách phát triển tự do. Đồng thời, Người còn xác định mục tiêu cụ
thể của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội.


21


* Các mục tiêu cụ thể
- Về chính trị:
Theo Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chế độ
chính trị phải là chế độ chính trị dân chủ, do nhân dân lao động là chủ và làm
chủ; Nhà nước là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước có hai chức năng: dân chủ
với nhân dân, chuyên chính với kẻ thù của nhân dân. Hai chức năng đó không
tách rời nhau, mà luôn luôn đi đôi với nhau. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
phải phát huy quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân; mặt khác, lại
yêu cầu phải chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân,
chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường
và biện pháp thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, nâng cao năng lực hoạt
động của các tổ chức chính trị – xã hội của quần chúng; củng cố các hình thức
dân chủ đại diện, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp, xử lý và phân định rõ chức năng của chúng.
Hồ Chí Minh xác định rõ dân chủ như một giá trị phổ biến mà loài người
mong muốn và đến chế độ xã hội chủ nghĩa, giá trị phổ quát này mới đạt đến
mức độ hoàn bị nhất. Giá trị dân chủ là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội được
Người diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, nhưng ẩn chứa nhiều điều lớn
lao, hệ trọng: dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân; chế độ ta là chế độ dân
chủ, tức là nhân dân là người chủ; bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền
hạn đều của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Mặt khác, Người còn
xác định dân chủ như một động lực của sự phát triển: thực hành dân chủ là chiếc
chìa khoá vạn năng giải quyết mọi khó khăn; dân chủ là chìa khoá của mọi tiến
bộ và phát triển… Quan niệm này đặt nền tảng và giữ vai trò chủ đạo trong lý
luận xây dựng Nhà nước, xây dựng mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, nhất là
trong điều kiện Đảng cầm quyền và lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo hệ thống chính

trị.
- Về kinh tế:
Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa chỉ được đảm bảo và
đứng vững trên một cơ sở kinh tế vững mạnh.

22


×