ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---
BÙI THỊ THU HIỀN
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---
BÙI THỊ THU HIỀN
TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: CNDVBC&CNDVLS
Mã số: 62.22.80.05
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa
2. TS. Hà Thiên Sơn
Phản biện độc lập:
1. PGS.TS. Lê Thị Thủy
2. PGS.TS. Huỳnh Thị Gấm
Phản biện trong Hội đồng:
1. PGS.TS. Huỳnh Thị Gấm
2. PGS.TS. Lê Trọng Ân
3. PGS.TS. Lương Minh Cừ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa và TS. Hà Thiên Sơn. Tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của công trình khoa học này.
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2015
Tác giả
BÙI THỊ THU HIỀN
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH .............................. 14
1.1.
ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH ········ 14
1.1.1. Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX với việc hình thành tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh ........................................................................ 14
1.1.2. Tình hình kinh tế, chính trị - xã hội, Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX với việc hình thành tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh ..................... 18
1.1.3. Các phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp xâm lược ........................ 23
1.2. TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
................................................................................................................................. 29
1.2.1. Tư tưởng chính trị và giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam .............. 29
1.2.2. Tư tưởng chính trị và tinh hoa văn hóa Đông – Tây .................................. 37
1.2.3. Tư tưởng chính trị Mác – Lênin .................................................................. 46
1.2.4. Phương pháp tư duy của Hồ Chí Minh ....................................................... 52
1.3. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ
MINH ............................................................................................................. 56
1.3.1. Giai đoạn Hồ Chí Minh tìm tòi, lựa chọn, thể nghiệm con đường hoạt động
chính trị (1911-1920) ................................................................................... 58
1.3.2. Giai đoạn Hồ Chí Minh xúc tiến chuẩn bị các tiền đề để thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam (1920-1930) ................................................................. 62
1.3.3. Giai đoạn Hồ Chí Minh tiếp tục chuẩn bị các tiền đề, thiết lập các tổ chức
chính trị để giải phóng dân tộc (1930-1945) ............................................... 65
1.3.4. Giai đoạn Hồ Chí Minh củng cố, hoàn thiện bộ máy Đảng, Nhà nước và tập
hợp, đoàn kết các tổ chức chính trị - xã hội trong Mặt trận Tổ quốc (1945-
1969) ........................................................................................................... 68
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 71
Chương 2: NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ HỒ CHÍ MINH .................................................................................................. 74
2.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH . 75
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thể chế chính trị và quyền lực chính trị ......... 75
2.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ thống chính trị ........................................... 88
2.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu chính trị và đường lối chính trị của cách
mạng Việt Nam .................................................................................................... 123
2.2. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ
MINH ......................................................................................................... 131
2.2.1. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh mang tính khoa học, cách mạng,
triệt để ........................................................................................................ 131
2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh có sự thống nhất chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn
................................................................................................................... 134
2.2.3. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh có sự thống nhất giữa tính giai cấp, tính dân
tộc và tính thời đại .................................................................................... 139
2.2.4. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh mang tính nhân văn sâu sắc ................ 143
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................... 147
Chương 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ......................................................................................................... 151
3.1. KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM ......................... 151
3.1.1. Khái niệm và đặc điểm hệ thống chính trị Việt Nam .............................. 151
3.1.2. Thực trạng hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới ........................................................................................................ 158
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ
MINH VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY ....................................................................................... 169
3.2.1. Giải pháp xây dựng Đảng Cộng sản trong sạch, vững mạnh 172
3.2.2. Giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ...................... 178
3.2.3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội ........................................................................................ 197
3.2.4. Nâng cao dân trí và thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội .................... 201
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ................................................................................... 214
KẾT LUẬN CHUNG ........................................................................................ 216
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 220
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh (1890-1969) là lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là
nhà tư tưởng, nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam, người đã đưa Việt Nam
bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung, trong đó có tư tưởng chính trị của Người, là
kim chỉ nam hướng dẫn cách mạng Việt Nam thành công vang dội. Đặc biệt,
dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, hệ thống chính trị dân chủ ở Việt Nam
được hình thành, phát triển và từng bước được hoàn thiện cùng với tiến trình
phát triển của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta từ đầu thế kỷ XX đến nay. Đó là một hệ thống chính trị kiểu
mới, mang bản chất giai cấp công nhân và đại biểu cho lợi ích của toàn dân
tộc. Trong hệ thống đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân và giữ vai trò
lãnh đạo; “Nhà nước ta là cột trụ của hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện
quyền lực của nhân dân” [37, tr. 44], là người tổ chức, quản lý, điều hành xã
hội, thực hiện rộng rãi quyền làm chủ của nhân dân. “Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp,
vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi
ích hợp pháp của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc
sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội” [43, tr.124]. Sự vững
mạnh (hay suy yếu) của hệ thống chính trị có vai trò quyết định đến thắng lợi
(hay thất bại) của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, các thành tố trong hệ thống
chính trị có vai trò to lớn đối với những thắng lợi vĩ đại của đất nước. Đảng ta
là một Đảng cầm quyền, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên cường và dày
dạn trong đấu tranh cách mạng; một đảng có tầm trí tuệ cao nhờ nắm vững và
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; giải
quyết một cách đúng đắn và sáng tạo các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi trong công
2
cuộc chống giặc ngoại xâm, xây dựng Tổ quốc và đưa đất nước bước vào một
thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế. Trong những năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà
nước đã có những bước trưởng thành vượt bậc trong việc thực hiện vai trò,
chức năng, nhiệm vụ của mình đối với tổ chức, quản lý, điều hành các quá
trình kinh tế - xã hội, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội; các tổ chức đoàn thể nhân dân không ngừng phát
triển và ngày càng nâng cao vai trò làm chủ của mình trong mọi lĩnh vực…
Thế nhưng, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực tế còn tồn tại nhiều
vấn đề cả về lý luận và thực tiễn cần tập trung giải quyết, chẳng hạn, việc đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn lúng túng “chưa làm sáng tỏ được
một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta” [44, tr. 172-173]. Công tác cán bộ chậm đổi mới,
thiếu cơ chế, chính sách cụ thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác
cán bộ, phát hiện và sử dụng người tài; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và
quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Bộ máy tổ
chức các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị
- xã hội còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc trung gian. Phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước.
Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền
hà cho tổ chức và nhân dân. Chủ trương, quan điểm của Đảng về đại đoàn kết
toàn dân tộc, về quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa
được thể chế hóa đầy đủ thành pháp luật; hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa
được thực hiện nghiêm túc. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội còn mang tính hành chính, chưa sâu sát các tầng lớp nhân
dân và cơ sở. Đặc biệt là những khuyết tật trong đạo đức công mà sinh thời
Hồ Chí Minh đã phê phán như căn bệnh chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham ô,
lãng phí… đang làm tổn hại đến mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân
dân, làm xói mòn lòng tin của nhân dân, làm phương hại lớn đến nền dân chủ
3
nhân dân. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái
về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ
nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức
tạp…” [44, tr.173]. Trong tình hình ấy, việc nghiên cứu, làm rõ nội dung và
đặc điểm của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, từ đó vận dụng đề xuất các giải
pháp góp phần phát triển, hoàn thiện hệ thống chính trị của đất nước và làm
cho nó vận hành đồng bộ, nhịp nhàng và có hiệu quả là hết sức cần thiết và
cấp bách, nhất là trong bối cảnh Đảng và nhân dân ta đang đẩy mạnh việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị và coi đó là một nội dung trọng tâm của
quá trình đổi mới đất nước.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có Tư tưởng chính trị của Người là
một vấn đề lớn, chứa đựng rất nhiều nội dung sâu sắc, mang tính cách mạng,
khoa học và nhân văn cao cả. Chính vì vậy, vấn đề này đã và đang thu hút sự
quan tâm của đông đảo các nhà khoa học trong nước và trên thế giới với
nhiều công trình nghiên cứu, nhiều hội thảo, nhiều ý kiến trao đổi. Khái quát
lại, các công trình nghiên cứu về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh được tập
trung theo các hướng: Những công trình nghiên cứu về quá trình hình thành,
phát triển và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh; Nghiên cứu
những vấn đề liên quan đến tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh; Nghiên cứu vận
dụng tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới.
Hướng nghiên cứu thứ nhất, đó là các công trình nghiên cứu về tư
tưởng Hồ Chí Minh qua tiến trình lịch sử với nội dung tư tưởng cơ bản của
Người. Liên quan đến chủ đề này có các công trình tiêu biểu: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam” (Võ Nguyên Giáp (Chủ biên),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003); “Sự hình thành về cơ bản tư tưởng
Hồ Chí Minh” (Trần Văn Giàu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997);
4
“Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh” (Phạm Văn Đồng, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998); Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương
biên soạn công trình “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Tiểu sử và sự nghiệp” (Nxb.
Sự thật, Hà Nội, 1960); Tác giả Đinh Xuân Lâm có công trình: “Góp phần
tìm hiểu tư tưởng và cuộc đời Hồ Chí Minh” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2005)… và nhiều công trình khác… Các công trình tiêu biểu kể trên đã
làm rõ các mốc lớn có tính quyết định, mang ý nghĩa bước ngoặt lịch sử trên
con đường hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh và đặc điểm của quá trình
hình thành và phát triển của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, sản phẩm của
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống và tinh hoa văn hóa thế giới...
Hướng nghiên cứu thứ hai là các công trình nghiên cứu trên nhiều góc
độ khác nhau về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh. Các công trình này đã khai
thác từng mặt, từng nội dung tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, đồng thời nêu
lên những giá trị và bài học lịch sử đối với dân tộc ta trong cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc trước đây cũng như trong công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước hiện nay. Tiêu biểu là các công trình: “Hồ Chí Minh với sự
nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Vũ Đình Hòe - Bùi
Đình Phong (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010); “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam” (Phạm
Hồng Chương, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003); “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Đảng” (Nguyễn Quốc Bảo, Nxb. Lao động, 1999); “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới, sự hình thành và phát triển”
(Hoàng Văn Hảo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995); “Đại cương lịch sử
các tư tưởng và học thuyết chính trị trên thế giới” (Nguyễn Thế Nghĩa, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999); “Phương pháp nhân nghĩa Hồ Chí Minh”
(Vũ Đình Hòe, Nxb. Trẻ, TP.HCM, 2006); “55 xây dựng nhà nước của dân,
do dân, vì dân” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001); “Hiến pháp năm
1946 và sự kế thừa phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam” (Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1998); “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay” (Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh - Kỷ yếu Hội thảo khoa
học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Chính
5
trị quốc gia, Hà Nội, 2010); “Xây dựng Đảng và rèn luyện đảng viên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh” (Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000); “Di chúc của
chủ tịch Hồ Chí Minh” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012); “Nguyên tắc
thống nhất giữa dân tộc, giai cấp và nhân loại trong tư tưởng Hồ Chí Minh”
(Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010); “Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn
biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh” (Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2012); “Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh” (Vũ Đình Hòe
(Nxb. Trẻ, TP.HCM, 2006); và những công trình khác.
Tác giả Vũ Đình Hòe - Bùi Đình Phong đồng chủ biên công trình: “Hồ
Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”
(Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010). Công trình tập trung làm rõ tư tưởng
Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc là cơ sở lý
luận cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Quá
trình hình thành hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
cách mạng giải phóng dân tộc bắt đầu hình thành từ khi Người ra nước ngoài
tìm đường cứu nước. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin gắn với quá
trình hoạt động thực tiễn sôi nổi, phong phú, tư tưởng Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc mang bản chất cách mạng và khoa học, soi sáng con
đường đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam, từ cách mạng
tháng Tám năm 1945 qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống hai đế quốc
to là Pháp và Mỹ, tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Công trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam” (Phạm Hồng Chương, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003) đã trình bày nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường và mục tiêu
cách mạng, về Đảng, về Mặt trận, về chính trị, về kinh tế, về ngoại giao, về
quan hệ quốc tế… Trong đó, tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh thể hiện ở nội
dung dân chủ và quyền lực của nhân dân, ở việc xây dựng nhà nước dân chủ,
xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân.
Trong công trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng” (Nguyễn
Quốc Bảo, Nxb. Lao động, 1999), tác giả đã làm rõ sự vận dụng sáng tạo của
6
Hồ Chí Minh và của Đảng ta về Đảng và xây dựng Đảng theo học thuyết Mác
- Lênin. Đồng thời, công trình nêu bật được nội dung cơ bản trong tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cũng như việc Đảng ta xây dựng theo tư
tưởng của Người với các nội dung: Đảng ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa
chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của
nhân dân ta; Đảng ta đã nắm vững và không ngừng nâng cao bản chất cách
mạng và khoa học của một Đảng Mác - Lênin; Đảng ta luôn xác định và
không ngừng nâng cao tính chất giai cấp công nhân của Đảng; Đảng ta đã nêu
lên 5 phương châm xây dựng Đảng và xác định cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ”…
Công trình “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới, sự hình
thành và phát triển” (Hoàng Văn Hảo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995), tác giả đã khẳng định: một trong những sự nghiệp vĩ đại của Hồ Chí
Minh là sáng lập ra nhà nước kiểu mới đầu tiên ở Đông Nam Á - Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời ngày 2/9/1945. Trong suốt giai đoạn lịch
sử từ khi thành lập cho đến khi Hồ Chủ tịch qua đời, Người đã để tâm sức chỉ
đạo xây dựng hai bản Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm
1946 và 1959; tổ chức xây dựng bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng
tiên phong của giai cấp công nhân. Có thể nói, cùng với việc xây dựng bộ
máy nhà nước, việc ban hành hệ thống pháp luật Việt Nam để quản lý mọi
mặt hoạt động của Nhà nước và xã hội đều thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ
Chí Minh về nhà nước kiểu mới…
Tác giả Nguyễn Thế Nghĩa chủ biên công trình: “Đại cương lịch sử
các tư tưởng và học thuyết chính trị trên thế giới” (Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1999). Công trình đã đề cập đến các nội dung trong tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh, bao gồm: Hồ Chí Minh đã kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam với chủ nghĩa quốc tế vô sản; kết hợp giữa đấu tranh giải phóng dân tộc
với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Hồ Chí Minh với việc xây dựng
một nhà nước của dân, do dân, vì dân…
7
“Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh”
(Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012). Trong công
trình này, tác giả đã làm rõ phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là một
nội dung cơ bản của phương pháp biện chứng cách mạng được Hồ Chí Minh
quán triệt trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Cái “bất biến”
lớn trong tư tưởng của Người là “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Đối với thực tiễn cách mạng, dù ở
những thời điểm khác nhau, Hồ Chí Minh luôn hướng về mục tiêu đã được
xác định và thực hiện mục tiêu ấy một cách linh hoạt, phù hợp với điều kiện
cụ thể của từng giai đoạn cách mạng…
Như vậy, trong các công trình tiêu biểu nói trên, các tác giả đã phân
tích khá kỹ các phương diện khác nhau liên quan trực tiếp (hay gián tiếp) đến
tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên
cứu sâu và có hệ thống tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh với tư cách là học
thuyết chính trị chỉ đạo nhất quán và xuyên suốt quá trình cách mạng Việt
Nam.
Hướng thứ ba là các công trình nghiên cứu vận dụng tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Liên quan đến vấn đề vận dụng tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh trong
thời kỳ đổi mới, có các công trình tiêu biểu: “Hồ Chí Minh - một con người,
một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp” (Phạm Văn Đồng, Nxb. Sự thật, Hà
Nội, 1990); “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay” (Học viện Chính
trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh - Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế
kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2010); “Hồ Chí Minh và minh triết Hồ Chí Minh” (Bùi Đình Phong,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008); “Vận dụng và phát triển sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới” (Bùi Đình Phong, Nxb. Lao
động, Hà Nội, 2007); “Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Mạch Quang Thắng, Nxb. Lao động,
Hà Nội, 2010); “Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng trong thời kỳ đổi mới” (Bùi Đình Phong - Phạm Ngọc Anh (Đồng chủ
8
biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006); “Phát huy các nguồn lực của
dân, làm lợi cho dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh” (Phạm Ngọc Anh, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012). “Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh và
công cuộc đổi mới đất nước” (Nguyễn Thế Nghĩa - Nguyễn Thanh Bình
(Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000); “Tư tưởng Hồ Chí
Minh mãi mãi soi đường chúng ta đi” (Ngô Văn Thạo (Chủ biên), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004); “Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh với việc
giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay” (Hoàng Trang - Phạm Ngọc
Anh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008); “Giải phóng dân tộc và đổi mới
dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh” (Bùi Đình Phong, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2004); “Hồ Chí Minh - Nhà dự báo thiên tài” (Trần Dương,
Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 2008); và những công trình khác.
Khi bàn về sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc đổi mới,
vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Phạm Văn Đồng có
công trình “Hồ Chí Minh - một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự
nghiệp” (Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990), Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Chủ
nghĩa xã hội theo đặc điểm Việt Nam là sự kết thúc thắng lợi hành trình lịch
sử của dân tộc mà Hồ Chí Minh đã vạch ra từ đầu thế kỷ, là sự thực hiện trọn
vẹn Di chúc của Người, là đỉnh cao của sự nghiệp ba giải phóng của Việt
Nam, từ đó chân trời càng mở rộng cho đà tiến cao xa hơn nữa, trên con
đường phát triển vô hạn của dân tộc, xã hội và con người” [48, tr. 85].
Trong tác phẩm: “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay” (Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh - Kỷ yếu Hội thảo khoa
học quốc tế kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2010), các tác giả đã làm rõ những cống hiến về lý luận
và thực tiễn của Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam và sự
tiến bộ của nhân loại trong thời đại ngày nay ở những nội dung cơ bản: Hồ
Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; Hồ
Chí Minh với cuộc đấu tranh vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại; và nhân
cách Hồ Chí Minh. Trong quá trình nghiên cứu di sản Hồ Chí Minh, công
trình đã làm rõ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ trong quá khứ, mà còn
9
tỏa sáng trong hiện tại và tương lai, những di sản Hồ Chí Minh - qua giá trị tư
tưởng và hành động của Người - vẫn còn nguyên vẹn, tiếp tục để lại một dấu
son trong sự phát triển bền vững của dân tộc và nhân loại. Hai mươi năm
trước (vào năm 1990), vấn đề này đã được khẳng định trong Hội thảo quốc tế
về Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức tại Việt Nam nhân kỷ niệm 100 năm ngày
sinh của Người.
Tác giả Bùi Đình Phong có công trình “Vận dụng và phát triển sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới” (Nxb. Lao động, Hà Nội,
2007). Trong công trình này, trên cơ sở phân tích sự phát triển trong nhận
thức và tư duy lý luận của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả làm sáng tỏ
sự vận dụng sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về đường lối độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội, về xây dựng Đảng, Nhà nước và thực hiện đại đoàn
kết dân tộc. Đồng thời, Đảng đã vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ
Chí Minh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, quân sự, ngoại
giao, văn hóa… Trong chương kết luận, tác giả đề ra nhiệm vụ tiếp tục khai
thác, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai
đoạn mới.
Tác giả Mạch Quang Thắng có công trình “Vận dụng và phát triển
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Nxb. Lao
động, Hà Nội, 2010). Trong công trình này, tác giả khái quát một cách có hệ
thống những nội dung cơ bản, giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí
Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; tập trung làm rõ quan niệm của Người
về tính tất yếu khách quan, bản chất, đặc trưng, mục tiêu, động lực phát triển
của chủ nghĩa xã hội; quan niệm về những đặc điểm, phương thức quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; nội dung, bước đi, biện pháp và các điều kiện bảo đảm
thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; từ đó khẳng định những sáng tạo
của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, công trình làm rõ quá trình
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả
đưa ra những cơ sở lý luận – thực tiễn và kiến nghị vận dụng sáng tạo và phát
triển tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội vào điều kiện hiện nay, nhất
10
là đóng góp luận cứ cho việc tổng kết, bổ sung phát triển Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh 1991).
Tác giả Bùi Đình Phong - Phạm Ngọc Anh đồng chủ biên công trình:
“Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong thời
kỳ đổi mới” (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006). Công trình đã khẳng
định, từ khi Đảng ta ra đời, tư tưởng Hồ Chí Minh đã tỏa sáng, soi đường cho
cách mạng Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, kinh tế đến
văn hóa, ngoại giao, v.v… Nhờ vậy, Đảng đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam
vượt qua bao khó khăn thử thách, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Trong những năm đổi mới, Đảng ta không những đã
có sự nhận thức đúng hơn và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, mà
còn vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều vấn đề. Để làm rõ
vấn đề này, công trình đã phân tích, lý giải 10 vấn đề cơ bản trong việc vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta trong công tác xây dựng Đảng: Sự
phát triển tư duy lý luận của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh; Sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách
mạng; Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; Thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; Nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính
trị, phẩm chất và năng lực của cán bộ, đảng viên, chống chủ nghĩa cá nhân;
Xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng; chăm lo xây dựng đội ngũ
cán bộ và công tác cán bộ của Đảng; Xây dựng và phát triển tổ chức cơ sở
Đảng; Đổi mới phương pháp lãnh đạo dân chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam
cầm quyền; Tăng cường quan hệ quốc tế của Đảng.
Tác giả Phạm Ngọc Anh có công trình “Phát huy các nguồn lực của
dân, làm lợi cho dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh” (Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2012). Công trình đã làm rõ vai trò quyết định của nhân dân trong
lịch sử, về những nhu cầu, lợi ích thiết thực của nhân dân, cũng như quan
niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các giải pháp liên quan đến nhận thức,
chính sách, thiết chế, thể chế, giáo dục nhằm phát huy các nguồn lực của nhân
dân trong xây dựng và chấn hưng dân tộc; thực trạng phát huy các nguồn lực
11
của dân làm lợi cho dân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong các công trình trên, các tác giả chủ yếu phân tích ý nghĩa của tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới ở các khía cạnh giáo
dục con người, xây dựng Nhà nước pháp quyền, nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, xây dựng văn hóa mới và phát huy quyền làm chủ của nhân dân… Tuy
nhiên, các tác giả chưa đi sâu phân tích và khái quát hóa những bài học có giá
trị đối với sự nghiệp phát triển, hoàn thiện hệ thống chính trị, trong đó có việc
xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; chưa làm rõ cơ chế
“Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - nhân dân làm chủ” trong bối cảnh đổi
mới và hội nhập quốc tế.
Như vậy, việc nghiên cứu Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh và Xây dựng
hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên
cứu dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng chưa có công trình mang tính hệ
thống và chuyên sâu, tập trung nghiên cứu làm rõ Tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh với sự nghiệp xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên, những công trình tiêu biểu kể trên là những tài liệu quý báu để tác giả
tiếp thu, kế thừa trong luận án này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Mục đích:
Mục đích của luận án là trên cơ sở làm rõ nội dung và đặc điểm cơ bản
của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, đề xuất và luận chứng các giải pháp góp
phần xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục đích trên, luận án phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích và khái quát những điều kiện và tiền đề hình thành tư
tưởng chính trị Hồ Chí Minh.
Hai là, phân tích những nội dung và đặc điểm cơ bản của tư tưởng
chính trị Hồ Chí Minh.
Ba là, đề xuất các giải pháp nhằm vận dụng tư tưởng chính trị Hồ Chí
Minh vào sự nghiệp xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.
12
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Nội dung tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh sâu sắc, phong phú, sinh động
được Đảng ta xác định là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động
cách mạng. Do đó, trong luận án này, tác giả chỉ tập trung vào việc làm rõ
những nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh trên các mặt: tư
tưởng Hồ Chí Minh về thể chế chính trị và quyền lực chính trị; Tư tưởng Hồ
Chí Minh về hệ thống chính trị; Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu chính trị
và đường lối chính trị của cách mạng Việt Nam; từ đó vận dụng vào việc xây
dựng hệ thống chính trị Việt Nam trong giai đoạn đổi mới và hội nhập quốc tế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vị trí, vai trò và ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng
Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và hoàn thiện hệ thống chính trị của
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận án, tác giả sử dụng các
phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Đồng thời, sử dụng các phương pháp cụ thể như: hệ thống cấu trúc, lịch sử và
lôgích, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, khái quát hóa…
Về tài liệu, tác giả sử dụng bộ sách Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 làm tư liệu gốc để nghiên cứu luận án. Bên
cạnh đó, tác giả lấy các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam làm tài liệu chuẩn định
hướng cho việc nghiên cứu luận án; đồng thời tham khảo các công trình
nghiên cứu của các nhà khoa học về tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, về xây
dựng hệ thống chính trị Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
6. Cái mới của luận án
- Luận án phân tích những điều kiện, tiền đề, quá trình hình thành, phát
13
triển tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh gắn liền với các sự kiện lịch sử xuyên
suốt quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
- Luận án phân tích và trình bày một cách có hệ thống tư tưởng chính
trị Hồ Chí Minh. Trong đó làm nổi bật những nội dung cơ bản và đặc điểm
đặc sắc có ý nghĩa thời đại trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh.
- Trên cơ sở đó, luận án luận chứng những giải pháp vận dụng sáng tạo
tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh vào quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ
thống chính trị Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của luận án đã làm rõ những nội dung cơ bản của
tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh trên các mặt: tư tưởng về thể chế chính trị và
quyền lực chính trị; tư tưởng về hệ thống chính trị; tư tưởng về mục tiêu
chính trị và đường lối chính trị của cách mạng Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn
Những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là những
bài học bổ ích góp phần vào sự nghiệp xây dựng hệ thống chính trị ở Việt
Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho công tác giảng dạy và nghiên cứu về Lịch sử tư tưởng, về tư
tưởng Hồ Chí Minh và xây dựng Đảng.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết, 24 tiểu tiết.
14
Chương 1
NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
1.1. ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH
Tư tưởng chính trị là hệ thống những quan điểm phản ánh quan hệ
chính trị, kinh tế giữa các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia
xung quanh vấn đề giành và giữ chính quyền, tổ chức và thực thi quyền lực
nhà nước. Tư tưởng chính trị bao giờ cũng nảy sinh từ những điều kiện kinh
tế - xã hội nhất định, phản ánh và đáp ứng các nhu cầu, lợi ích của lực lượng
xã hội nhất định trong lịch sử. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh là sự kết tinh
tư tưởng chính trị và giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam; tư tưởng
chính trị và tinh hoa văn hóa nhân loại, là sản phẩm của dân tộc và thời đại
mà thực tiễn lịch sử cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chính là mảnh đất ươm
mầm cho sự hình thành tư tưởng chính trị của Người.
1.1.1. Bối cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX với việc hình
thành tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
Vào nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền và đế quốc chủ nghĩa
trên phạm vi thế giới. Lúc này, chủ nghĩa đế quốc là một hiện tượng quốc tế,
một hệ thống thế giới, chúng vừa tranh giành, xâu xé thuộc địa, vừa liên kết
với nhau để nô dịch người lao động và các dân tộc thuộc địa.
Để mở rộng thị trường, khai thác sức lao động và tài nguyên thiên
nhiên, xuất khẩu tư bản…, chủ nghĩa đế quốc đã tiến hành các cuộc chiến
tranh xâm lược các quốc gia, các dân tộc nhỏ yếu, biến các quốc gia, các dân
tộc đó thành thuộc địa và thực hiện đàn áp, bóc lột tàn bạo “nhằm mục đích
cướp bóc các nước khác, bóp nghẹt các dân tộc nhược tiểu, thống trị thế giới
về mặt tài chính, chia và chia lại thuộc địa” [90, tr. 18].
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chỉ sáu nước đế quốc chi phối
toàn bộ tình hình thế giới: “Sáu nước (Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,
Mỹ, Hà Lan) với tổng số dân là 320 triệu người, với diện tích 11 triệu km2
15
đang bóc lột hàng trăm dân tộc với một dân số 560 triệu người, với diện tích
35 triệu km2. Toàn bộ lãnh thổ của các thuộc địa rộng gấp 5 lần lãnh thổ của
chính quốc, còn dân số của các nước chính quốc bằng 3/5 số dân các nước
thuộc địa” [107, tr.277]. Nhân dân các nước thuộc địa bị tước hết mọi giá trị
văn hóa tinh thần, quyền lợi kinh tế và địa vị xã hội. Đối với bọn đế quốc thực
dân, “tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng
một xu” [167, tr.30].
Không chỉ đàn áp, bóc lột nhân dân ở các nước thuộc địa, bộ máy cai
trị của chủ nghĩa đế quốc và tay sai còn không từ bất cứ bất cứ thủ đoạn nào
để vơ vét của cải, công sức của nhân dân chính quốc. Bởi vậy, qua nhiều năm
bôn ba ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã nhận rõ tính chất tiêu cực của chế độ
chính trị tư sản, đó là “con đỉa hai vòi”, một vòi hút máu nhân dân thuộc địa,
một vòi hút máu nhân dân chính quốc. Người đã đi đến kết luận: chủ nghĩa tư
sản, đế quốc ở đâu cũng tàn bạo, bất công; người lao động ở đâu cũng bị đọa
đày, đau khổ, “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người:
giống người bóc lột và giống người bị bóc lột” [107, tr. 266]. Tuy nhiên,
chính sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc đã khoét sâu những mâu thuẫn của
thời đại, thức tỉnh tinh thần đấu tranh của những con người cùng khổ trên toàn
thế giới. Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc đã gắn phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phong trào công nhân lại với nhau
ngày một chặt chẽ. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sang thế kỷ XX không
còn là hành động riêng rẽ của nước này chống lại sự xâm lược và thống trị
của nước khác như trước kia, mà đã trở thành cuộc đấu tranh chung của các
dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân gắn liền với
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản quốc tế.
Chủ nghĩa đế quốc và sự tranh chấp thuộc địa giữa chúng là nguyên
nhân gây ra cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918). Cuộc chiến
tranh hao người tốn của ấy đã khơi sâu, làm gay gắt thêm mâu thuẫn giữa các
nước tư bản chủ nghĩa, làm cho chủ nghĩa tư bản thế giới suy yếu, tạo điều
kiện cho cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga giành thắng lợi, mở ra
thời đại mới của lịch sử loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
16
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
“Cách mạng tháng Mười là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác và
học thuyết Lênin ở một nước lớn là Liên Xô, rộng một phần sáu thế giới. Đó
là thắng lợi vĩ đại nhất của giai cấp công nhân và đội tiên phong của họ là
Đảng Bônsêvích lãnh đạo. Cách mạng tháng Mười đã dùng bạo lực cách
mạng đánh đổ giai cấp tư sản và giai cấp phong kiến địa chủ, lập nên chính
quyền của những người lao động, xây dựng một xã hội hoàn toàn mới, một xã
hội không có người bóc lột người” [118, tr. 300-301], đưa chủ nghĩa xã hội từ
chỗ là ước mơ cao đẹp của loài người trở thành hiện thực. Mặc dù gặp nhiều
khó khăn, song nhà nước Xô-Viết non trẻ đã chèo lái con thuyền cách mạng
đứng vững trước thù trong, giặc ngoài, chống mọi tiêu cực, lạc hậu, thể hiện
bản chất tốt đẹp, trong sạch của một chế độ chính trị thực sự là của dân, do
dân và vì dân. Những thắng lợi đó là nguồn cổ vũ lớn lao cho các dân tộc
thuộc địa và triệu triệu con người cần lao vùng lên giải phóng mình và giải
phóng toàn xã hội. Sự kiện lịch sử này tác động khắp toàn cầu, nhất là đối với
các nước thuộc địa và phụ thuộc, và đã ghi dấu ấn đậm nét trong tư duy chính
trị Hồ Chí Minh.
Chìm đắm trong đêm dài nô lệ, nhân dân các nước thuộc địa bị áp bức
đã thức tỉnh mạnh mẽ trước tiếng sấm vang rền của cách mạng tháng Mười.
Họ đã tìm thấy ở cuộc cách mạng Nga một tấm gương đấu tranh, một con
đường giải phóng thật sự cho dân tộc. Vì vậy, dưới ảnh hưởng to lớn của Cách
mạng tháng Mười và tấm gương đầy sức cổ vũ của nước Nga Xôviết, một làn
sóng đấu tranh đã dấy lên sôi nổi ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Phong
trào giải phóng dân tộc đã bước sang một thời kỳ phát triển mới với khí thế
đấu tranh mạnh mẽ hơn và ý thức giác ngộ sâu sắc hơn. Nét nổi bật trong
phong trào giải phóng của các dân tộc là vai trò của giai cấp công nhân ngày
càng tăng lên, trở thành một lực lượng chính trị quan trọng và đông đảo quần
chúng nhân dân, trước hết là công nhân và nông dân, ngày càng hướng về
nước Nga Xôviết, nhanh chóng tiếp thu những tư tưởng cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Hệ tư tưởng mới này đã tác động mạnh mẽ, làm thay đổi
tư duy của nhiều dân tộc, nhiều nhà tư tưởng, trong đó có nhà tư tưởng vĩ đại
17
của cách mạng Việt Nam - Hồ Chí Minh, tạo nên sự biến chuyển sâu sắc
trong tư duy chính trị của Người. Người nhận thức sâu sắc: “Giống như mặt
trời chói lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh
hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài
người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”
[118, tr. 300]. Từ đó, Hồ Chí Minh đã quyết định đi theo con đường cách
mạng tháng Mười Nga, con đường cách mạng vô sản để giải phóng dân tộc và
đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sự thành công của Cách mạng tháng Mười Nga dẫn đến sự ra đời chế
độ xã hội chủ nghĩa, một chế độ xã hội mới, không còn nạn người bóc lột
người, xóa bỏ áp bức bất công, con người được tự do bình đẳng… đã trở thành
bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động chính trị của Hồ Chí Minh.
Như vậy, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, hoàn cảnh lịch sử thế giới có
rất nhiều yếu tố tác động mạnh mẽ đến việc hình thành tư tưởng chính trị Hồ
Chí Minh. Chủ nghĩa tư bản phương Tây phát triển mạnh mẽ, chuyển từ chủ
nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền và
chủ nghĩa đế quốc. Để phân chia lại thị trường và thuộc địa thế giới, chủ
nghĩa đế quốc đã phát động cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, tiến hành
các cuộc xâm lược sang các dân tộc phương Đông, trong đó có Việt Nam.
Thực tiễn sinh động ấy đã đặt ra nhiệm vụ mới cho dân tộc Việt Nam là phải
bằng con đường cách mạng nào để giành độc lập dân tộc, đem lại tự do cho
nhân dân, phát triển đất nước theo kịp các nước khu vực. Bên cạnh đó, phong
trào cách mạng vô sản phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là Cách mạng tháng Mười
Nga thắng lợi, chủ nghĩa xã hội đang trở thành hiện thực và là mong ước của
hàng triệu con người trên trái đất. Hệ tư tưởng của giai cấp công nhân ngày
càng ảnh hưởng rộng khắp trên phạm vi thế giới. Phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc của các dân tộc ngày càng phát triển nhanh chóng. Đây là
những sự kiện lịch sử chính trị rất lớn, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình
thành tư tưởng chính trị của vị lãnh tụ thiên tài Hồ Chí Minh.
18
1.1.2. Tình hình kinh tế, chính trị - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX với việc hình thành tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh
Việt Nam từ đầu thế kỷ XIX cho đến khi bị thực dân Pháp xâm lược là
một quốc gia phong kiến độc lập. Chế độ phong kiến đang trên bước đường
suy vong. Trong trào lưu xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương
Tây, từ năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu tiến công quân sự để chiếm
Việt Nam, biến Việt Nam từ một quốc gia phong kiến độc lập thành một nước
thuộc địa nửa phong kiến. Thực dân Pháp thiết lập bộ máy thống trị thực dân
và tiến hành cuộc khai thác thuộc địa nhằm bóc lột về kinh tế, áp bức về
chính trị và nô dịch về văn hóa.
Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai thác thuộc địa
lần thứ nhất và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chúng tiến
hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương với số vốn
đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh.
Về kinh tế, bên cạnh việc duy trì kinh tế nông nghiệp, thực dân Pháp
đẩy mạnh chính sách khai thác thuộc địa: Hình thành các đồn điền trồng lúa,
cao su... Khai thác vơ vét tài nguyên thiên nhiên (than đá, quặng, sắt, chì, cao
su…), nông sản (lúa gạo, hạt tiêu…), thủy hải sản… Nhưng thực dân Pháp
không du nhập một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước
ta, mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Chúng kết hợp hai phương thức
bóc lột tư bản và phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch dưới các hình thức
tô thuế nặng nề: “Chính sách thực dân ăn cướp, chẳng những đã tước đoạt
mất ruộng đất, của cải, đã xóa bỏ hết mọi quyền lợi, mọi quyền tự do - kể cả
quyền tự do thân thể của người dân bản xứ mà còn bắt họ phải nộp thuế về
những mảnh đất cằn cỗi còn lại trong tay họ, nộp thuế về nghề nghiệp sinh
sống của họ, nộp cả thuế không khí mà họ thở nữa” [107, tr. 408]. Chính vì
vậy, nền kinh tế Việt Nam bị kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng
nề vào kinh tế Pháp.
Về chính trị, chúng đặt ách cai trị thực dân, thi hành chính sách chuyên
chế với bộ máy đàn áp nặng nề. Mọi quyền hành của đất nước đều thâu tóm
19
trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ toàn quyền Đông Dương, thống
đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các
bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án, nhà tù...; biến vua quan Nam triều thành bù
nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố,
dìm các cuộc đấu tranh của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành
chính sách “chia để trị” rất thâm độc, chia nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một
chế độ cai trị riêng và nhập ba kỳ đó với Lào và Campuchia để lập ra liên
bang Đông Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng
gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc,
các địa phương, thậm chí là giữa các dòng họ; giữa dân tộc Việt Nam với các
dân tộc trên bán đảo Đông Dương. “Phác qua như thế, cũng đủ thấy... đế quốc
Pháp đã cắm vào đất An Nam chế độ đáng nguyền rủa của thời Trung cổ;
người nông dân An Nam bị hành hình vừa bằng lưỡi lê của nền văn minh tư
bản chủ nghĩa, vừa bằng cây thánh giá của giáo hội sa đọa làm ô danh Chúa”
[108, tr. 84].
Về văn hóa, chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây
tâm lý tự ti, vong bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong
bại tục. Chúng mở nhà thờ, các tụ điểm ma túy, mại dâm, cờ bạc… nhiều hơn
trường học và bệnh viện. Đặc biệt, “rượu cồn và thuốc phiện cùng báo chí
phản động của bọn cầm quyền bổ sung cho cái công cuộc ngu dân của chính
phủ. Máy chém và nhà tù làm nốt phần còn lại” [107, tr. 28]. Mọi hoạt động
yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và
ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và
thi hành chính sách ngu dân để dễ bề thống trị: “Trường học lập ra không phải
để giáo dục cho thanh niên... một nền học vấn tốt đẹp và chân thật, mở mang
trí tuệ và phát triển tư tưởng của họ. Mà trái lại càng làm cho họ đần độn
thêm. Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tùy phái, thông ngôn và viên chức
nhỏ đủ số cần thiết cho bọn xâm lược, người ta đã gieo rắc một nền giáo dục
đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa. Vì một nền giáo dục như
vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dậy cho họ một lòng
“trung thực” giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái kẻ mạnh hơn mình, dậy cho