Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tại sao và khi nào nên sử dụng chất bổ sung tuyến ức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.18 KB, 22 trang )

Tại sao và khi nào nên sử dụng chất bổ sung tuyến ức
( Được biên soạn bởi BioActive Research)
Tế bào diệt tự nhiên (NK) được phân loại về mặt hình thái học và các tiêu chuẩn khác
như những lympho bào nhưng không giống như những lympho bào khác, chúng là một
phần của tính đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu. Khả năng mang tính đáp ứng miễn dịch
đặc hiệu chống lại một kháng nguyên riêng biệt hoặc những kháng nguyên cư trú riêng lẻ
thuộc về các loại lympho bào còn lại, được biết như lympho B và lympho T (hay tế bào B
hay T). Những lympho bào này chỉ là những tế bào mang các protein chuyên biệt trên bề
mặt tế bào của chúng được gọi là những thụ thể thu nhận kháng nguyên, những thụ thể
này có thể gắn các kháng nguyên với tính đặc hiệu cao, giống như những chìa khoá gắn
vào ổ khoá. Việc gắn các kháng nguyên vào các thụ thể kháng nguyên trên bề mặt của
các tế bào B hoặc T đã khởi động một dòng thác các sự kiện trong tế bào và giữa các tế
bào cuối cùng dẫn đến một loại đáp ứng miễn dịch thích hợp cần thiết để dọn sạch các
kháng nguyên đặc hiệu ra khỏi cơ thể.
Trong suốt tiến trình này các tế bào nhớ được sinh ra, chúng sẽ đáp ứng các kháng
nguyên cùng loại cho toàn bộ những nguy cơ sau này, vì vậy mà tạo cho cơ thể tính miễn
dịch chống lại bệnh tật như đã quan sát thấy từ lâu.
Tế bào T được sinh ra từ tuỷ xương, nhưng phải chuyển đến tuyến ức, một cơ quan
dẹp có hai thuỳ ở phía trên của tim, để trưởng thành. Tế bào T giúp đỡ (T helper) sinh ra
protein CD4 và kích thích kháng nguyên, nó hỗ trợ cho cả tế bào T và B. Khả năng của tế
bào T và B trong hệ thống miễn dịch là nhận biết và nhớ từng kháng nguyên riêng lẻ một
cách đặc hiệu, chúng tạo ra tính miễn dịch. Vì vậy hệ thống miễn dịch rất quan trọng
không những giúp tiêu diệt các kháng nguyên mà cả các tế bào khuyết tật, nhiễm bệnh
hay cả các tế bào lạ.
Sự đáp ứng tế bào hay đáp ứng độc tố tế bào là khả năng của tế bào dung giải, đã tiến
triển để đáp ứng sự cần thiết này.
Chúng ta chưa biết một cách chính xác như thế nào và khi nào điều này xảy ra,
nhưng tế bào nhớ như vậy đã hiện diện trong cơ thể và có thể tồn tại suốt đời. Có một số
tình huống lâm sàng trong đó sự tương tác phức hợp cần thiết cho đáp ứng kháng
nguyên đặc hiệu bị phá vỡ. Những sự phá vỡ như thế cũng có thể là một tác dụng phụ
trong điều trị không tránh khỏi như xạ trị và hoá trị trong điều trị bệnh ung thư.


Thực nghiệm lâm sàng có thể được xem như là sự trợ giúp trong việc giải thích các
nguyên nhân cơ bản của sự rối loạn miễn dịch, và để kiểm tra tiến trình của một cá thể.
Những sự thiếu hụt miễn dịch được quan sát thấy ở người già và ở các bệnh trầm trọng
thì được liên hệ với phần lớn các trường hợp bất thường về mức các yếu tố tuyến ức.
Tế bào lympho T hoạt hoá và phóng thích các chất thông điệp (cytokines) những chất
này làm gia tăng đáp ứng miễn dịch và kích thích lymphocyte B sản xuất kháng thể. Một
loại lympho T khác có một tác động tế bào trực tiếp trên sự hiện diện tế bào của các
mảnh ký sinh trùng, do đó mà hoàn tất sự đáp ứng miễn dịch. Một số lớn các yếu tố khác
biệt rất cần thiết để duy trì một sự sản xuất cân bằng giữa các loại tế bào lympho T. Khi
một tế bào lympho T được hoạt hoá, tế bào lympho T được ủy thác sẽ tồn tại suốt đời,
nhưng sự tồn tại của chúng tuỳ thuộc vào sự hiện diện của các yếu tố tuyến ức. Theo
cách đó, tế bào lympho T được ủy thác tạo nên một thành phần chủ yếu của sự nhớ miễn
dịch, cho phép cơ thể phản ứng một cách nhanh chóng chống lại kháng nguyên xâm
nhập.
Tuổi càng lớn tuyến ức dần dần giảm kích thước và hoạt động do hiện tượng tự
nhiên được chương trình hoá về mặt di truyền. Sự suy giảm các yếu tố tuyến ức có
nguyên nhân do bệnh tật hay có tuổi được qui cho sự rối loạn chức năng hệ thống miễn
dịch trầm trọng. Sau đó, cơ thể rất khó chống lại các nhiễm trùng và dần dần tiêu hao
năng lượng sống của cá thể nhiễm bệnh.
Việc dùng trích xuất tuyến ức và các peptide đặc biệt ở bệnh nhân ung thư đã có một
lịch sử lâu dài. Vào 30 năm trước, việc đưa vào sử dụng các chế phẩm tuyến ức đã mở
1


ra một phương pháp chữa bệnh phụ trợ đầy hứa hẹn trong bệnh ung thư. Chừng mực
nào đó đây là do hiệu quả điều biến miễn dịch của nó trên tế bào T và tính đáp ứng sinh
sản tế bào lympho.
Sự lựa chọn một chế phẩm tương xứng trong số các peptide tuyến ức đã được ứng
dụng và tuỳ thuộc trước tiên vào tình trạng sức khoẻ của người bệnh. Chế phẩm tuyến ức
cung cấp một liệu pháp điều biến miễn dịch được dùng:

- Trước phẫu thuật để gia tăng tính miễn dịch.
- Sau phẫu thuật để kích thích hệ thống MD.
- Trước xạ trị để bảo vệ tuỷ xương.
- Sau xạ trị để làm giảm đi tác dụng phụ của xạ trị.
- Trước hoá trị để bảo vệ cơ thể chống lại tác dụng phụ.
- Sau hoá trị để sửa chữa hư hỏng miễn dịch.
- Sử dụng như tác nhân phòng ngừa chống lại sự di căn để duy trì cân bằng miễn dịch.
- Trong điều trị các bệnh cơ hội.
Các chế phẩm tuyến ức thì rất khác nhau về thành phần. Mỗi thành phần đơn lẻ
trong công thức phối hợp ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch ở mức độ khác nhau,
vì vậy những hiểu biết về nó quyết định cho việc lựa chọn những chế phẩm tương
xứng. Sự lựa chọn kỹ lưỡng của các bác sĩ và các nhà điều trị chuyên khoa sẽ dễ
dàng để lựa chọn các loại chế phẩm tuyến ức nào hữu ích hơn.
Trích xuất tuyến ức:
Tài liệu tóm lược các bài viết nghiên cứu lâm sàng quốc tế
Tiến sĩ James L. Wilson biên soạn
Hai mươi năm qua đã chứng kiến một sự nghiên cứu bùng nổ về hệ thống miễn dịch
và các tác nhân chi phối nó. Một lãnh vực của nghiên cứu liên quan đến việc sử dụng các
trích xuất tuyến ức. Các trích xuất này đã chứng minh có lợi ích một cách đáng ngạc
nhiên trong hàng loạt các bệnh, đôi khi chỉ là sự điều trị có hiệu quả (Skotnicki 89, Kouttab
89, Hadden 89).
Tổng quan
Sơ lược về tính miễn dịch tế bào và tính miễn dịch thể dịch
Mặc dầu tính miễn dịch liên quan đến một hệ thống riêng của cơ thể, nhưng khái niệm
điển hình của hệ thống miễn dịch gồm có các tế bào lympho được chia thành hai lãnh vực
chính: miễn dịch thể dịch và miễn dịch trung gian tế bào. Miễn dịch thể dịch trước tiên bao
gồm các tế bào lympho B và tạo ra phản ứng kháng nguyên/kháng thể. Đây là những
phản ứng thuộc loại I (tăng tính cảm ứng trực tiếp, đáp ứng IgE, phản vệ), loại II ( các
bệnh tiêu huyết ở trẻ sơ sinh cũng được biết như chứng tăng hồng cầu ở thai nhi) và loại
III ( Arthrus ) tăng tính nhạy cảm. Trong các phản ứng kháng nguyên/kháng thể, tế bào

lympho B tạo ra kháng nguyên chống lại kháng thể. Kháng nguyên là một chất bất kỳ, một
protein điển hình mà cơ thể nhận ra không giống của nó. Kháng thể tấn công kháng
nguyên bằng việc kết thành khối xung quanh nó. Đồng thời chúng làm kháng nguyên yếu
đi và làm dấu hiệu cho các chuyên gia khác của hệ miễn dịch (đặc biệt là hệ thống bổ thể
và thực bào) làm bất hoạt và tống các kháng nguyên ra ngoài. Sự tiếp xúc gián tiếp của
lympho B với kháng nguyên là rất cần thiết. Tuy nhiên, tính miễn dịch tế bào trước tiên
được dàn xếp bởi tế bào lympho T và bao gồm hàng loạt các tiếp xúc từ tế bào đến tế
bào tới các vi khuẩn và các nguồn bệnh khác. Tế bào giúp đỡ T helper, tế bào ức chế T
suppressor, tế bào độc tính tế bào T cytotoxic, tế bào giết killer (K) và tế bào giết tự nhiên
(NK) là các bộ phận của hệ thống MD tế bào. Đại thực bào và đơn bào cũng được các
thành viên của đội quân tế bào tuyển mộ và là những chiến sĩ trực tiếp chiến đấu với
bệnh tật và các tế bào phản bội, chúng là nguyên nhân của hầu hết các bệnh mãn tính
mà chúng ta mắc phải. Vì vậy mà tính miễn dịch của nhánh tế bào có nhiệm vụ chống lại
2


tế bào tân sản, tế bào lão hoá cũng như virus và nấm (Odds 94), và một số loại vi trùng
(Berkow 87, P260) và các bệnh ký sinh trùng (Rothbard 90, Gasbarre 82).
Sự trưởng thành của tế bào lympho T
Về mặt nguồn gốc, tế bào lympho T trưởng thành ở tuyến ức nhưng chúng là một
phần của dòng tế bào tuỷ xương và có nguồn gốc từ tuỷ xương. Trong quá trình phát
triển, chúng mang những dấu hiệu đặc biệt trên bề mặt tế bào mà chúng ta dùng nó để
nhận dạng các loại tế bào. Những dấu hiệu này thay đổi khi tế bào trưởng thành. Tế bào
tuyến ức chưa trưởng thành ở tuỷ xương mang dấu hiệu CD1 (gọi là T1). Một số trong
chúng di trú đến tuyến ức để bắt đầu trưởng thành ở giai đoạn cuối cùng của thời kỳ thai
nghén. Số còn lại tiếp tục di chuyển đến tuyến ức suốt đời với sự di trú cao nhất trong 2
năm đầu tiên và lúc 13-16 tuổi. Để trưởng thành và bắt đầu di chuyển khỏi tuỷ xương, các
thymo bào bỏ dấu hiệu CD1 và bắt đầu mang dấu hiệu CD3. Khi một tế bào CD3 (được
gọi là T3) tiếp xúc với một kháng nguyên thích hợp cho tính đáp ứng miễn dịch tế bào.
Mỗi tế bào T được đảm trách đến kháng nguyên riêng biệt và trở thành T helper/T

inducer và từ đó thêm vào một dấu hiệu CD4 (được gọi là T4) trên bề mặt của nó. Các tế
bào T khác chuyển thành tế bào ức chế (suppressor) hoặc tế bào độc tố tế bào (cytotoxic)
chúng mang dấu hiệu CD8 (được gọi là TS). Khi tế bào T được uỷ thác, chúng tồn tại lâu
dài và ủy thác đến các kháng nguyên đó suốt đời, tuy nhiên sự hiện diện của các
hormone tuyến ức giúp chúng hoạt động bình thường (Berkow 87, P260-1). Các hormone
tuyến ức và các sản phẩm tế bào dòng dưới (như interleukine và interferon) kiểm soát
toàn bộ giai đoạn trưởng thành, phát triển các kháng nguyên ủy thác, các hoạt động sinh
sản và hoạt động độc tố tế bào của các loại tế bào T. Hormone tuyến ức cũng kích thích
các thực bào không đặc hiệu và tế bào độc tố tế bào để đáp ứng chống lại các kháng
nguyên lạ hoặc các kháng nguyên không phải của cơ thể.
Nguyên nhân của chức năng miễn dịch thoả hiệp:
Có thể gây ra một vài tổn thương cho hệ miễn dịch nhưng quả thật không phải là dễ.
Thực ra đây là sự phối hợp của những gì cơ thể bị tiếp xúc và khả năng đáp ứng của cơ
thể bao gồm tính đáp ứng miễn dịch đầy đủ. Trong bất kỳ dịch bệnh nào, chỉ có một tỉ lệ
những cá thể tiếp xúc bị lây nhiễm, chỉ có một tỉ lệ cá thể bị lây nhiễm bị bệnh và chỉ có
một tỉ lệ cá thể bị bệnh không qua khỏi và chết. Sự khác nhau trong mỗi giai đoạn là sự
thích ứng đầy đủ của hệ thống miễn dịch. Có nhiều các yếu tố đã được chứng minh là
ảnh hưởng đến tính miễn dịch. Tình trạng dinh dưỡng đã được chứng minh là nền tảng
cho tính đáp ứng miễn dịch đúng đắn. Việc sử dụng chất dinh dưỡng không đủ là nguyên
nhân đặc biệt trong suy giảm miễn dịch tế bào T; ảnh hưởng đến test thử tăng tính mẫn
cảm da loại chậm, và làm giảm số lượng tế bào T, ảnh hưởng sự đáp ứng sinh sản đối
với tính kích thích phân bào lympho và hoạt động độc tố tế bào. Thêm vào tình trạng dinh
dưỡng toàn diện và sự sử dụng dinh dưỡng tối ưu phụ trợ, những điều kiện sau cũng đẩy
cơ thể vào tình trạng miễn dịch dung hòa: luyện tập quá độ hay không luyện tập, chấn
thương cơ thể, đặc biệt bao gồm chấn thương đầu, bỏng, thiếu ngủ, mệt mỏi quá độ, nhịn
đói, hút thuốc lá, uống nhiều rượu, sử dụng lặp lại hầu hết các thuốc bao gồm các
barbiturate, cocain, ma tuý và các thuốc thuộc nhóm steroid và narcotic; sử dụng các chất
gây stress như hoá trị, phẫu thuật, xạ trị và một số kháng sinh; thời tiết quá lạnh hay quá
nóng; các bệnh mãn tính. Các thử nghiệm lâm sàng được tóm tắt trong những bài viết
sau đây đã cố kiểm chứng nhiều hơn một trong những thay đổi này. Những yếu tố góp

phần ảnh hưởng đến toàn bộ tình trạng miễn dịch sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả
của liệu pháp miễn dịch đặc hiệu trong việc hồi phục tính đáp ứng miễn dịch đủ.
Trích xuất tuyến ức
Thành phần của trích xuất tuyến ức
3


Có một vài nhầm lẫn liên quan đến thành phần của các trích xuất tuyến ức.Trong các sản
phẩm đó chứa lượng khác nhau của ba loại hormone tuyến ức có hoạt tính được phân
lập từ tuyến ức: thymulin (còn gọi là yếu tố tuyến ức thể dịch hay FTS), thymopoietin và
thymosin alpha. Hai chất có hoạt tính khác được tinh chế riêng, thymosin (TP-1), cũng
chứa các thành phần của lympho bào và tế bào biểu mô thêm vào một trong những
hormone tuyến ức. Phân đoạn tuyến ức ngắn nhất có hoạt tính là một oligopeptide (phân
đoạn V) có trọng lượng phân tử 3108 dalton. Những nhầm lẫn khác xảy ra là do các bài
viết lệch lạc của một số công ty tuyên bố rằng các sản phẩm của họ không có hormone.
Các chế phẩm thương mại, dù là dạng lỏng hay rắn, có chứa ít nhất một trong ba
hormone tuyến ức bởi vì sự lấy ra toàn bộ các hormone tuyến ức và các phân đoạn có
hoạt tính từ chất đệm và mô mềm của các mô tuyến ức là một qui trình rất khó khăn.
Theo hiểu biết của tác giả, không có chế phẩm thương mại nào tuyên bố là đã lấy hết các
phân đoạn hormone ra khỏi những phân tử có trọng lượng thấp này do chi phí tốn kém
đòi hỏi một màng lọc và thiết bị đặc biệt và khó để đạt tiêu chuẩn thương mại. Tuy nhiên,
sự tinh chế một hoặc nhiều phân đoạn tuyến ức đã được thực hiện thành công về mặt
thương mại trong nhiều năm. Hầu hết các phân đoạn tuyến ức có trên thị trường hiện nay
được trích xuất từ tuyến ức bò, trừ thymolin có nguồn gốc từ huyết thanh heo.
Đặc tính sinh học của trích xuất tuyến ức:
Mặc dầu có một số bằng chứng cải thiện chức năng của tế bào lympho B nhưng hầu hết
các cải thiện được thấy khi dùng các trích xuất tuyến ức là ở miễn dịch nhánh tế bào liên
quan đến tế bào lympho T (helper/inducer, suppressor, cytotixic, NK cells, K cells và đại
thực bào). Các trích xuất tuyến ức đã được chứng minh giúp điều biến sự sinh sản, sự
trưởng thành và hoạt hoá tế bào lympho T, đại thực bào và kích thích sự biến chuyển các

tế bào tuyến ức chưa trưởng thành (T6 cells) thành T 3 không cố định (T3 cell) trong tủy
xương người. Ở những tế bào T trưởng thành hơn, trích xuất tuyến ức đã được chứng
minh làm gia tăng một cách hiệu quả số lượng và chức năng của tế bào T helper/inducer
(T4) và tế bào suppressor (T8). Trích xuất tuyến ức cũng được chứng minh làm gia tăng
tính đáp ứng tới concanavalin A (ConA) và phytohemagglutinin (PHA) (Các chất có nguồn
gốc thực vật làm tăng sinh lympho bào), ngay cả ở những bệnh nhân bị khối u ác tính ở
đường tiêu hoá hoặc trong các tế bào được điều trị với cyclophosphamide, một chất ức
chế miễn dịch mạnh. Đây là sự khám phá quan trọng vì cả PHA và Con A là những thành
phần chính trong test vitro kích thích tăng sinh cho tế bào T, gia tăng hoạt động độc tố tế
bào gia tăng trong tế bào T cytotoxic. Các tế bào lympho ở bệnh nhân bị u ác tính và họ
được điều trị bằng thuốc như cyclophosphamid là một sự không đáp ứng một cách điển
hình với PHA hay Con A.
Vì vậy mà, trích xuất tuyến ức tạo ra tính đáp ứng miễn dịch trong các test thực
nghiệm, thậm chí ở những bệnh nhân bị miễn dịch dung hoà họ đã không đáp ứng trước
đó. Thêm vào các test thực nghiệm về khả năng miễn dịch, các test lâm sàng về tính
miễn dịch tế bào đôi khi được ứng dụng. Thông thường nhất là các test thử gia tăng tính
miễn dịch loại chậm. Một số lượng nhỏ của các test kháng nguyên như candida,
streptominase/streptodornase, tetanus texoid, quai bị, và kháng nguyên nấm trichophyton
khi chúng ta tiêm dưới da. Các kháng nguyên này thường tạo ra sự hiện diện của một nốt
phồng hay chai da thành vòng có đường kính vài millimet, 24-48 giờ sau khi tiêm. Việc
thiếu phản ứng đến nhóm kháng nguyên này biểu lộ một thiếu hụt khả năng đáp ứng
miễn dịch tế bào. Trích xuất tuyến ức đã được chứng minh làm tái sinh và/hoặc gia tăng
sự sinh sản và hoạt tính của lympho T và đại thực bào và/hoặc phục hồi hiệu một cách
hiệu quả tính đáp ứng trong các test da ở những bệnh nhân không đáp ứng trước đó.
Trích xuất tuyến ức của bò, cừu hoặc heo đã được sử dụng hơn 65 năm trước. Hầu hết
các nghiên cứu cơ sở và lâm sàng đã được dẫn ra ở Nga, Balan, Ý, Tây ban nha, Đức và
Thuỵ sĩ. Có nhiều sản phẩm tuyến ức dạng lỏng khác nhau trong các bài viết. Nhìn
chung, kết quả sử dụng của các chế phẩm này đáng khích lệ, chứng tỏ tính hiệu quả của
các phân đoạn tuyến ức dù dùng dưới dạng tiêm hay uống.
4



Ứng dụng lâm sàng của trích xuất tuyến ức
Như đã nói ở trên, tính miễn dịch của nhánh tế bào có nhiệm vụ chống lại các bệnh
virus gây bệnh mãn tính, nấm, men bia, nhiễm ký sinh trùng cũng như sự tân sản và lão
hoá. Trích xuất tuyến ức đã được sử dụng trên lâm sàng theo nhiều cách bao gồm một số
các bệnh này. Chúng đã được dùng bằng đường miệng hay tiêm, một mình hay phối hợp
các điều trị khác. Trích xuất tuyến ức được dùng điều trị các dị ứng trầm trọng và mãn
tính bao gồm các bệnh về đường hô hấp, da cũng như các bệnh nhiễm trùng cấp và mãn
tính trầm trọng. Trích xuất tuyến ức cũng được chứng minh làm giảm nhiễm trùng sau
phẫu thuật, giảm những tổn hại của hoá trị và xạ trị và được dùng phụ trợ với điều trị
chính trong bệnh tăng sản. Sự tóm tắt các bài viết được trình bày dưới đây là một khảo
sát của các bệnh được điều trị bằng trích xuất tuyến ức và chứng tỏ nghiên cứu được
hoàn tất cập nhật việc sử dụng tuyến ức.
Sự nhiễm trùng
Cơ chế phản ứng trong đáp ứng MD chống lại các tác nhân bệnh chủ yếu là thực bào,
tế bào tìm diệt tự nhiên (NK), tế bào hạt, tế bào lympho T và B. Sự cải thiện lâm sàng tuỳ
thuộc nhiều vào số lượng và khả năng của những tế bào này. Do đó mà, tính MD tế bào
là cốt lõi để cơ thể hồi phục hợp lý khỏi các tình trạng nhiễm trùng.
Các bệnh về đường hô hấp
Nhiễm trùng đường hô hấp tái phát (RRI) ở trẻ em
Các nghiên cứu mù đôi đã tiết lộ rằng trích xuất tuyến ức sử dụng bằng đường miệng
cho trẻ em có thể làm giảm số lượng bệnh RRI khi so sánh với kiểm chứng placebo và
với các nhiễm trùng của năm trước ở cùng trẻ em đó. Một sự gia tăng ở tế bào CD3 và
CD4, tăng chức năng neutrophyl và mức IgA nước bọt cũng được thấy. Một trích xuất
tương tự cũng được sử dụng thành công ở bệnh RRI. Sử dụng tiếp tục đã ngăn ngừa các
nhiễm trùng tái phát và tạo ra một sự gia tăng đáp ứng thực bào, đại thực bào và
immunoglobulin huyết thanh. Một trích xuất tuyến ức khác từ bê non, được so sánh với
levamisol (Ergamisol), một chất điều biến miễn dịch dược phẩm, trong một thử nghiệm
kiểm chứng placebo để điều trị trẻ em bị bệnh viêm phổi mãn tính. Những trẻ em được

chọn cho nghiên cứu có tối thiểu 9 tháng bị viêm phổi tái nhiễm với ít nhất một giai đoạn
kéo dài 2 tháng và ở lưá tuổi từ 19 tháng đến 10 tuổi. Cả hai nhóm điều trị (trích xuất
tuyến ức và levamisol) đã thể hiện sự giảm có ý nghĩa thống kê về số lượng, tính trầm
trọng và thời gian của mỗi giai đoạn viêm phổi và mỗi nhóm được chỉ định kháng sinh
điều trị ít hơn. Cũng có khuynh hướng theo hướng bình thường hoá số lượng và chức
năng của tế bào lympho T ở cả hai nhóm.
Viêm phổi ở người lớn
Sự cải thiện cũng được thấy ở 20 đến 26 người lớn bị nhiễm trùng đường hô hấp trên
tái phát (URI). Toàn bộ những bệnh nhân này đã có những trải nghiệm từ 8 đến 10 giai
đoạn trầm trọng của bệnh mỗi năm và bị đề kháng với kháng sinh, với tiêm ngừa, với các
thuốc hít và điều trị khác. Mỗi người đã nhận trích xuất tuyến ức bằng đường uống mỗi
ngày trong một tháng và hai ngày một lần trong 12 tháng sau đó. Sự cải thiện về số lượng
và/hoặc chức năng trong tế bào lympho T đã được thấy ở 70 % bệnh nhân. Sự cải thiện
này tương ứng với những cải thiện lâm sàng được biểu hiện bởi sự giảm số lượng và tính
trầm trọng cuả mỗi giai đoạn và giảm hoặc không cần dùng kháng sinh. Một năm sau khi
ngừng điều trị, tình trạng bệnh của người bệnh vẫn được cải thiện. Theo các bác sĩ trích
xuất tuyến ức là " sự lựa chọn điều trị" vì nó làm thay đổi một cách hiệu quả tiến
trình tự nhiên cuả bệnh bằng việc tác động lên nguyên nhân bệnh: sửa chữa tiến
5


trình miễn dịch bị hư hỏng hơn là lên việc đánh trả (dùng kháng sinh) hay lên triệu
chứng (dùng tác nhân giãn phế quản).
Bệnh co thắt phế quản mãn tính
Điều trị với trích xuất tuyến ức tiêm 2 lần/tuần trong một năm dùng phối hợp với
Encortolone (prednisolon) (4-12 mg/ngày) đã tạo ra sự cải thiện lâm sàng và sự bình
thường hoá chỉ số bạch cầu hạt thực bào nhưng đã không làm thay đổi tính đáp ứng bị
khiếm khuyết trong các test thử cư trú của bạch cầu hạt (MIF). Tác giả cho rằng việc thiếu
đi sự thay đổi hiệu quả suy giảm miễn dịch là do dùng steroid. Kết quả tương tự đã quan
sát thấy trong những nghiên cứu khác , xác nhận rằng trích xuất tuyến ức có thể tạo ra

một lợi ích lâm sàng to lớn hơn trong các nhiễm trùng phổi hơn là chỉ sử dụng một mình
corticoids. Mặc dầu tính đáp ứng mạnh hơn và các biến chứng ít hơn, nhưng sự cải thiện
lâu dài không có được khi sử dụng chung với các steroid làm suy giảm miễn dịch.
Bệnh hen phế quản ở các bệnh nhân viêm da dị ứng
Một trăm sáu ba bệnh nhân điều trị hen phế quản bằng trích xuất tuyến ức, đã thể hiện sự
cải thiện bằng những dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng cũng như hoạt tính của tế bào T.
Tác giả cho rằng sử dụng trích xuất tuyến ức có thể sửa chữa những rối loạn miễn dịch.
Trích xuất tuyến ức được sử dụng bằng đường miệng cải thiện những triệu chứng lâm
sàng và làm giảm tần suất giai đoạn dị ứng cấp tính cũng như làm giảm đi độ chuẩn IgE
và tổng số các tế bào ưa eozin ở những người bị bệnh hen phế quản phối hợp với viêm
da dị ứng. Trích xuất tuyến ức cũng được dùng cho bệnh nhân hen phế quản phối hợp
với viêm da dị ứng để giúp chống đối lại những ảnh hưởng bất lợi của môi trường sống
do không khí bị ô nhiễm bởi nền công nghiệp phát triển. Sự điều trị giúp tăng tính đáp ứng
miễn dịch ở những bệnh nhân này và làm gia tăng đáng kể hiệu quả điều trị của các thuốc
làm giãn phế quản.
Bệnh nhiễm trùng hô hấp mãn tính
Bệnh đau thắt ngực và viêm phế quản
86 bệnh nhân bị bệnh đau thắt ngực có kết hợp với viêm phế quản được dùng kháng
sinh, splenin (một trích xuất từ lá lách) và một trích xuất từ tuyến ức, trong một thử
nghiệm lâm sàng. Những người này được so sánh với 52 người kiểm chứng điều trị theo
cách thông thường (điều trị thông thường cho bệnh đau thắt ngực điển hình là
nitroglycerin ngậm dưới lưỡi khi có cơn đau. Điều trị viêm phế quản là nghỉ ngơi, uống
nhiều nước, thuốc hạ nhiệt và hoặc thuốc giảm đau). Kết quả thử nghiệm cho thấy sự
phối hợp giữa spleinin và vilozen đã tạo ra tính đáp ứng miễn dịch vững chắc hơn trong
nhóm điều trị, sau đó là cải thiện tình trạng lâm sàng. Các tác giả khuyên dùng các tác
nhân điều biến miễn dịch (trích xuất từ tuyến ức và lá lách) trong điều trị đau thắt ngực tái
phát và lặp lại, đặc biệt khi có sự hiện diện của viêm phế quản bội nhiễm.
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính- Chronic obstructive pulmonary disease (COPD)
COPD là sự phối hợp của viêm phổi tắc nghẽn mãn tính và khí thủng. Sự mất cân
bằng chức năng thực bào trong bệnh COPD bao gồm sự giảm bạch cầu đa nhân PMN,

giảm hoá ứng động đơn bào và giảm khả năng tiêu diệt do trước đó giảm khả năng
myloperoxid ở những tế bào này. Một thử nghiệm được kiểm chứng sau đó đã hoàn tất
trên 78 bệnh nhân bị COPD. 38 bệnh nhân được sử dụng trích xuất tuyến ức tiêm bắp
(1mg/kg/ngày) trong tuần lễ đầu tiên và tiếp theo sau đó là 1 lần/tuần trong vòng sáu
tháng cùng với điều trị chuẩn bệnh COPD. Các bệnh nhân sử dụng trích xuất tuyến đã thể
hiện sự cải thiện về mức độ trầm trọng của bệnh và thời gian khám bệnh trong một năm
sau thời kỳ thử nghiệm được so sánh với 40 bệnh nhân tham gia kiểm chứng chỉ nhận
điều trị chuẩn. Tuy nhiên, không có sự cải thiện ở những bệnh nhân có chức năng hô hấp
suy giảm trầm trọng hay vừa. Cũng không có sự thay đổi immunoglobulin huyết thanh hay
6


các tế bào T. Trong một nghiên cứu khác, bệnh nhân bị bệnh COPD được dùng trích xuất
tuyến ức một năm và được đánh giá trong và sau thời gian thử nghiệm. Kết quả đã thể
hiện sự bình thường trở lại khả năng myloperoxide. Khả năng về chức năng thực bào tuy
nhiên không ảnh hưởng. Một sự cải thiện có ý nghĩa về tình trạng lâm sàng cũng được
quan sát trong suốt một năm thử nghiệm. Từ những cải thiện lâm sàng và thực nghiệm,
các tác giả đề nghị nên sử dụng trích xuất tuyến ức trong điều trị bệnh COPD.
Các bệnh và nhiễm trùng có nguồn gốc virus
Bệnh lao
Ba mươi bệnh nhân bị lao phổi thể hoạt động được sử dụng trích xuất tuyến ức như là
một phần của chế độ điều trị phối hợp. Kết quả điều trị thể hiện sự gia tăng tế bào T
helper, gia tăng hoạt tính tế bào lympho và tăng tổng hợp IL-2. Sự gia tăng hoạt tính tế
bào giết tự nhiên (NK) và tổng hợp IL-1 do đại thực bào cũng được quan sát thấy. Sự
bình thường hoá tính đáp ứng miễn dịch đặc hiệu và không đặc hiệu đã được so sánh với
sự cải thiện lâm sàng. Cùng trích xuất tuyến ức đó đem lại lợi ích cho nhóm bệnh nhân
lao phổi và tiểu đường type 1 phối hợp. Nhìn chung, các bệnh nhân bị bệnh lao kết hợp
này gián tiếp thể hiện sự suy giảm miễn dịch tế bào, được biểu hiện sự giảm số lượng tế
bào lympho T và giảm sự biến đổi nguyên bào nhiều hơn là những bệnh nhân chỉ bị lao
riêng lẻ. Khi trích xuất tuyến ức được bổ sung vào chế độ điều trị, các thông số miễn dịch

được bình thường hoá. Tác giả cũng lưu ý một sự hồi phục nhanh chóng hơn và tỉ lệ mắc
bệnh lao trở lại ít hơn trong nhóm điều trị. Họ cũng đề nghị bổ sung trích xuất tuyến ức
vào chế độ điều trị cho bệnh nhân tiểu đường type I và bệnh lao. Tác giả cũng ghi nhận
rằng có sự hồi phục thường xuyên và nhanh chóng hơn ở những bệnh nhân bị bệnh lao
trong nhóm điều trị. Từ kết quả của nghiên cứu, người ta đề nghị bổ sung tác nhân điều
biến miễn dịch như trích xuất tuyến ức vào chế độ điều trị cho bệnh nhân tiểu đường type
1 và bệnh lao.
Bệnh Herpes simplex (RSV) (Bệnh mụn rộp)
Herpes simplex là một virus thuộc nhóm virus herpes. Herpes simplex loại 1 (herpes
labialis, cảm đau nhức hay sốt giộp da) cơ bản được lây truyền theo đườngmiệng hay
đường hô hấp. Herpes simplex loại 2 (henm genitalia) cơ bản được lây truyền qua đường
tình dục. Các virus tồn tại ở dạng không hoạt động trên da hoặc các hạch thần kinh cho
đến khi được phơi bày hoàn toàn ra ánh sáng, những tác động về thể chất hay tinh thần
hoặc do thức ăn, thuốc uống. Nếu tính miễn dịch không được thiết lập sớm trong tiến
trình bệnh, sự nhiễm trùng thường kéo dài. Trích xuất tuyến ức đã được sử dụng điều trị
thành công ở 8 bệnh nhân bị herpes simplex libialis tái phát đều đặn. Bệnh nhân được
dùng sản phẩm này 2 ngày/ lần trong tháng đầu, sau đó 2 lần/tuần trong 12 tháng. Không
thấy bệnh tái lại trong suốt 12 tháng ở ba bệnh nhân trước đó họ bị phát bệnh 5-10 lần/
năm. Sự cải thiện lâm sàng đã được ghi nhận ở 5 bệnh nhân khác. Tần số, thời gian và
mức độ tái phát bệnh về cơ bản đều giảm đi trong khi dùng thuốc. Tuy nhiên, việc ngưng
điều trị thường phối hợp với một sự trở lại của bệnh.
Herpes zoster (bệnh zona)
Herpes zoster là một loại virus khác gây ra bệnh thủy đậu , bệnh zona. Mặc dầu
bệnh thường tự khỏi, bệnh herpes zoster cũng được coi như là một mô hình lâm sàng để
nghiên cứu hiệu quả của trích xuất tuyến ức ở 28 bệnh nhân không miễn dịch thoả hiệp.
Kết quả của nghiên cứu mù đôi này đã thông báo tỉ lệ lành bệnh gia tăng, thời gian mụn
rộp nước ngắn hơn, thời gian cho những tổn thương đóng vảy cứng ngắn hơn cũng như
cơn đau được cải thiện hơn trong giai đoạn cấp. Do đó mà, trích xuất tuyến ức được
chứng minh có hiệu quả trong điều trị các nhiễm trùng do virus ở những bệnh nhân bị
miễn dịch dung hoà. Xa hơn, kết luận này được củng cố trong nghiên cứu điều trị ở 5

trường hợp virus u nhú hồi qui ở người, các bệnh nhân này sử dụng trích xuất tuyến tiêm
7


bắp trong 9 tháng. Kết quả thể hiện một sự giảm kích thước và số lượng các tổn thương.
Lưu ý rằng đây là một bệnh chưa phải do suy giảm chức năng miễn dịch, việc điều trị
bằng trích xuất tuyến ức vẫn có hiệu quả.
Viêm gan B cấp và mãn tính
Bệnh viêm gan B do virus viêm gan B gây nên (HBV) và được phối hợp với bệnh
gan phổ rộng bao gồm thể mang mầm bệnh cận lâm sàng, viêm gan cấp, viêm gan mãn,
sơ gan và ung thư tế bào biểu mô gan. Viêm gan B mãn tính chiếm khoảng 5-10% bệnh
nhân ban đầu họ bị nhiễm viêm gan B cấp tính.
Viêm gan B cấp
Sự giảm đáng kể lượng bilirubin toàn phần và lượng sắt đã được liên hệ với sự cải
thiện về mặt lâm sàng nhanh hơn và thời gian nằm viện ngắn hơn ở nhóm 15 bệnh nhân
viêm gan cấp tính được xác nhận thực nghiệm. Bệnh nhân được tiêm 15 mũi trích xuất
tuyến ức từ ngày đầu chẩn đoán và suốt thời gian bệnh cho đến khi hồi phục.
Viêm gan B mãn
Viêm gan B mãn tính là bệnh rất khó điều trị và có tiên lượng thay đổi. Chỉ có khoảng
1/3 trường hợp do viêm gan cấp tính phát triển thành. Hầu hết bệnh tiến triển âm thầm.
Bệnh có tiến trình thay đổi "viêm gan nhẹ, dai dẳng, viêm gan thể hoạt động mãn tính,
cuối cùng là sơ gan và một tình trạng mang mầm bệnh cận lâm sàng mãn tính xảy ra. Đặc
biệt về sau dẫn đến ung thư tế bào biểu mô. Bệnh phối hợp với viêm gan siêu vi B có
khuynh hướng tiến triển thường đề kháng với trị liệu. Với trị liệu y khoa hiện tại, bệnh
nhân thường sống nhiều năm, trong nhiều trường hợp rốt cục dẫn đến suy tế bào gan, sơ
gan, hoặc cả hai. Gan bị tổn thương trong viêm gan B là do một phản ứng chủ miễn dịch
đối với nhiễm trùng .Việc sử dụng trích xuất tuyến ức để bình thường hoá sự đáp ứng
miễn dịch sai lạc trong viên gan B là sự lựa chọn hợp lý. Phù hợp với dòng tranh luận, 18
bệnh nhân với sinh thiết được biểu hiện viêm gan B mãn tính dạng hoạt động có tỉ lệ
T4/T8 thấp, sử dụng trích xuất tuyến ức 6 tháng và 12 tháng trong hai nhóm khác nhau.

Sự cải thiện tỉ lệ T4/T8 quan sát thấy từ ngày thứ 14 sau khi bắt đầu điều trị, tiếp theo là
sự giảm tổng tế bào NK cao bất thường. Sự cư trú của tế bào NK và hoạt tính tiêu diệt
tăng trở lại bình thường ở cả hai nhóm điều trị 6 tháng và 12 tháng. Sự bình thường hoá
các thông số sinh hoá và miễn dịch xảy ra trong vòng 5-6 tháng từ khi bắt đầu điều trị. Sự
hoán chuyển huyết thanh của hệ thống Hbe đến kháng Hbe được quan sát thấy sau 9-12
tháng ở cả hai nhóm điều trị. Hbe là một marker của máu nhận sự hiện diện của lõi virus,
nó thể hiện sự tái tạo virus hoạt động. Sự hoán chuyển huyết thanh đến kháng Hbe
(kháng thể đến Hbe) chứng tỏ virus đã ngừng sao chép. Sự hoán chuyển huyết thanh này
thường mang đến một tác động khởi đầu. Hai năm tiếp theo vẫn thể hiện sự giảm về mặt
lâm sàng công thức sinh hoá và miễn dịch ở cả hai nhóm. Các tác giả kết luận rằng trích
xuất tuyến ức đã có tác động kích thích miễn dịch trong thời gian dài. Một nghiên cứu
tương tự sử dụng trích xuất tuyến ức trong 6 tháng ở 29 bệnh nhân cho kết luận tương
tự. Trong một nghiên cứu khác, trích xuất tuyến ức được sử dụng bằng đường miệng
dưới dạng sirop với liều 120 mg/ngày trong một năm cho một nhóm trẻ em bị viêm gan B
mãn tính có HBsAg và HbsAg dương tính. Kết quả chứng tỏ một tỉ lệ trẻ hồi phục cao hơn
và sự hoán chuyển huyết tương đến HBe cao hơn nhóm chứng.
Các bệnh gan khác bao gồm viêm gan ứ mật mãn tính, sơ gan do mật giai đoạn đầu
đã được điều trị thành công bằng trích xuất tuyến ức. Kết quả từ nghiên cứu sử dụng trên
102 bệnh nhân bị viêm gan tắc mật mãn tính, sơ gan mật giai đoạn đầu đã thể hiện một
sự gia tăng tế bào lympho T, tăng hoạt động chức năng của tế bào đơn nhân (gia tăng
hoá ứng động và ức chế) và giảm tổng immunoglobulin. Toàn bộ những dấu hiệu này
biểu thị một sự gia tăng khả năng miễn dịch, có lợi cho việc kiểm soát tiến trình viêm
nhiễm miễn dịch tại gan và sự bình thường hoá những biểu hiện lâm sàng của bệnh dẫn
đến một tác động thuận lợi. Kết quả mới này rất quan trọng không chỉ giúp điều trị thành
8


công một số bệnh khó chữa, những bệnh này thường gây hậu quả bất lợi mà còn giúp
điều trị những biến chứng trong điều trị viêm gan do các nguyên nhân khác. Nhiều bệnh
viêm nhiễm của gan có nguyên nhân do virus, nấm hoặc mycobacteria (bệnh lao). Tính

MD tế bào là sự phòng thủ chính chống lại các tác nhân này. Việc điều trị thành công các
bệnh trên do sử dụng trích xuất tuyến ức đã gợi ý cho nhiều khả năng lý thú cho việc
điều trị những bệnh gan hiện tại chưa điều trị được bằng việc sử dụng các chất điều biến
miễn dịch như trích xuất tuyến ức.
Bệnh viêm lở miệng tái phát (RAS)
Một nghiên cứu lâm sàng nhỏ trên 5 bệnh nhân bị bệnh viêm loét miệng tái phát từ
hai đến 8 năm được sử dụng trích xuất tuyến ức thử nghiệm trong hai năm. Một lợi ích
tổng thể đã được thấy ở 4 trên 5 bệnh nhân được thể hiện bằng sự giảm tần suất cơn
đau và giảm thời gian của những tổn thương ở hai người bệnh và mất hoàn toàn các tổn
thương ở hai bệnh nhân khác. Tuy nhiên, sau khi ngưng điều trị 12 tháng bệnh xuất hiện
trở lại ở toàn bộ bệnh nhân. Vì chưa có thuốc điều trị hiệu quả trong bệnh RAS nên việc
dùng trích xuất tuyến ức giúp cải thiện bệnh được xem như là sự đột phá trong điều trị.
Mặc đầu kết quả không kéo dài nhưng hiệu quả điều trị vẫn duy trì chừng nào mà việc
điều trị vẫn tiếp tục.
Bệnh lỵ do nhiễm Shigella
Bệnh lỵ kéo dài và mãn tính do nhiễm Shigella đã được điều trị thành công ở 51 bệnh
nhân sử dụng trích xuất tuyến ức, t-activin. Trong cuộc thảo luận, các tác giả đã nhấn
mạnh rằng nguyên nhân của bệnh lỵ mãn tính là do một khiếm khuyết nhỏ trong các tế
bào lympho vàtế bào thực bào của màng nhày trực tràng tương tự trong tế bào bạch cầu
ngoại biên.
Các bệnh dị ứng
Viêm mũi dị ứng quanh năm, hen phế quản, viêm da dị ứng được biết sơ bộ do sự
khiếm khuyết trong tính MD tế bào. Tất cả các bệnh này đều thể hiện lợi ích khi sử dụng
trích xuất tuyến ức bằng đường miệng. Trong một nghiên cứu, 18 bệnh nhân bị viêm
xoang mũi có mủ mãn tính được điều trị bằng trích xuất tuyến ức, tiêm bắp ngày1 lần
trong 14 ngày, sau đó là 2 mũi một tuần trong 6 tuần nữa. Toàn bộ 18 bệnh nhân này đều
có biểu hiện khiếm khuyết trong hệ thống miễn dịch trung gian tế bào trước khi điều trị.
Toàn bộ 18 bệnh nhân đã thể hiện sự cải thiện lâm sàng. 12 người trong số 15 đã thông
báo cảm thấy tốt hơn trong suốt thời gian điều trị bằng TP-1. 13 bệnh nhân thông báo
không còn đờm mủ trong dịch mũi. Tỉ lệ vi khuẩn nuôi cấy dương tính từ dịch mũi giảm

2/3 từ 14/15 người xuống còn 5/15. Những cải thiện lâm sàng đã được so sánh bằng việc
gia tăng thực hiện chức năng của hệ thống miễn dịch trung gian tế bào, có ý nghĩa nhất là
sự gia tăng hoạt tính đơn bào. Điều trị placebo không có cải thiện.
Các bệnh về da
Chàm da dị ứng
Kết quả có lợi khi sử dụng trích xuất tuyến ức cũng được thấy ở trẻ em bị viêm da dị
ứng (atropic dermatitis)(còn gọi là chàm da dị ứng và AD). Một đặc tính của bệnh là
những cơn ngứa dai dẳng xảy ra vào ban đêm gây ra những thương tổn do ngứa gãi
không kiểm soát được. Chu kỳ ngứa gãi- rát nổi ban do sự tăng IgE mỗi ngày và sau đó là
sự phóng thích histamine của tế bào tại vị trí tổn thương là một phần đáng kể của triệu
chứng bệnh cảnh. Các vết thương kém lành và hậu quả là nhiễm trùng và tái nhiễm trùng
từ những tổn thương do ngứa gãi là phổ biến. Trẻ em và người lớn thường bị dị ứng thức
ăn do gia tăng tính đáp ứng với IgE. Nguồn gốc của bệnh được nghĩ là do sự khiếm
khuyết trong tế bào T đối với sự điều hoà gián tiếp tính đáp ứng IgE. Đây là một bệnh
thường thấy hàng ngày trong khoa da liễu và bệnh được phối hợp với sự thiếu hụt MD
khác như sốt, viêm mũi và hen phế quản.
9


24 trẻ em bị dị ứng được cho dùng trích xuất tuyến ức 3 mg/kg/ngày. Không có thay
đổi mức IGE huyết thanh thích hợp mỗi ngày và từ đó không xuất hiện chu kỳ ngứa gãi
nổi ban được thấy ở trẻ em đang điều trị, ngược lại không có cải thiện ở nhóm đối chứng.
Một thử nghiệm lâm sàng sử dụng chế độ ăn loại bỏ các chất gây kích ứng đã được
nghiên cứu ở 20 trẻ em bị chàm dị ứng, trong đó 10 trẻ em được sử dụng trích xuất tuyến
ức trong suốt giai đoạn kiêng ăn, 9 trẻ em chỉ được lấy đi các chất kích ứng trong thực
phẩm mà chúng đã nhạy cảm trước đó và không dùng thuốc. Sau 90 ngày ăn kiêng, các
thực phẩm này được sử dụng trở lại, những tổn thương da xấu đi, mức IgE hiện tại tăng
trong nhóm kiểm chứng nhưng không tăng trong nhóm sử dụng trích xuất tuyến ức cả về
những tổn thương da lẫn mức IgE (đặc hiệu hoặc không đặc hiệu). Mức IgE hiện tại giảm
trong suốt quá trình điều trị trong nhóm sử dụng trích xuất tuyến ức. Tác giả kết luận rằng

trích xuất tuyến ức có lợi trong điều biến IgE mất cân bằng ở trẻ em dị ứng. Một nghiên
cứu khác cũng đã thể hiện một sự cải thiện chung trên toàn bộ trẻ em bị chàm dị ứng khi
sử dụng chích xuất tuyến ức. Chỉ có một nghiên cứu thất bại vì không có cải thiện đáng
kể cả trên kết quả lâm sàng và thực nghiệm
Bệnh vảy nến
Bệnh vảy nến là một bệnh có ảnh hưởng đến 24% dân da trắng. Bệnh cảnh thay đổi
từ 1 vài thương tổn đến viêm da lan rộng, từ viêm khớp không đi lại được hay sự tróc da,
đến mảng ban lốm đốm ở họng. Sự điều trị cũng thay đổi từ bôi thuốc tại chỗ như cao
dán than và các loại kem thuốc đến sự dùng thuốc điều trị toàn thân như các corticoid
steroid hay thậm chí cả thuốc ung thư methotrexate. Một nhóm 74 bệnhnhân bị bệnh vảy
nến ở mức độ khác nhau (46% được xếp vào mức trầm trọng) đã được điều trị bằng trích
xuất tuyến tiêm 3 lần/tuần trong vòng một tháng sau đó là 2lần/tuần trong vòng 1-2 năm.
Kết quả thể hiện 76.4% những bệnh nhân tham gia thử nghiệm giảm thương tổn, 33%
trong số bệnh nhân bị bệnh vảy nến nặng đã thể hiện sự đáp ứng rất tuyệt vời và 30%
đáp ứng tốt, 10 trong 74 người đã giảm hẳn những tổn thương trong một thời gian dài sau
khi ngưng dùng thuốc hơn 2 năm. Trong thời gian điều trị, tính nhạy cảm giảm với virus,
các nhiễm trùng,một sự cải thiện về tình trạng lâm sàng chung và hồi phục sức khoẻ
được thông báo.
Các bệnh miễn dịch tự miễn
Viêm khớp dạng thấp
Bệnh viêm khớp dạng thấp là một bệnh khớp nối suy yếu và biến dạng, tỉ lệ bị bệnh
xấp xỉ 1% dân số Bắc Mỹ. Nguyên nhân bệnh được nghi ngờ liên quan đến cơ chế miễn
dịch tự miễn. Nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ tính hiệu quả của trích xuất tuyến ức trong
điều trị căn bệnh này. Trích xuất tuyến ức đã được sử dụng trong một thử nghiệm trên 20
bệnh nhân tiêm thuốc mỗi ngày trong 3 tháng. 80% trong số họ đã thể hiện cải thiện lâm
sàng được biểu hiện sự giảm sưng ở khớp nối và sự mềm dẻo và gia tăng sức mạnh của
cơ. 40% thể hiện sự giảm yếu tố thấp khớp alpha 2 và mực IgG huyết tương cũng như
tăng hemoglobin và mức ion huyết tương. Kết quả tương tự cũng được thấy trong hai
nghiên cứu khác. Trong bài viết này, trích xuất tuyến ức được kết luận là có hiệu quả
trong điều trị các bệnh nhân viêm khớp dạng thấp dù dùng một mình hay phối hợp với

những thuốc kháng viêm nhiễm hay thuốc kháng viêm khớp. Một bài viết tóm lược riêng
rẽ đã hỗ trợ cho những khám phá này. Một nghiên cứu nữa, điều trị riêng rẽ với
methotrexate (MT) đã được so sánh với điều trị phối hợp methotrexate với một trích xuất
tuyến ức trong một thử nghiệm kéo dài 2 năm ở 127 bệnh nhân bị viêm khớp dạng thấp.
88 bệnh nhân dùng MT với liều 7.5 mg một tuần. 39 bệnh nhân với liều MT đã cho phối
hợp với 100 mcg trích xuất tuyến ức 2 lần một tuần trong tháng đầu và một lần một tuần
vào 2 năm còn lại. Cả hai nhóm có sự giảm đáng kể cơn đau khớp trầm trọng, giảm số
lượng các khớp viêm, cơn đau, giảm mức protein C- reactive và tỉ lệ lắng hồng cầu
(ESR).Trong nhóm điều trị phối hợp còn có sự giảm cứng khớp buổi sáng và cơn đau
10


khớp gối khi khám bệnh.. Việc sử dụng trích xuất tuyến ức không làm thay đổi hiệu quả
của MT
.
Bệnh lupus ban đỏ hệ thống(SLE)
Tính hiệu quả của trích xuất tuyến ức trên tình trạng miễn dịch tế bào của 49 trẻ em
tuổi từ 8-15 bị bệnh SLE cũng được kiểm chứng. Sử dụng trích xuất tuyến ức trong thời
gian 4 tuần cho kết quả cải thiện sức khỏe tổng thể và giảm hoạt tính SLE. Một sự tăng
các yếu tố tuyến ức và gia tăng sự biệt hoá tế bào lympho T cũng được thể hiện. Ở bệnh
nhân bị nhiễm trùng lần hai, một sự gia tăng tổng lympho bào thuần tuý, gia tăng thực bào
và một sự gia tăng hoạt tính diệt khuẩn huyết thanh là kết quả trong việc loại bỏ và ngăn
ngừa sự phát triển của những biến chứng nhiễm trùng lần hai.Tác giả kết luận trích xuất
tuyến ức đã kích thích sự bình thường hoá cấu trúc tuyến ức và đưa vào hiệu quả thay
thế hormone tuyến ức không được thấy ở nhóm 34 trẻ em bị SLE không dùng trích xuất
tuyến ức. Một tác giả khác sử dụng trích xuất tuyến ức để điều trị 17 bệnh nhân bị SLE,
kết quả đã thể hiện một sự giảm dần các hội chứng về khớp và da cũng như giảm dần
các sự loạn dưỡng. Sự cải thiện đã góp phần làm gia tăng chức năng của bạch cầu trung
tính. Xa hơn, các test thử đã thể hiện một sự gia tăng khả năng thực bào tiêu diệt
Staphylococcus trên vitro.

Bệnh sơ cứng bì
Ngay cả những bệnh khó chữa như bệnh sơ cứng bì đã thể hiện tính đáp ứng đối với
trích xuất tuyến ức được sử dụng riêng rẽ hay dùng kết hợp với các thuốc khác. Hiệu quả
của cả hai cách đều thể hiện sự giảm thời gian, mức độ trầm trọng và sự tiến triển của
bệnh. Có sự tương quan với sự giảm tỉ lệ cAMP/cGMP nội tế bào chứng tỏ một sự phối
hợp giữa một sự thiếu hụt chức năng trong cơ chế điều chỉnh lympho bào và bệnh.

Bệnh thiếu máu tiêu huyết tự miễn mãn tính
Một nghiên cứu đột xuất ở 8 bệnh nhân bị bệnh thiếu máu tiêu huyết tự miễn nặng
(AIHA), trích xuất tuyến ức được sử dụng sau khi các bệnh nhân đã bắt đầu đề kháng với
glucocorticoid, azathioprine và splenectomies. Ở hai bệnh nhân điều trị với trích xuất
tuyến ức không còn phát hiện mức kháng globulin. Năm bệnh nhân thể hiện mức kháng
globulin giảm ở test thử, kháng globulin trực tiếp. Thêm vào đó, mức kháng thể và kháng
thể huyết thanh đánh giá cũng giảm như kháng thể tự động hồng cầu. Không có thông
báo có tác dụng phụ khi dùng trích xuất tuyến ức.
Bệnh tân sản
Bệnh ung thư thường được điều trị bằng hoá trị, xạ trị và/hoặc phẫu thuật. Một khó
khăn cho cả ba cách trị liệu này là giảm đáng kể khả năng của hệ thống đến các chức
năng tương ứng. Vậy mà,một hệ miễn dịch chức năng tương ứng thì chủ yếu giúp cho
bất kỳ sự hồi phục nào. Nói riêng, tính miễn dịch trung gian tế bào bị suy yếu không chỉ
ảnh hưởng đến sự tăng trưởng mà còn ảnh hưởng đến sự lan tran của bệnh ung thư.
Trong một số nghiên cứu, trích xuất tuyến ức được sử dụng như là liệu pháp đơn lẻ, Tuy
nhiên, thường hơn, trích xuất tuyến ức được sử dụng phối hợp với điều trị truyền thống
giúp hồi phục lại hệ miễn dịch hay ngăn ngừa sự suy yếu trầm trọng của nó và những
biến chứng điển hình liên quan đến hệ miễn dịch được đi kèm với cách điều trị thông
thường. Trong hầu hết các cas, trích xuất tuyến ức giúp hồi phục chức năng hệ miễn dịch
hoặc duy giảm miễn dịch và trong một số cas giúp kéo dài cuộc sống cho người bệnh. Khi
xem xét các nghiên cứu dưới đây bao gồm bệnh tân sản, nên nhớ rằng các liệu pháp mời
đã được thử điển hình trên hầu hết các trường hợp bệnh nặng với tiên lượng kém
nhất.Bất kỳ sự tiến triển nào trong tiến trình bệnh do áp dụng một phương pháp điều trị

thực nghiệm cũng được coi như một sự kiện có ý nghĩa.
11


Ung thư phổi
Hút thuốc lá thường phối hợp với hơn 90% các ung bướu ở phổi. Ung thư phổi chiếm
35% các loại ung thư ở nam giới và chiếm 30% các loại ung thư ở nữ giới. Thời gian còn
sống cho hơn 90% các bệnh nhân này dưới 8 tháng sau khi chẩn đoán bệnh. trích xuất
tuyến ức cũng đã được dùng riêng rẽ hay phối hợp với các liệu pháp các trong một cố
gắng để ngăn chặn tiến trình nhanh chóng của bệnh ung thư và điều chỉnh những ảnh
hưởng có hại của hoá trị, xạ trị và phẫu thuật. Thêm vào việc làm hỏng miễn dịch, hoá trị
cũng sinh ra sự biến đổi cổng thông khí thậm chí làm phổi không hiệu quả, chẳng hạn
như hoá trị là nguyên nhân làm suy yếu đáng kể hàng rào túi phổi- mao mạch (mặt tiếp
xúc giữa túi phổi và các mao mạch). Xạ trị làm giảm đi tổng lượng lympho bào và tỉ lệ tế
bào T CD4/CD8 ở phổi. Sự điều trị đồng thời cả hai cách tạo ra hiệu quả hiệp đồng vì vậy
mà việc sử dụng hoá trị phối hợp với xạ trị tạo ra sự suy yếu ngưỡng túi phổi - mao mạch,
sự suy yếu này có hại cho sự trao đổi oxygen đồng thời với sự giảm tổng số tế bào
lympho. Từ đó mà, có sự giảm tế bào lympho B, T và tế bào diệt tự nhiên cùng với việc
giảm các tế bào độc tố tế bào và tế bào ức chế; là những thành phần chính chống lại các
tế bào ung thư. Vì vậy mà, khả năng miễn dịch trung gian tế bào và tỉ lệ tồn tại của chủ
thể được gia tăng, liệu pháp miễn dịch rất cần thiết để chiến thắng các tác dụng bất lợi do
liệu pháp chống ung thư mang lại. Thêm vào sự tái thiết lập trở lại khả năng miễn dịch bị
yếu đi được chứng tỏ bởi sự hiện diện của bệnh ung thư.
Trong một nghiên cứu, trích xuất tuyến ức được sử dụng một mình hai lần/tuần trong
10 tuần cho 12 bệnh nhân bị ung thư tế bào biểu mô không phân biệt hay ung thư tế bào
biểu mô dạng vảy. Sự cải thiện lâm sàng chủ quan và khách quan được thấy ở 10/12
bệnh nhân. Một sự ức chế sự phát triển bướu tại cục bộ và giảm di căn phát triển đến các
nút bạch huyết trung thất hoặc các cơ quan khác đã quan sát thấy. Ba bệnh nhân cảm
thấy giảm một phần khối u bướu. Tỉ lệ bệnh nhân sống được 6 tháng tăng lên 42% so với
7% ở nhóm kiểm chứng chỉ điều trị triệu chứng. Hiệu quả của trích xuất tuyến trên hoá trị

liệu làm giảm đi độc tính và kéo dài thời gian sống sót đã được thử nghiệm trên 26 bệnh
nhân ung thư phổi tế bào nhỏ. Bệnh nhân được điều trị một cách ngẫu nhiên bằng chế độ
6 chu kỳ hoá trị qua lại: cyclophosphamide, 4'- epidoxorubicin, etoposide được hoán
chuyển với etoposide và cysplatin. 15 người trong số các bệnh nhân này được dùng trích
xuất tuyến ức (1mg/kgIM) vào ngày 7-14 của mỗi 3-4 tuần của chu kỳ điều trị. Cuối 6 CK
hoá trị trích xuất tuyến ức đã được dùng 2 lần một tuần để đáp ứng hoàn toàn cho đến
khi bướu tái phát. Có 7 bệnh nhân giảm hoàn toàn được so sánh với 1 bệnh nhân trong
nhóm kiểm chứng. Sự tiến triển của bướu được ghi nhận ở 4 người trong nhóm sử dụng
trích xuất tuyến ức và 7 người trong nhóm kiểm chứng. Thời gian sống sót trung bình là
14.5 tháng cho nhóm sử dụng trích xuất tuyến ức và 5.5 tháng cho nhóm kiểm chứng.
Mức độ trầm trọng của giảm bạch cầu trung tính cũng thấp hơn đáng kể trong nhóm sử
dụng trích xuất tuyến ức, tuy nhiên thời gian giảm bạch cầu trung tính không có khác biệt.
Tác dụng phụ do hóa trị liệu giảm đáng kể ở nhóm sử dụng trích xuất tuyến ức, đặc biệt ở
mức độ trầm trọng và thời gian suy giảm tuỷ cũng như thời kỳ sốt và nhiễm trùng. Tác giả
cũng thông báo rằng điều trị với trích xuất tuyến ức giúp chất lượng cuộc sống của bệnh
nhân tốt hơn và khả năng được cải thiện để áp dụng hoá trị tăng liều và thường xuyên.
Cohen và cộng sự đã sử dụng thymosin phân đoạn V trong phối hợp với hoá trị liệu
khác (gồm Cyclophosphamide, Methotrexate và Lomstine) cho bệnh nhân bị ung thư tế
bào tiểu phổi trong sáu tuần. Theo sau chế độ hoá trị dùng phối hợp thêm vincristine
sulfate, doxorabicin HCl,procarbazine HCL, epipodophyllotoxin, ethylidine glycopyranose
và ifosfamide vào giai đoạn trên 2 năm. Nhóm nhận 60mg/sqn cơ thể phân đoạn thymoxin
V đã thể hiện thời gian sống gia tăng đáng kể (434 ngày) được so sánh với nhóm chứng
(263 ngày). Sau một năm điều trị, 33% bệnh nhân điều trị với trích xuất tuyến ức khỏi
bệnh được so sánh với 9% ở nhóm kiểm chứng. Tác giả thông báo có một vài kích ứng
da tại chỗ được xem như tác dụng phụ nhẹ của thymosin chúng sẽ mất đi sau 12-72 giờ.
Trích xuất tuyến ức tổng hợp, thymosin-alpha 1, đã được sử dụng phối hợp với xạ trị cho
bệnh nhân ung thư tế bào không tiểu phổi trong một nghiên cứu mù đôi có kiểm chứng để
12



xác định xem có thể giảm được tính suy giảm miễn dịch điển hình được thấy trọng xạ trị
hay không. Theo sau xạ trị, một nhóm (n=15) tiêm thymosin-alpha 1I (900mcg/m2) 2
lần/tuần nhóm điều trị thứ hai (n=13) tiêm liều nặng thymosin-alpha 1I (900mcg/m2) mỗi
ngày trong 14 ngày sau đó dùng liều duy trì 2 lần/tuần, một nhóm thứ 3 dùng placebo với
lịch trình tương tự. Nhóm bệnh nhân sử dụng liều nặng đã thể hiện sự bình thường hoá
chức năng tế bào T cell ở tuần 11, ngược lại, nhóm bệnh nhân dùng liều 2 lần/tuần chỉ
thể hiện sự hồi phục 1 phần tế bào T, sự hồi phục này không duy trì quá 15 tuần của
nghiên cứu. Tuy nhiên, lịch trình sử dụng 2 lần/tuần đã ngăn ngừa được sự giảm dần tỉ lệ
tế hào T helper đã nhận thấy trong cả hai nhóm placebo và nhóm dùng liều cao. Tổng
quát, việc điều trị phối hợp bằng thymosin-alpha 1 đã làm giảm đáng kể tự tái phát bệnh
và cải thiện thời gian sống của người bệnh mà thời gian này hầu như đã được thông báo
ở bệnh nhân bị bướu nonbulky.
Trích xuất tuyến ức cũng đã được chứng minh làm giảm đáng kể hiệu quả suy giảm
miễn dịch của xạ trị ở bệnh nhân ung thư phổi có nguồn gốc phế quản ngay cả tính đáp
ứng miễn dịch tiền trị liệu của những bệnh nhân này thấp. Việc làm trầm trọng thêm suy
giảm miễn dịch ban đầu do xạ trị đã được ngăn ngừa khi sử dụng chế phẩm tuyến ức cho
10 bệnh nhân bị ung thư phổi có xạ trị đồng thời. Một sự giảm đáng kể số lượng tế bào T
và B và giảm tính đáp ứng sinh sản lympho bào đối với PHA đã được tìm thấy ở toàn bộ
bệnh nhân trước xạ trị. Ngay sau khi chạy tia, tính đáp ứng sinh sản lympho bào đã hạ
xuống thậm chí thấp hơn giá trị trước trị liệu. Tuy nhiên, ở nhóm sử dụng trích xuất tuyến
ức đã tạo ra sự hồi phục sau chạy tia đã tạo ra một số lượng tế bào T và B lớn hơn và
tính đáp ứng sinh sản với PHA lớn hơn so với nhóm chỉ điều trị xạ trị. Tác giả đã kết luận
tằng thymex L đã ngăn ngừa thành công hiệu quả có hại do chạy tia trên tính miễn dịch tế
bào ở phần lớn bệnh nhân ung thư phổi. Một nghiên cứu khác đã chứng minh tính hiệu
quả của thymostimulin trong việc làm giảm độc tính của hóa trị ở 11 bệnh nhân bị ung thư
phổi tế bào nhỏ. Bệnh nhân nhận hoá trị trong chu kỳ 2 tuần gồm cyclophosphamid, 4'Epidoxoxubicin và Etoposide cho 1 tuần tiếp theo bởi Cisplatin và Etoposide cho tuần còn
lại. Chu kỳ trên được lập lại 6 lần. Trích xuất tuyến ức (1mg/kg IM) đã được dùng vào
ngày 7-14 của mỗi chu kỳ. Những người đáp ứng được điều trị duy trì với trích xuất tuyến
1mg/kg IM, 2 lần một tuần cho đến khi bướu tái phát. Một sự suy giảm tuỷ, sốt, thời kỳ
nhiễm trùng được chứng minh ít trầm trọng hơn đáng kể ở những bệnh nhân được điều

trị bằng trích xuất tuyến ức. Thêm vào, một sự cải thiện đáng kể trong tỉ lệ đáp ứng hoàn
toàn và thời gian sống cho các bệnh nhân được điều trị.
Trong một nghiên cứu khác, trích xuất tuyến ức được sử dụng một mình ở những
bệnh nhân bị ung thư phổi chưa được điều trị nào khác, đã làm thay đổi số lượng lympho
bào túi phổi và các tế bào dòng dưới ở các bệnh nhân ung thư.
Ung thư thanh quản giai đoạn đầu
10 bệnh nhân bị ung thư thanh quản giai đoạn sơ phát nhận trích xuất tuyến ức 60
ngày sau phẫu thuật ung thư. Một năm sau bệnh nhân đã biểu hiện sự gia tăng đáp ứng
miễn dịch đáng kể khi so sánh với nhóm chứng nhưng chưa có số thống kê bênh nhân
sống sót.
Ung thư biểu mô đầu và cổ
Điều trị phối hợp carboplastin và xạ trị được so sánh với một điều trị tương tự có bổ
sung thêm trích xuất tuyến ức ở 36 bệnh nhân bị ung thư biểu mô đầu và cổ tiến triển
trong một nghiên cứu kéo dài 2 năm. Nhóm được điều trị bổ sung thêm trích xuất tuyến
ức đã cho thấy một sự giảm mức bạch huyết cầu ít hơn và thời gian thuyên giảm bệnh
kéo dài hơn nhưng có một tỉ lệ cao hơn của những tái phát bệnh và di căn xa. Tỉ lệ tổng
thể thuyên giảm bệnh hoàn toàn thì giống nhau ở cả hai nhóm (94%). Tuy nhiên, với một
tỉ lệ thuyên giảm bệnh cao như vậy ở nhóm chứng, rất khó thấy được sự khác biệt đáng
kể trong nhóm điều trị. Các bệnh nhân bị ung thư biểu mô đầu và cổ đã được thấy có
thiếu hụt tính miễn dịch tế bào. Trích xuất tuyến ức được dùng 10 ngày trước khi phẫu
13


thuật và 6 tháng từ sau khi phẫu thuật ở 39 bệnh nhân được phẫu thuật điều trị ung thư
biểu mô đầu và cổ. 22 bệnh nhân khác bị bệnh tương tự chỉ phẫu thuật để cắt bỏ khối u.
Chức năng các đơn vào và tế bào drendritic đã được phục hồi ở cả hai nhóm điều trị và
không điều trị sau khi phẫu thuật cắt bỏ khối u. Tuy nhiên yếu tố khối phân tử thấp của
huyết thanh (LMMF) được duy trì ở mức cao ở cả hai nhóm. Tác giả kết luận rằng kết quả
giống nhau ở cả hai nhóm là do hiệu quả có lợi của việc cắt bỏ khối u trên tính miễn dịch
tế bào.

Hoá miễn dịch tế bào hỗ trợ cho việc sử dụng trích xuất tuyến ức trong điều trị ung
thư tế bào biểu mô đầu và cổ cũng đã được nêu trong tài liệu. Trích xuất tuyến ức đã
được tiêm bắp ở 3 liều dùng khác nhau so sánh với nhóm thử ngẫu nhiên. Nhóm 1 (n=4)
được điều trị placebo, nhóm 2 được dùng trích xuất tuyến ức với liều 5mg/kg trọng lượng
(n=4)., nhóm 3 (n=6) dùng liều 1 mg/kg cân nặng và nhóm 4 (m=7-8) dùng 2 mg/kg cân
nặng trong 10 ngày liên tiếp trước khi phẫu thuật. Sự cắt bỏ mô của khối u được nghiên
cứu bằng cách sử dụng một hệ thống phân tích hình ảnh (VIDAS RT) để xác định nồng
độ tế bào T, đại thực bào, đơn bào và tế bào drendretic của mỗi u bướu. Sự xâm nhập
của tế bào T vào vùng mô nền có mật độ cao hơn đáng kể đã được thấy ở các bướu cắt
bỏ của các bệnh nhân trong cả ba nhóm điều trị, có nghĩa là cả ba liều dùng trích xuất
tuyến ức đều tạo ra một sự xâm nhập tế bào T đáng kể. Cũng tìm thấy mối liên hệ tích
cực giữa sự thâm nhập tế bào T và năng lực tế bào drendritic tạo thành chùm với tế bào
T trong máu ngoại biên. Sự xâm nhập của các tế bào miễn dịch khác gia tăng không đáng
kể. Tác giả kết luận rằng việc điều trị tiền phẫu thuật bằng trích xuất tuyến ức cho các
bệnh nhân này làm gia tăng mạnh mẽ sự xâm nhập tế bào T của các tế bào u bướu.
Bệnh Hodgkin
Bệnh u hạch bạch cầu hạt
Bệnh nhân bị bệnh Hodgkin chưa được điều trị có đặc trưng thiếu hụt tính miễn dịch tế
bào. Trong một cố gắng để củng cố những thiếu hụt miễn dịch, một trích xuất tuyến ức đã
được sử dụng trong một nghiên cứu ở 366 trẻ em bị bệnh u bạch cầu hạt (bệnh Hodgkin),
chúng cũng cho thấy những rối loạn miễn dịch khác. Một sự gia tăng các thông số miễn
dịch và tỉ lệ sống được 5 năm đã được thấy ở 93.8% trường hợp khi so sánh với tỉ lệ 7080% các trường hợp chỉ điều trị bằng hoá trị và xạ trị.
Trong một nghiên cứu khác, 26 trẻ em bị bệnh bạch cầu tuỷ được dùng trích xuất
tuyến ức hỗ trợ cho hoá trị. Việc sử dụng trích xuất tuyến ức trong một thời gian dài
(không dưới 2-3 năm) không chỉ làm giảm đi những tai biến gian phát mà còn làm kéo dài
thời kỳ thuyên giảm bệnh. Thậm chí ở người trưởng thành bị bệnh Hodgkin tiến triển (giai
đoạn 3 và 4), việc sử dụng trích xuất tuyến ức giúp gia tăng tổng số tế bào lympho và gia
tăng tính miễn dịch trung gian tế bào T được thể hiện trên test thử da DTH, sự đáp ứng
Erosette và PHA. Sự cải thiện tính dung nạp huyết học ở những bệnh nhân dùng đồng
thời hoá trị và xạ trị cũng được thấy. Sự cải thiện này cũng đến ở những bệnh nhân bị

thiếu hụt lympho bào. Một nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương tự khi sử dụng một
trích xuất tuyến ức khác. Trích xuất tuyến ức cũng được sử dụng ở một nhóm nhỏ bệnh
nhân bị bệnh Hodgkin để xem xét sư thuyên giảm bệnh. Bệnh nhân được phân ra ngẫu
nhiên thành 3 nhóm. Nhóm 1 (n=6) dùng trích xuất tuyến ức mỗi ngày trong 35 ngày,
nhóm 2 sử dụng trích xuất tuyến ức 2 ngày một lần trong 35 ngày. Cả hai nhóm sau đó
dùng trích xuất tuyến ức 2 lần mỗi tuần trong 22 tuần. Nhóm 3 (n=7) không được điều trị.
Trong nhóm được điều trị mỗi ngày, có sự gia tăng đáng kể trong toán bộ các nhánh tế
bào T sau 35 ngày. Trong 22 tuần điều trị duy trì không tạo ra một sự cải thiện nào nữa
nhưng duy trì được sự tăng tế bào T về tỉ lệ và về số tuyệt đối. Nhóm nhận điều trị 2 ngày
một lần chỉ thể hiện sự gia tăng tế bào T3 và T11. Mặc dầu không có ý nghĩa về mặt
thống kê, trích xuất tuyến ức cũng làm tăng mức IL-2 và mức IFN-gamma. Việc sử dụng
trích xuất tuyến ức cho bệnh nhân bị bệnh Hodgkin có kèm theo nhiễm khuẩn và virus
cũng được thấy là có “ giá trị điều trị hỗ trợ quan trọng”.
14


Bệnh bạch huyết không phải Hodgkin
Trích xuất tuyến ức được sử dụng phối hợp với các tác nhân hoá trị được so sánh với
chỉ hoá trị thông thường ở những bệnh nhân bị bệnh bạch huyết cầu không phải Hodgkin
loại nặng và vừa. Những bệnh nhân này ở lứa tuổi từ 13 đến 75 và bị bệnh ở giai đoạn
lâm sàng II- IV hay giai đoạn I với biểu hiện bệnh rầm rộ và chưa được điều trị trước.
Trong 134 bệnh nhân của nghiên cứu, có 68 người được chọn ngẫu nhiên dùng hoá trị
riêng lẻ và 66 người được hoá trị cộng với trích xuất tuyến ức (1mg/kg IM) mỗi ngày từ
ngày 22-28 của mỗi chu kỳ dùng thuốc 28 ngày cho bệnh nhân được điều trị với sự phối
hợp tác nhận hoá trị thường là ProMACE-CytaBOM (prednosolone, methotrexate,
adriamicin, cyclophosphamide, etoposide, bleomycin và oncovin (vincistine) và vào ngày
thứ 22-29, 50-57 và 77-85 cho bệnh nhân điều trị với thuốc phối hợp MACOP-B
(methotrexate, adriamycin, cyclophosphamide, oncovin, prednisolon và bleomycin). Tất cả
các bệnh nhân này cũng được nhận cotrimoxazole (Bactrim) và ketoconazole hay
fuconazole mỗi ngày. Kết quả thể hiện rằng bệnh nhân điều trị với trích xuất tuyến ức

cộng thêm hoá trị liệu có tỉ lệ thuyên giảm bệnh hoàn toàn cao hơn nhóm chỉ dùng hoá trị
một mình. (59.1% so với 42.6%) và tỉ lệ thuyên giảm bệnh từng phần thấp hơn (21.2% so
với 32.4%). Tỉ lệ khỏi bệnh hoàn toàn có ý nghĩa nhất ở những bệnh nhân bị bệnh bạch
huyết bào mức độ vừa, dưới 60 tuổi có mức hemoglogin tốt. Một nghiên cứu sau 3 năm
tiếp theo không cho thấy có sự khác biệt thống kê trong tái phát bệnh và sống sót với 29
trong số 68 bệnh nhân ở nhóm chỉ sử dụng hoá trị so sánh với 22 trong số 66 bệnh nhân
ở nhóm điều trị kết hợp với trích xuất tuyến ức. Cũng không có sự khác biệt đáng kể về
mặt thống kê giữa tỉ lệ nhiễm trùng của hai nhóm. Tuy nhiên, hiện tại nhóm sử dụng trích
xuất tuyến ức có thời gian không bị nhiễm trùng dài hơn (37 so với 17). Cũng không có sự
khác biệt đáng kể về độc tính trên tuỷ cho những thử nghiệm so sánh heamoglobin,
lượng tế bào máu trắng và tiểu cầu trước và sau điều trị. Không nói đến tại sao trích xuất
tuyến ức được dùng 7 ngày trước và không dùng trong suốt thời gian hoá trị. Tác giả kết
luận rằng bệnh nhân dưới 60 tuổi họ có khả năng tốt để hoá trị và hồi phục tuỷ xương
bình thường (30-40% trong số họ là những người mới bị bệnh) có lợi khi dùng bổ sung
liệu pháp tuyến ức. Theo tác giả, việc sử dụng một liều thực nghiệm các tác nhân hoá trị
liệu mạnh như vậy- hầu hết các tác nhân này có độc tính tế bào đối với tế bào miễn dịch,
phối hợp sử dụng trích xuất tuyến ức chỉ sử dụng trước một chu kỳ hoá trị không nên
mong đợi tạo ra một kết quả sâu sắc. Sự khác biệt đáng kể trong tỉ lệ sống sót của bệnh
nhân sử dụng trích xuất tuyến ức thì đáng ngạc nhiên và khích lệ.
Ung thư vú
85 bệnh nhân bị ung thư vú tiến triển trước đó đã được phẫu thuật cắt bỏ vú và đang
hoá trị được đưa vào một nghiên cứu phân chia thành 2 nhóm so sánh với nhau. Một
nhóm điều trị hoá chất và trích xuất tuyến ức có sự giảm bạch cầu trầm trọng trong khi
nhóm chứng chỉ điều trị hoá chất. Ở nhóm sử dụng trích xuất tuyến ức có sự giảm bạch
cầu trầm trọng chỉ xấp xỉ một nửa khi so sánh với nhóm chứng. Một sự giảm nhiễm trùng
được bổ sung vào kết quả trên đã xác nhận giá trị của liệu pháp miễn dịch trong thời gian
hoá trị cho bệnh nhân ung thư vú. Một nghiên cứu tương tự sử dụng trích xuất tuyến ức
không tìm thấy sự khác biệt đáng kể về các giá trị miễn dịch học và hoá học giữa hai
nhóm bệnh nhân. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu quan sát thấy việc sử dụng các hormone
tuyến ức giúp bảo vệ tuỷ xương và những bệnh nhân sử dụng trích xuất tuyến ức có tai

biến do tác dụng phụ ít hơn nhóm không được điều trị.
Một nghiên cứu khác liên quan đến việc sử dụng trích xuất tuyến ức điều trị ung thư
vú ở 26 phụ nữ bị ung thư biểu mô vú, họ đã được phẫu thuật cắt bỏ vú từ 1 đến 2 năm
trước khi nghiên cứu bắt đầu. Hầu hết đã trải qua nạo bỏ lách. Mỗi bệnh nhân được tiêm
bắp trích xuất tuyến ức 2 lần một tuần trong 4 đến 6 tuần. Toàn bộ bệnh nhân đều được
kiểm chứng bằng test thử kháng nguyên ung thư phôi carcinoembryonic antigen (CEA).
Kết quả đã cho thấy một sự giảm giá trị CEA xấp xỉ 70% trong các trường hợp điều trị
15


bằng trích xuất tuyến ức được so với 47% ở nhóm chứng. Tác giả kết luận rằng do hiệu
quả của nó và không có tác dụng phụ, liệu pháp miễn dịch có giá trị và nên được xem xét
như một liệu pháp trong điều trị ung thư vú.
Ghi chú: test kháng nguyên ung thư phôi (CEA) là một test điển hình để kiểm tra ung
thư ruột kết và trực tràng, đây được xem như là một chỉ số để đánh giá một ung thư riêng
biệt có lan rộng, sắp thuyên giảm hay tái phát hay không. Mặc dầu test này sử dụng để
kiểm tra ung thư ruột trực tràng, nó cũng được dùng để phát hiện ung thư vú.
Pavesi đã thông báo một sự giảm độc tính huyết học và ảnh hưởng có lợi trên chất
lượng cuộc sống ở xấp xỉ 50 phụ nữ ung thư vú nhưng không tác động đến kết quả bệnh
(thời gian tiến triển bệnh hay thời gian sống trung bình) khi sử dụng trích xuất tuyến ức
1mg/kg trọng lượng, bằng đường tiêm bắp mỗi ngày trong thời gian hoá trị và 3 lần một
tuần sau đó cho đến khi bệnh tiến triển hay thoái lui từ nghiên cứu. Để xem xét hiệu quả
có lợi của trích xuất tuyến ức trong việc làm mất đi tai biến do nhiễm trùng và độc tính trên
tuỷ, bệnh nhân bị ung thư vú giai đoạn sớm được điều trị 6 chu kỳ phối hợp
cyclophosphamide, methotrexate và 5- florouracil với trích xuất tuyến ức. Bệnh nhân
được chia ngẫu nhiên thành hai nhóm với 25 người ở nhóm điều trị hoá chất với trích
xuất tuyến ức (50 mg/sqm IM) mỗi ngày, trong 2 tuần và sau đó dùng 2 lần một tuần, tối
thiểu 3 tháng được so sánh với nhóm chứng gồm 26 bệnh nhân chỉ dùng dược hoá trị.
Kết quả cho thấy nhóm có điều trị trích xuất tuyến ức có tỉ lệ nhiễm trùng thấp hơn có ý
nghĩa thống kê (37% so với 77%), tỉ lệ tế bào T4M giảm thấp hơn (21% so với 46%), dự

thảo hoá trị bị chậm lại ít hơn do độc tính trên tuỷ (21% so với 77%). Tác giả cũng lưu ý
những rủi ro do nhiễm virus và nhiễm nấm thấp hơn ở nhóm điều trị với trích xuất tuyến
ức . Trích xuất tuyến ức được kết luận là giảm đi những rủi ro nhiễm trùng ở bệnh nhân
ung thư vú giai đoạn sớm được hoá trị và cho phép sử dụng hoá trị đúng kế hoạch không
bị chậm trễ do độc tính của hoá chất. Một kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong một
nhóm 27 bệnh nhân bị ung thư vú tiến triển được điều trị bằng mitoxantrone và yếu tố
kích thích tế bào bạch cầu hạt-cụm (G-CSF) cộng thêm trích xuất tuyến ức. G-CSF là một
chất thêm vào để kích thích sinh sản bạch cầu trung tính trong điều trị liên kết với hoá trị
tăng liều khi có rủi ro cao của nhiễm trùng giảm bạch cầu trung tính. Kết quả cho thấy sự
khác nhau có ý nghĩa trong nhiều chỉ số độc tính huyết học chính giữa nhóm điều trị với
trích xuất tuyến ức và 27 người kiểm chứng chỉ nhận hoá trị. Lượng bạch cầu trung tính
tuyệt đối cao hơn đáng kể (ANC) cũng như thời gian làm tăng sự giảm bạch cầu trung
tính trở lại bình thường (2 so với 10 ngày) ở những bệnh nhân sử dụng trích xuất tuyến
ức . Nhóm điều trị cũng đạt tới mức chấp nhận được nồng độ bạch cầu trung tính nhanh
hơn nhóm chứng. Bệnh nhân chỉ định truyền hồng cầu ít hơn đáng kể khi so sánh với
nhóm chứng (1 so với 8) và bệnh nhân sốt giảm bạch cầu trung tính cũng ít hơn đáng kể
(6 và 16), tai biến nhiễm trùng (16% và 59%), thời gian nhiễm trùng (5.5 so với 10 ngày)
và độ trầm trọng của nhiễm trùng của nhóm điều trị cũng thấp hơn có ý nghĩa so với
nhóm chứng. Tuy nhiên không có khác biệt về tỉ lệ đáp ứng với hoá trị giữa 2 nhóm. Trích
xuất tuyến ức được dung nạp rất tốt qua các nghiên cứu.
Trích xuất tuyến ức cũng được sử dụng trong và sau phẫu thuật ở 114 trường hợp bị
ung thư dạ dày ruột. Nó cũng được chứng minh là có lợi cho bệnh nhân bị tân sản đã
phẫu thuật để giảm đi những stress do giải phẫu. Trong một nghiên cứu trên 50 bệnh
nhân khác bị ung thư ruột kết tràng không được mổ, sử dụng trích xuất tuyến ức tiêm
trong suốt tiến trình bệnh. Kết quả cho thấy lượng bạch cầu hạt và lượng tế bào lympho
gia tăng cùng với sự gia tăng tính MD trung gian tế bào, sự cải thiện lâm sàng và kéo dài
thời gian sống. 12 trường hợp trong số họ được kiểm tra mô học lặp lại về ung thư hoạt
động và các mô xung quanh. Kết quả cho thấy liệu pháp tuyến ức tạo ra tính kháng viêm
nhiễm, các phản ứng của u hạt và sợi nguyên bào với sự phôi hoá trọng tâm và sự hoại
tử bướu. Những thay đổi này có thể so sánh với những thay đổi được thấy ở bướu tiến

triển tự phát và được xem như là một biểu hiện của một đáp ứng chủ thể tự nhiên đối với
sự xâm lấn của các mô tân sản. Ở những tình huống mà ung thư ruột kết có thể phẫu
16


thuật, sử dụng trích xuất tuyến ức trong và sau khi mổ đã làm giảm đi stress do phẫu
thuật vì vậy mà có ảnh hưởng tốt đến kết quả trị liệu.
Kết quả tương tự cũng được báo cáo trong một xem xét 15 năm trên 457 bệnh nhân bị
u ác tính dạ dày ruột và ung thư vú. Nghiên cứu cũng cho thấy sự giảm biến chứng sau
phẫu thuật, vết thương mau lành hơn và thời gian sống được so sánh với bệnh nhân
không dùng liệu pháp miễn dịch. Mustacchi và cộng sự đã khám phá ra hiệu quả bảo vệ
của trích xuất tuyến ức trên sự giảm bạch cầu do hoá trị gây ra, giai đoạn sốt liên quan
cũng như cải thiện hiệu quả điều trị và dung nạp khi sử dụng liều cao acid folic (FA) và
florouracil (FU) trong ung thư ruột kết tràng di căn. Người bệnh nhận hoá trị và trích xuất
tuyến ức 1mg/kg thể trọng, tiêm bắp mỗi ngày đồng thời với hoá trị và 3 lần mỗi tuần sau
đó cho đến khi thấy bướu tiến triển, độc tính nghiêm trọng hay bệnh nhân từ chối dùng
thuốc xảy ra. Nhóm điều trị trích xuất tuyến ức đã cho thấy độc tính trên dạ dày ruột ít hơn
so với nhóm chứng . Nhóm này cũng cho thấy sự thuyên giảm bệnh toàn bộ nhiều hơn (6
so với 3 của nhóm chứng), sự thuyên giảm bệnh từng phần nhiều hơn (26 so với 16), sự
chậm trễ hoá trị do độc tính huyết học ít hơn (46 so với 60) và thời gian chậm trễ hoá trị
do viêm màng nhày và tiêu chảy ít hơn (11 so với 22). Tác giả ghi nhận bổ sung trích xuất
tuyến ức với fluorofolate giúp cải thiện tỉ lệ đáp ứng không có ảnh hưởng đáng kể trên
thời gian sống của người bệnh. Interferon thêm vào hoá trị có một kết quả tượng tự trên tỉ
lệ đáp ứng nhưng có độc tính rất lớn, độc tính này gần như không có khi điều trị với trích
xuất tuyến ức.
Ung thư tế bào gan
Có một báo cáo của một nghiên cứu thí điểm nhỏ trên sự tiến triển bướu ở hầu hết
50% bệnh nhân bị ung thư tế bào gan chỉ được điều trị với trích xuất tuyến ức. Những
kiểm nghiệm xa hơn tiết lộ trên thực nghiệm rằng trích xuất tuyến ức kích thích tế bào
Kupffer phóng thích một lượng đáng kể yếu tố làm tiêu bướu alpha interleukin 1 và 6.

U hắc tố
Trích xuất tuyến ức đã được cho sử dụng trước phẫu thuật và 6 tháng theo sau phẫu
thuật ở 8 bệnh nhân bị bệnh u hắc tố giai đoạn sớm. Không có sự khác biệt được thấy
trong tổng số lượng tế bào T, Thelper, T suppressor, tế bào CD38+ và 16+.
Sự gián phân được qui cho tính đáp ứng sinh sản tế bào lympho cũng không có hiệu
quả. Thời gian thuyên giảm bệnh có dài hơn nhưng không có ý nghĩa thống kê ở những
bệnh nhân sử dụng trích xuất tuyến ức so với nhóm chứng chỉ phẫu thuật (17.5 so với 13
tháng). Mặc dầu các thông số trên không biểu hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
nhưng nhóm điều trị trích xuất tuyến ức có thời gian sống tổng thể gần gấp 2 lần nhóm
chứng (40 so với 23 tháng). Giải thích của tác giả có lẽ là do các yếu tố miễn dịch khác có
liên quan không được đo. Những nghiên cứu xa hơn trên nhóm bệnh nhân lớn hơn đang
được lập kế hoạch thực hiện.
Phẫu thuật
Phẫu thuật ruột kết tràng
425 bệnh nhân sử dụng trích xuất tuyến ức 7 ngày 48 giờ trước phẫu thuật cộng thêm
cefotetan, một kháng sinh được dùng lúc gây mê. Kết quả cho thấy nhiễm trùng và áp xe
sau phẫu thuật thấp hơn được so sánh với nhóm chứng chỉ dùng kháng sinh, ngay cả ở
những bệnh nhân bị đáp ứng MD dung hoà. Nhiễm trùng đường hô hấp giảm 1/2 so
sánh với nhóm chỉ dùng kháng sinh.
Nhiễm trùng phẫu thuật mưng mủ (SSI)
47 trẻ em bị nhiễm trùng và trong đó 34 trẻ bị nhiễm trùng tại chỗ đã được cho sử
dụng trích xuất tuyến ức như một phần trong phức hợp trị liệu sau phẫu thuật, trong khi
17


75 trẻ em khác được điều trị theo cách thông thường. Kết quả cho thấy tiến trình bệnh
SSI ít trầm trọng hơn với nhiều thay đổi tích cực trong triệu chứng được thông báo, thời
gian nằm viện ngắn hơn và tỉ lệ tử vong giảm ở các trẻ em được điều trị. Tác giả xác
nhận rằng sử dụng trích xuất tuyến ức sau phẫu thuật ở trẻ em giúp gia tăng khả năng về
chức năng và số lượng của các lympho bào ngoại biên với hoạt tính diệt khuẩn của đại

thực bào tuần hoàn được cải thiện ở trẻ sơ sinh sau phẫu thật bị nhiễm trùng mưng mủ.
Nhiễm trùng sau phẫu thuật
Trích xuất tuyến ức được sử dụng trong một nghiên cứu liên quan đến nhiễm trùng
sau phẫu thuật. Tác giả đã báo cáo sau 14 ngày điều trị trích xuất tuyến ức đã kích thích
tế bào T trong khi tác động với immunoglobulin. Trích xuất tuyến ức làm gia tăng lượng tế
bào T và B. Những cải thiện lâm sàng tốt nhất khi trích xuất tuyến ức được dùng chung
với thuốc khác. Sau nghiên cứu miễn dịch học và nghiên cứu lâm sàng đã chứng tỏ rằng
tình trạng suy giảm MD là nguyên nhân lớn nhất của những biến chứng sau phẫu thuật
theo sau phẫu thuật chỉnh xương mặt, kết quả cho thấy ở 10 trường hợp phẫu thuật
xương mặt cho những biến dạng bẩm sinh hay mắc phải sử dụng trích xuất tuyến ức phối
hợp với phẫu thuật. Nghiên cứu này đã bình thường hoá các thông số miễn dịch và ngăn
ngừa sự phát triển các biến chứng sau phẫu thuật.
Cấy mô chỉnh hình
Trích xuất tuyến ức đã chứng tỏ có lợi để ngăn ngừa nhiễm trùng sau phẫu thuật cấy
mô chỉnh hình. Những nhiễm trùng nặng khi lắp các bộ phận giả thường rất khó điều trị
khi không lấy các dụng cụ gây nhiễm, kết quả có thể rất tồi, như: mất toàn bộ chức năng
khớp nối, cưa cụt, đôi khi có thể tử vong. Kết quả ban đầu cho thấy rằng trích xuất tuyến
ức có vai trò trong cả điều trị nhiễm trùng và ngăn ngừa nhiễm trùng bệnh viện mắc phải.
Phẫu thuật bụng
61 bệnh nhân đã được phân loại trước đó đã trải qua phẫu thuật bụng được dùng phối
hợp với một trích xuất tuyến ức. Tác giả đã tìm thấy một sự giảm đáng kể nhiễm trùng
sau phẫu thuật ở nhóm điều trị khi so sánh với 62 người nhóm chứng được phẫu thuật
nhưng không dùng trích xuất tuyến ức.
Phẫu thuật ở bệnh nhân bị miễn dịch thoả hiệp
220 bệnh nhân phẫu thuật bị bệnh MD thoả hiệp được chia thành hai nhóm đồng nhất:
nhóm điều trị với trích xuất tuyến ức trong và sau phẫu thuật và nhóm chứng chỉ nhận
điều trị phẫu thuật thông thường. Toàn bộ bệnh nhân này bị các bệnh trầm trọng. Kết quả
tích cực đã được thấy ở nhóm điều trị bằng trích xuất tuyến ức khi giảm đi những mức độ
trầm trọng của bệnh, thời gian nằm viện sau phẫu thuật, tử vong được so sánh với nhóm
chứng. Tác giả kết luận điều trị bằng trích xuất tuyến ức cho bệnh nhân bị MD dung hoà

là yếu tố quan trọng để tránh và giảm tỉ lệ nhiễm trùng sau phẫu thuật.
Hiệu quả của MD trên sự lão hoá
Hệ thống miễn dịch khoẻ mạnh, đầy sinh lực thì đặc biệt quan trọng đối với sức khoẻ
của người lớn tuổi. Lối sống của hầu hết người lớn tuổi theo nhiều cách tạo ra MD thoả
hiệp. Nhiều nguyên nhân thông thường của tính miễn dịch thoả hiệp được liệt kê ở phần
trước bài viết có liên quan đặc biệt đến người già. Phân theo nhóm, người già có khuynh
hướng vận động ít hơn, dùng nhiều thuốc hơn, trải qua nhiều tiến trình y khoa hơn. Dùng
chất dinh dưỡng nhiều hay ít quá cũng là một vấn đề phối hợp với lão hoá. Những tác
động này xảy ra trong cuộc sống trong đó sự tiêu hoá và đào thải không đủ thường phối
hợp với sự suy giảm chức năng gan làm tồi tệ thêm những ảnh hưởng bất lợi của nó trên
chức năng miễn dịch. Do những điều kiện này thêm vào và tích luỹ lại mà rất khó để xác
định chính xác bao nhiêu sự lão hoá trong con người là do tiến trình tự nhiên và bao
nhiêu là do mắc phải từ lối sống để dẫn đến miễn dịch dung hoà. Thậm chí có biết chính
18


xác tỉ lệ đó cũng khó có thể đánh giá, không có sự trùng hợp ngẫu nhiên nào mà nhiều
nguyên nhân gây ra miễn dịch thoả hiệp cũng được bao gồm trong lão hoá như vậy. “Sự
suy giảm theo chương trình ở khả năng sinh học được biết như sự lão hoá, trong thực tế
là hàng loạt những thay đổi đồng thời được biểu hiện trước tiên ở hệ thống MD”.
Một trong những tìm kiếm phù hợp nhất được phối hợp với ảnh hưởng miễn dịch trên
người và động vật là sự sụt giảm số lượng, chức năng và sinh sản của tế bào lympho T
như là sự gia tăng lão hoá. Điều này cũng được góp phần vào sự co rút của tuyến ức và
sau đó là sự giảm sinh sản các hormone của tuyến ức kiểm soát chức năng và số lượng
tế bào lympho T. Sự suy giảm theo tuổi này, được phối hợp với sự “mãn kinh tuyến ức”
và sự già yếu của miễn dịch tế bào góp phần vào sự phát triển của bệnh tật theo tuổi tác.
Hậu quả của tiến trình này là gia tăng sự nhạy cảm với nhiễm trùng, các bệnh miễn dịch
tự miễn và ung thư. Trích xuất tuyến ức dạng lỏng đã được sử dụng giúp hồi phục tính
miễn dịch tế bào bao gồm cả số lượng và chức năng của các tế bào lympho T. Câu hỏi là
trích xuất tuyến ức có thể tác động như thế nào trên người già.

Có một bài viết ngắn về hiệu quả miễn dịch học trực tiếp và lâm sàng của trích xuất
tuyến ức trên người có tuổi. Trong một nghiên cứu nhỏ, Pandolfi và cộng sự đã sử dụng
trích xuất tuyến ức cho 14 người được lựa chọn ngẫu nhiên có tuổi trung bình 80, họ
không bị bệnh ung thư, bệnh miễn dịch tự miễn hay nhiễm trùng tại thời điểm lựa chọn và
có lượng tế bào lympho bình thường. Liều dùng 1 mg/kg thể trọng mỗi tuần trong một
tháng và tiếp theo là 1mg/kg thể trọng mỗi 2 tuần, trong 2 tháng. Toàn bộ thời gian điều trị
là 90 ngày. Kết quả được so sánh với nhóm chứng 12 người không được điều trị. Các dữ
liệu về máu, nườc tiểu hàng ngày và các dữ liệu lâm sàng đều được đánh giá trước điều
trị, lúc 90 ngày và 180 ngày. Nghiên cứu không tìm thấy sự thay đổi ở tổng lympho bào
tuyệt đối. Có một sự gia tăng trong điều chỉnh lymphocyte T nhưng không đáng kể. Chỉ có
một sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong phép đo thực nghiệm giữa hai nhóm là sự
giảm tỉ lệ lắng từ một giá trị tăng nhẹ, từ 22 xuống 12 vào ngày thứ 180 của nhóm điều trị,
giảm khoảng 50%. Tuy nhiên, các kết quả lâm sàng cho nhiều ấn tượng hơn. Bệnh nhân
ở nhóm điều trị ít bị nhiễm trùng hơn nhóm chứng (21% so với 67%). Thêm vào đó, chỉ có
một giai đoạn bị nhiễm trùng đường tiểu trong nhóm điều trị được so sánh với 6 trong
nhóm chứng, chỉ có 2 giai đoạn nhiễm trùng hô hấp trong nhóm điều trị so sánh với 11
trong nhóm chứng. Không có những nhiễm trùng khác xảy ra trong nhóm điều trị trong khi
có đến 4 ở nhóm chứng. Không được thông báo về độc tính hay tác dụng không mong
muốn.
Vì không có những test thử chức năng tế bào lympho T thích hợp được hoàn tất nên
chúng tôi chỉ có thể tóm tắt rằng nguyên nhân của sự đề kháng nhiễm trùng được cải
thiện là do chức năng tế bào T gia tăng, như đã được chứng minh trong những nghiên
cứu trước trên người và động vật. Kết quả của nghiên cứu cung cấp chỉ định rất thú vị
rằng trích xuất tuyến ức không làm gia tăng đáng kể số lượng tế bào lympho ở những
người già khoẻ mạnh, tương đối bình thường nhưng có thể làm thay đổi đáng kể tiến trình
lâm sàng của họ ngay cả khi công thức bạch cầu của họ bình thường. Nghiên cứu được
trình bày sớm hơn trong bài viết này đã chứng tỏ hiệu quả của trích xuất tuyến ức trong
việc điều trị hầu hết những bệnh thông thường được phối hợp với lão hoá: nhiễm trùng,
bệnh tự miễn, ung thư. Tuy nhiên, nghiên cứu trình bày ở trên chứng tỏ lợi ích của trích
xuất tuyến ức cho những người lớn tuổi trên nền tảng phòng ngừa. Mặc dầu tính đáp ứng

lâm sàng được gia tăng có lẽ là do sự gia tăng các khả năng chức năng của tế bào
lympho T, cũng có nhiều các yếu tố khác liên quan. Sự hiện diện của các thymic được
liên quan đến việc giảm đi một vài tiến trình lão hoá thông thường phối hợp với các cơ
quan và các hệ thống khác. Nói cách khác, chúng có thể có các chức năng miễn dịch phụ
trợ.
Chẳng hạn, các nghiên cứu đã cho thấy lợi ích của trích xuất tuyến ức trên cấu trúc và
chức năng của gan ở động vật già. Các nguyên tử tế bào gan ở động vật già gia tăng kích
thước. Ty lạp thể bị phồng lên và có sự thiếu hụt thành phần màng với cấu trúc nội sẫm
lại và dày đặc electron. Lưới nội chất ghồ nghề (RER) và lưới nội chất bằng phẳng (SER)
19


cũng thể hiện các kiểu đặc trưng của sự thoái hoá. Những thay đổi đặc trưng này nên
được xem như là một tiêu chuẩn của lão hoá và làm giảm bớt hoạt tính sinh học. Trích
xuất tuyến ức từ bào thai bê đã cho thấy làm giảm đáng kể kích thước nguyên tử tế bào
gan ở chuột già (450 ngày tuổi). Kiểm tra bằng kính hiển vi các ti lạp thể tế bào gan của
những con chuột được điều trị cho thấy bức tranh mô học của những con chuột trẻ khoẻ
mạnh. Trái lại, mô học tế bào gan của nhóm chuột chứng đã cho thấy một kiểu điển hình
của sự thoái hóa phối hợp với lão hoá. Trong một nghiên cứu khác, thymic peptide (yếu tố
D tuyến ức) trích xuất từ heo được tiêm vào những con thỏ 24 tháng tuổi (những con thỏ
già) ở liều 2mg/kg,2 ngày một lần trong 3 tháng, kết quả làm giảm thành phần
malondialdehyde và lipofustion của gan đi kèm với sự gia tăng mức men glutathione
peroxide (GSH) của gan. Kiểm tra bằng kính hiển vi cho biết ty lạp thể gan và màng vi lạp
thể của những con thỏ già đã được hồi phục như là ở những con thỏ trưởng thành còn
trẻ. Một sự khám phá khác từ những nghiên cứu này cho biết chức năng gan và lá lách
không bị huỷ hoại theo tuổi ở những con chuột được điều trị. Một nghiên cứu khác đã
cho thấy mức acid béo peroxide chưa bão hoà ở các mô não và lá lách của những động
vật gặm nhấm. Nghiên cứu mô học của những động vật này tiết lộ hiệu quả phòng ngừa
và chống lão hoá của trích xuất tuyến ức có nguồn gốc từ bào thai và phôi thai của bê.
Tác giả kết luận rằng những hoạt chất sinh ra từ tuyến ức của bào thai và phôi thai không

chỉ có hiệu quả trên hệ thống miễn dịch mà còn trên tiến trình lão hóa của các cơ quan.
Các nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng việc sử dụng trích xuất tuyến ức dạng lỏng được
phối hợp với sự mất đi chứng viễn thị và thời kỳ mãn kinh ở người già. Những nhà nghiên
cứu khác đã chứng minh rằng trích xuất tuyến ức làm gia tăng đáng kể tuổi thọ ở những
con chuột được điều trị.
Xem xét trên một nhóm, những nghiên cứu này chỉ ra rằng trích xuất tuyến ức có lợi
trong việc bảo tồn hoạt tính chống oxy hoá, làm giảm đi sự đáp ứng điển hình đối với sự
lão hoá ở gan và ở các cơ quan khác và ảnh hưởng đến tuổi thọ ở một số động vật.
Tuyến ức cũng là nền tảng cho sự tích hợp và sự tương tác đúng đắn giữa hệ thống miễn
dịch, hệ nội tiết và hệ thần kinh trung ương (CNS). Những bằng chứng gần đây chỉ ra
rằng tuyến ức tham gia gián tiếp nhưng có vai trò đáng kể trong mạng lưới hệ thần kinh.
Một số tiến trình hằng định nội môi chi phối bởi các trục tuyến vùng dưới đồi thị có liên
quan, bao gồm sự điều hoà chuyển hoá mô.
Tóm lại, tính miễn dịch tế bào bị suy giảm trực tiếp phối hợp với lão hóa. Trích xuất
tuyến ức đã được chứng tỏ có lợi trong một số bệnh lâm sàng ảnh hưởng đến tuổi già.
Chúng cũng cho thấy có lợi ích miễn dịch học phụ trơ trên các cơ quan và hệ thống khác.
Sử dụng trích xuất tuyến ức rất quan trọng, đáng được cân nhắc, lựa chọn trong điều trị
và phòng ngừa nhiều triệu chứng lâm sàng ở người có tuổi.
Các bệnh khác
Phỏng
Các vi khuẩn cơ hội là nguyên nhân của nhiễm trùng ở bệnh nhân phỏng và thường
mắc phải trong bệnh viện. Những nhiễm trùng này thường do vi khuẩn Gram dương
chúng thường đề kháng nhiều kháng sinh. Trích xuất tuyến ức dùng một mình hay phối
hợp với thuốc kháng khuẩn có hiệu quả trong điều trị nhiều loại nhiễm trùng do vi khuẩn
gram dương ở những bệnh nhân phỏng nhập viện.
Trong một nghiên cứu khác, trích xuất tuyến ức được sử dụng phối hợp với Na
lidocain để hồi phục chức năng thực bào của các tế bào bạch huyết ngoại biên và làm gia
tăng tính miễn dịch thể dịch ở nhiều động vật bị phỏng. Sự điều trị làm giảm đi những
bệnh do tụ cầu vàng và nấm candida và giảm tỉ lệ tử vong.
Chứng động kinh và tiền động kinh

Tiến trình suy giảm miễn dịch thường đi kèm với một sự tụt đường cong parabol của
các mức hormon cận giáp so với các giá trị chuẩn đã được chứng minh ở những bệnh
20


nhân bị động kinh. Bệnh nhân bị tiền động kinh sinh mổ bắt con được điều trị sau phẫu
thuật bằng trích xuất tuyến ức. Tính miễn dịch tế bào được so sánh với các bệnh nhân
không dùng trích xuất tuyến ức. Một hiệu quả kích thích miễn dịch được ghi nhận của
trích xuất tuyến ức trên lympho bào T và đặc biệt trên dân số bổ sung tế bào T đề kháng
theophillin đã được quan sát. Hiệu quả của trích xuất tuyến ức cũng được ghi nhận ở
ngày thứ 3 và thứ 5 sau phẫu thuật.
Vô sinh ở nam giới
Trong một nghiên cứu đột xuất gồm hai phần, hiệu quả của trích xuất tuyến ức toàn
phần trên tính vận động và phát triển của tinh trùng của những người đàn ông xác nhận
ban đầu bị suy giảm tinh trùng đã được điều tra.Ở phần đầu của nghiên cứu, trích xuất
tuyến ức được nuôi cấy trên in vitro với tinh trùng của nam giới bị yếu sinh lý được so
sánh với tinh trùng của cùng người đó không cấy với trích xuất tuyến ức. Trong giai đoạn
2 của nghiên cứu, 10 người đàn ông bị suy tinh trùng được tiêm trích xuất tuyến ức (150
mg/ngày IM) trong 7 ngày và mẫu tinh dịch cũng được so sánh trước và sau điều trị. Kết
quả của cả hai phần nghiên cứu đã thể hiện sự gia tăng đáng kể trong tính di chuyển và
phát triển của tinh trùng khi sử dụng trích xuất tuyến ức.
Chức năng tim
Trong một nghiên cứu so sánh điều trị kéo dài 4 năm trên những người đàn ông với
sinh thiết bị bệnh cơ tim và dãn cơ tim, 13 nam giới được điều trị với trích xuất tuyến ức
thêm vào với điều trị thông thường, 13 người dùng interferon alpha cộng với điều trị thông
thường và 12 người khác chỉ điều trị bằng phương pháp thông thường thôi trong một giai
đoạn 2 năm. Kết quả sau 2 năm điều trị đã thể hiện một sự cải thiện đáng kể sự tống máu
ở tâm thất trái (81% so với 66%), thời gian vận động tối đa (5 phút so với 3 phút) trong khi
vận động. Hai năm sau 88% số đàn ông trong nhóm điều trị có điện tâm đồ bình thường
được so sánh với 22% ở nhóm chứng và 73% đã cải thiện nhóm chức năng được so

sánh với 25% số nam giới trong nhóm kiểm chứng.
Tác dụng phụ
Hơn 200 bài viết đã được xem xét khi chuẩn bị tài liệu này. Hầu như từ đầu đến cuối
các bài viết đều không thấy có những hiệu quả có hại của trích xuất tuyến ức. Trừ hai tai
biến về độc tính (xem phần "độc tính"), không có những tác dụng phụ nguy hiểm được kê
ra, thậm chí ngay cả những nghiên cứu sử dụng dạng chích. Một số tác giả ghi nhận
không có tác dụng phụ có hại. Đây là điều không thường gặp trong các bài viết y khoa,
đặc biệt ở những điều trị mới hay những điều trị thực nghiệm. Một bài viết tóm tắt khám
phá " hoàn toàn không cí tác dụng phụ có hại" trên hơn 50 nghiên cứu được xem xét.
Những tác dụng phụ không gây hại không được đo thường xuyên hoặc được báo cáo
trên thực nghiệm lâm sàng, tuy nhiên, một nghiên cứu đã thông báo một sự giảm tính
nhạy cảm với nhiễm virus và nhiễm trùng và một sự cải thiện trong tình trạng lâm sàng
tổng quát trên toàn bộ sức khoẻ của đối tượng liên hệ với trích xuất tuyến ức. Một vài
nghiên cứu sử dụng trích xuất tuyến ức để giảm đi tác dụng phụ khi khám và điều trị và
độc tính của xạ trị, hoá trị và phẫu thuật.
Độc tính
Chỉ có hai độc tính được báo cáo trong toàn bộ những bài viết được tham khảo ở đây
hay trên bất kỳ những bài viết khác đã xem xét. Đây là một sự khám phá quan trọng, đặc
biệt khi so sánh với tác dụng phụ và độc tính của một số dược phẩm để điều trị cùng điều
kiện bệnh mà trích xuất tuyến ức đã điều trị thành công, đặc biệt ở những bệnh nhân bị
bệnh mãn tính. Tuy nhiên một nghiên cứu đã dẫn ra một phản ứng phản vệ trầm trọng khi
dùng thymostimulin ở một người đàn ông 36 tuổi sử dụng thymostimulin như một phần
trong điều trị bướu cổ. Trong cas hi hữu này, ông ta đã bị phản ứng phản vệ ngay lần
tiêm thuốc đầu tiên. Các test thử sau không thấy có phản ứng có hại nào khi dùng các
21


trích xuất tuyến ức từ bò mà chỉ có đáp ứng riêng biệt đối với thymostimulin. Sau khi xem
xét về hai trường hợp này, chúng tôi đề nghị làm những test thử da đều đặn trước khi
tiêm bất kỳ một trích xuất tuyến ức nào như một biện pháp phòng ngừa.

Chống chỉ định
Mặc dầu chưa có báo cáo, Toàn bộ các bệnh nhân ghép các tạng hay các dạng ghép
mô cùng loài khác (cùng loài, khác giống di truyền)hay khác loài phải thận trọng với bất kỳ
tác nhân có khả năng kích thích tính đáp ứng miễn dịch tế bào vì có thể làm gia tăng khả
năng những tỉ lệ rủi ro do đào thải các mô được cấy phép. Tuy nhiên, mô cấy chỉnh hình
có thể được loại trừ vì một nghiên cứu được nói ở trên sử dụng thành công trích xuất
tuyến ức để ngăn ngừa biến chứng của phẫu thuật cấy phép chỉnh hình và đã thông báo
là không làm gia tăng thải ghép các mô.
Tóm tắt
Trích xuất tuyến ức đã được chứng minh là có giá trị điều trị có ý nghĩa cả trên lâm
sàng và trong thực nghiệm. Điều quan trọng để ghi nhận là những sự cải thiện đã có mặt
trong nhiều những trải nghiệm này không chỉ là những cải thiện làm giảm nhẹ. Trong một
số nghiên cứu, trích xuất tuyến ức được chỉ định làm hồi phục hệ thống miễn dịch tế bào
do làm gia tăng số lượng tế bào lympho T, các đại thực bào và các tế bào suppressor và
sự hồi phục chức năng của các tế bào này và các tế bào khác được thể hiện bởi gia tăng
sự chuyển đổi các tế bào tuyến ức chưa trưởng thành đến các tế bào T không cống hiến
ở tuỷ xương, gia tăng tính đáp ứng sinh sản đến ConA và phytohemaglutilin, gia tăng tạo
thành rosette E, gia tăng thực bào và hoạt tính diệt khuẩn của thực bào tuần hoàn, gia
tăng số lượng đại thực bào và đơn bào, làm giảm kháng nguyên

22



×