Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại ngân hàng công thương Việt Nam- chi nhánh Bến Thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.85 KB, 79 trang )

MỤC LỤC
2.1.2. Nguån vèn ®Ó cho vay trung dµi h¹n..........................................................................9
Trong trường hợp phát hành trái phiếu, không phải doanh nghiệp nào khi cần huy động
vốn trung dài hạn chỉ cần bán trái phiếu là có người mua ngay mà còn tuỳ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nữa như uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Các nhà đầu tư chỉ tiến hành
mua trái phiếu của doanh nghiệp khi họ thật sự tin tưởng vào doanh nghiệp mà yếu tố này
không phải bất cứ một doanh nghiệp nào cũng có được......................................................10
2.2. Các hình thức tín dụng trung dài hạn:...........................................................................11
Tiềm lực tài chính của khách hàng: Thể hiện qua các chỉ tiêu như vốn tự có, hệ số nợ, khả
năng thanh toán, khả năng sinh lợi hàng năm... có tiềm lực tài chính mạnh, doanh nghiệp
vay vốn sẽ dễ dàng hơn trong việc thoả thuận với ngân hàng về các khoản vay và dịch vụ
tài chính khác cũng như uy tín của doanh nghiệp trong việc trả nợ ngân hàng...................29
Triển vọng kinh doanh: Thông thường khi doanh nghiệp đưa vốn của ngân hàng vào kinh
doanh, một doanh nghiệp đang trong tình trạng thị phần của mình bị thu hẹp, nhà cung cấp
không ổn định, hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn thì tất nhiên khả năng hoàn trả
vốn tín dụng cho ngân hàng sẽ không được đảm bảo. Ngược lại một triển vọng kinh doanh
sáng sủa đồng nghĩa với việc ngân hàng sẽ mạnh dạn trong việc tài trợ cho doanh nghiệp
các nhu cầu về vốn do ngân hàng có thể xác định được các khoản tín dụng cấp cho khách
hàng là có chất lượng hay không..........................................................................................29
Mức độ bảo đảm tín dụng: Nguyên tắc cho vay của ngân hàng thương mại luôn đề cập đến
vấn đề tài sản đảm bảo cho khoản vay đặc biệt là đối với các khoản tín dụng trung dài hạn.
..............................................................................................................................................29

1


LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế Việt Nam trong năm 2011có nhiều thách thức lớn với lạm phát
tăng cao,tăng trưởng thấp , đầu tư trong nước giảm do thắt chặt tiền tệ và đầu
tư công giảm ,đầu tư nước ngoài chững lại do tình hình thế giới có nhiều biến
động.Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn như vậy nhưng kinh tế Việt Nam đã đạt


được nhiều thành tích đáng khích lệ, các chỉ tiêu kinh tế lớn được đảm bảo
,lạm phát được kìm chế và đang có xu hướng giảm dẩn. Đất nước đang
chuyển mình với những bước đi đúng hướng, những thành tựu mới trong mội
lĩnh vực của đời sống kinh tế-xã hội. Xu hướng toàn cấu hóa trên thế giới
cùng với việc nước Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO đã mở
ra nhiều cơ hội mới cho mọi nhà ,mọi doanh nghiệp, mọi lĩnh vực trong đó
không thể không nhắc tới lĩnh vực ngân hàng một lĩnh vực hoạt động hết sức
nhạy cảm ở Việt Nam .Chúng ta đang bắt đầu thực hiện các cam kết mở
cửa,khiến cho các doanh nghiệp đứng trước sự cạnh tranh ngày càng khốc
liệt, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng không nhỏ. Điều này tạo ra những
ảnh hưởng trong hoạt động sản xuất kinh doanhcuar các doanh nghiệp,vì thế
ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) nói chung
và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng .
Hệ thống NHTM Việt Nam chiếm một vị trí chiến lược trong việc đáp
ứng nhu cầu vốn đối với nền kinh tế.Nhận thấy tầm quan trọng của tín dụng
trung và dài hạn trong việc phát triển kinh tế xã hội,các ngân hàng thương mại
cũng đang triển khai nhiều biện pháp để có những bước chuyển dịch về cơ
cấu tín dụng tăng dần tỷ trọng cho vay trung- dài hạn với phương châm:
"Đầu tư chiều sâu cho doanh nghiệp cũng là đầu tư cho tương lai của ngành
ngân hàng”.Việc phát triển tín dụng của ngân hàng không những chỉ mang lại
lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế mà nó còn trực tiếp mang lại lợi ích thiết thực
cho ngành ngân hàng.
Tuy nhiên thực tế hoạt động tín dụng trung - dài hạn còn đang gặp
nhiều khó khăn,nổi cổm là vấn đề chất lượng hiệu quả tín dụng trung - dài hạn
còn thấp , rủi ro cao , dư nợ tín dụng trung-dài hạn trong các NHTM vẫn
thường chiếm tỷ lệ không cao lắm so với yêu cầu.Điều đó nói lên rằng vốn
2


đầu tư cho chiều sâu chưa đáp ứng được đòi hỏi bức thiết ngày càng tăng của

nền kinh tế. Ngoài ra tỷ lệ nợ quá hạn còn cao,cho vay ra nhưng không thu
hồi được cả gốc và lãi nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy vấn để chất
lượng hiệu quả tín dụng trung - dài hạn đang là vấn đề được mọi người trong
và ngoài ngành quan tâm,giải quyết .Và đâu cũng đang là đề tài của nhiều
cuộc trao đổi thảo luận tại các hội thảo,diễn đàn nghiên cứu.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa lớn lao của vấn đề trên ,với
những kiến thức đã được học tập, nghiên cứu tại trường và sau một thời gian
thực tập tại ngân hàng công thương Việt Nam chi nhánh Bến Thủy thấy rằng
nhữn vấn đề còn tồn tại trong tín dụng trung - dài hạn nên em đã chọn để tài :
"Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại ngân hàng
công thương Việt Nam- chi nhánh Bến Thủy “ để thực hiện báo cáo kết
quả thực tập tốt nghiệp .Đề tài tập trung nghiên cứu về thực trạng tín dụng
trung - dài hạn trong phạm vi chi nhánh vietinbank bến thủy từ năm 2009 đến
năm 2011.Ngoài phần mở đầu và kết luận để tài còn có 3 chương như sau :
CHƯƠNG 1:NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI
HẠN TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG VIÊT NAM - CHI
NHÁNH BẾN THỦY :……………………………………………………
CHƯƠNG 3:MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG
TMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM -CHI NHÁNH BẾN THỦY NGHỆ
AN:
Với những gì thể hiện trong đề tài em hy vọng sẽ đóng góp một số ý kiến
nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả tín dụng nói chung và chất lượng hiệu
quả tín dụng trung - dài hạn đối với ngân hàng công thương chi nhánh bến
thủy nói riêng. Tuy nhiên do trình độ cũng như thời gian nghiên cứu còn
3



nhiều hạn chế nên để tài không tránh khỏi những khiếm khuyết .Em rất mong
nhận được sự chỉ bảo và ý kiến đóng góp của thầy,cô giáo ,các ý kiến đóng
góp của các cô,chú ,anh,chị ở phòng tín dụng để đề tài của em được hoàn
thiện hơn và sâu sắc hơn.

4


CHƯƠNG 1:NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Khái niệm về ngân hàng thương mại :
Ngân hàng thương mại là một tổ chức trung gian tài chính có vị trí quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân và hoạt dộng theo định chế trung gian mang
tính chất tổng hợp. Các nhà nghiên cứu ghi nhận rằng,NHTM hình thành trên
cơ sở của sự phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa.Khi sản xuất phát triển
thì nhu càu trao đổi mở rộng sản xuất giữa các vùng lãnh thổ,giữa các quốc
gia tăng lên ,để khắc phục sự khác biệt về tiền tệ giữa các khu vực thì xuât
hiện các thương gia làm nghề đổi tiền .Khi trao đổi hàng hóa phát triển quay
trở lại kích thích sản xuất hàng hóa .Cùng với sự phát triển đó ,các nghiệp vụ
được phát triển dần như giữ tiền hộ ,chi trả hộ …trên cơ sở đó thực hiện hoat
động tín dụng.
Từ lịch sử hình thành hệ thống ngân hàng thương mại cho thấy ,các ngân
hàng thương mại chỉ xuất hiện trong điều kiện kinh tế đã phát triển đến một
trình độ nhất định ,dẫn đến tính tất yếu khách quan của việc hình thành hệ
thống ngân hàng gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế.
Ngân hàng quốc gia Việt Nam ra đời ngày 05/05/1951 theo sắc lệnh 15/SL
cuả Chủ tịch nước VNDCCH.Trong giai đoạn 1951-1987,ở Việt Nam đã tạo
lập hệ thống ngân hàng một cấp ,chỉ phù hợp với cơ chế quản lý kế hoạch hóa

tập trung.Khi nước ta chuyển nền kinh tế sang cơ chế thị trường ,hệ thống
ngân hàng một cấp tất yếu được cải tổ sang hệ thống ngân hàng hai cấp:cấp
quản lý và kinh doanh.Sau khi Nghị định số 53/HĐBT được ban hành ngày
26/03/1998 bộ máy NHNN được tổ chức thành hệ thống thống nhất trong cả
nước gồm hai cấp là NHNN và các ngân hàng chuyên doanh trực thuộc .Hệ
thống NHNN Việt Nam hoạt động theo chế độ hoạch toán kinh tế và kinh
doanh xã hội chủ nghĩa theo Pháp lệnh ngân hàng số 38-LTC/HĐNN ngày
24/05/1990 quy định :NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dungh số

5


tiền đó để cho vay thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán
2. Chức năng của ngân hàng thương mại
*Trung gian tín dụng :
NHTM một mặt thu hút các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, mặt khác
nó dùng chính số tiền đã huy động được để cho vay đối với các thành phần
kinh tế trong xã hội ,hay nói cách khác là một tổ chức đóng vai trò “cầu
nối”giữa các đơn vị thừa vốn với các đơn vị thiếu vốn .Thông qua sự điều
chuyển này NHTM có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển ,tăng
trưởng nền kinh tế , tăng việc làm ,cải thiện mức sống dân cư,ổn định thu chi
Chính phủ.Đồng thời chức năng này còn góp phần quan trọng trong việc điều
hòa lưu thông tiền tệ , kiềm chế lạm phát .Từ đó cho thấy rằng ,đây là chức
năng cơ bản nhất của NHTM
*Trung gian thanh toán :
Nếu như mọi khoản chi trả của xã hội đều được thực hiện bên ngoài ngân
hàng thì chi phí thực hiện là rất lớn ,bao gồm:chi phí in ,đúc, bảo quản ,vận
chuyển tiền …Với sự ra đời của ngân hàng thương mại ,phần lớn các khoản

chi trả trong hoạt động mua bán trao đổi hàng hóa dịch vụ của xã hội dần
được thực hiện qua ngân hàng ,với những hình thức thanh toán phù hợp ,thủ
tục đơn giản,nhanh chóng,thuận tiện với công nghệ ngày càng hiện đại hơn
.Chính nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội ở ngân hàng nên việc
lưu thông hàng hóa, dịch vụ trở nên nhanh chóng , an toàn , tiết kiệm hơn
.Không những vậy , do thực hiện chức năng trung gian thanh toán NHTM có
điều kiện huy động tiền gửi của toàn xã hội nói chung và của doanh nghiệp
nói riêng tới mức tối đa, tạo nguồn vốn cho doanh nghiệp đầu tư phát triển,
đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng .
*Chức năng tạo tiền :
Xuất phát từ khả năng thanh toán khác như séc ,ủy nhiệm chi…Chức năng
này được thực hiện thông qua nghiệp vụ tín dụng và đầu tư của hệ thống ngân
hàng thương mại ,trong mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống dự trữ quốc gia .Hệ
thống tín dụng là điều kiện cần thiết cho phát triển kinh tế theo hệ số tăng
trưởng vững chắc .Mục đích của chính sách dự trữ quốc gia là đưa ra một
6


khối lượng tiền cung ứng phù hợp với chính sách ổn định về giá cả,tăng
trưởng kinh tế ổn định và tạo được việc làm.
3.Vai trß cña ng©n hµng th¬ng m¹i trong nÒn kinh tÕ thÞ trêng.
Bất kỳ một quốc gia nào cũng thay thế lượng tiền giấy bạc trong lưu
thông bằng những phương tiện thanh ó nền kinh tế phát triển ,đang phát triển,
thậm chí chưa phát triển thì hoạt động của ngân hàng cũng có tác động to lớn
đến hoạt động của nền kinh tế.Trong nền kinh tế thị trường ,vai trò cuả ngân
hàng được thể hiện như sau :
Ngân hàng là nơi tập trung tiền nhàn rỗi và cung ứng tiền vốn cho quá
trình sản xuất kinh doanh .
Ngân hàng là trung gian trong quá trình thanh toán góp phần thúc đẩy
lưu thông hàng hóa nhanh chóng.

Ngân hàng góp phần điều tiết và kiểm soát thị trường tiền tệ,thị trường
vốn.
Ngân hàng góp phần thu hút ,mở rộng đầu tư trong và ngoài nước ,cung
cáp các dịch vụ tài chính khác.
II. Tín dụng trung và dài hạn của hệ thống ngân hàng thương mại
Tín dụng là hoạt động truyền thống chủ yếu và quan trọng nhất của các
NHTM .Các nhà nghiên cứu cho rằng các khoản cho vay chiếm tới 60% tài
sản của ngân hàng và đem lại 55-70% lợi nhuận của ngân hàng .Do vậy ngân
hàng phải thực hiện thành công chính sách ,kế hoạch tín dụng thì mới có thể
tồn tại và phát triển , đồng thời đóng góp tích cực cho sự ohats triển của nền
kinh tế.
1.Khái niệm và bản chất của tín dụng ngân hàng :
Tín dụng ra đời từ thế kỷ XVI,đó là một tất yếu khách quan ,phù hợp
với xu thế phát triển của lịch sử ,đã và đang thể hiện ngày càng rõ nét những
đặc tính ưu việt của mình,đóng góp một vai trò to lớn đối với sự phát triển
kinh tế toàn cầu.
Tín dụng ngân hàng là “quan hệ vay mượn lẫn nhau theo nguyên tắc
hoàn trả cả gốc lẫn lãi theo một thời gian nhất định giữa một bên là ngân hàng
-một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một bên là các đơn vị

7


kinh tế ,các tổ chức xã hội và dân cư trong xã hội ,trong đó ngân hàng đóng
vai trò vừa là người cho vay và cũng vừa là người đi vay”
Để hiểu rõ bản chất của tín dụng ngân hàng ,chúng ta cần xem xét quá trình
vận động của tín dụng qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1:Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay.
Ở đây vốn được chuyển từ Ngân hàng sang người đi vay. Xét về bản
chất, khi đi vay giá trị của vốn tín dụng ngân hàng giống với việc mua bán các

hàng hoá thông thường. Chỉ một bên nhận được giá trị còn lại một bên
nhượng đi giá trị.
Giai đoạn 2: Sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất.
Ở giai đoạn này, vốn vay được sử dụng để mua hàng hoá để thoả mãn
nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của người đi vay. Người đi vay không có
quyền sở hữu mà chỉ có quyền sử dụng vốn vay.
Giai đoạn 3: Hoàn trả tín dụng
Đây là giai đoạn kết thúc của một vòng tuần hoàn tín dụng. Khi vốn tín
dụng đã hoàn thành một chu kỳ sản xuất để trở về hình thái tiền tệ thì vốn tín
dụng của người vay hoàn trả lại cho ngân hàng. ở đây tiền không được bỏ ra
thanh toán cũng không phải tự đem bán đi mà cho vay, tiền chỉ được đem
nhượng đi với một điều kiện là nó quay trở lại điểm xuất phát sau một chu kỳ
nhất định. Đó là một bản chất riêng của ngành ngân hàng, sự hoàn trả được
bảo tồn về mặt giá trị và có phần tăng lên dưới hình thức lợi tức.
2.TÝn dông trung dµi h¹n cña ng©n hµng th¬ng m¹i.
2.1:Khái niệm tín dụng trung và dài hạn , nguồn vốn trung dài hạn và sự cần
thiết của nó :
Pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án phục vụ đời sống .
Như vậy,nhìn chung các tín dụng trung dài hạn có các đặc trưng cơ bản sau:
2.1.1:Khái niệm tín dụng trung dài hạn :
Tín dụng trung dài hạn :” là hoạt động tài chính tín dụng cho khách hàng vay
vốn trung dài hạn nhằm thực hiện các dự án phát triển sản xuất kinh doanh
,phục vụ đời sống “.Tùy theo từng quốc gia, từng thời kỳ mà có những quy
dịnh cụ thể của hoạt dộng tín dụng trung dài hạn ,Ở Việt Nam, về thời hạn
cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư ,khả
8


năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn vay của tổ chức tín dụng.
Hiện nay thời hạn của tín dụng trung dài hạn được xác định như sau:

Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 5 năm
Thời hạn cho vay dài hạn từ 5 năm trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt
động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp
nhân và không quá 15 năm đối với các dự án phục vụ đời sống.
Chúng có thời hạn trên một năm
Chúng được trả bằng những khoản trả vay theo thời gian (có thể theo
quý,tháng ,năm hoặc nửa năm…) trong kỳ hạn của khoản vay.
Chúng thường được đảm bảo bằng những tài sản lưu động đem ra thế chấp
hoặc văn tự cầm cố tài sản cố định.
Mục đích của hoạt động tín dụng trung và dài hạn là để đầu tư dự án ,xây
dựng mới ,mua sắm tài sản cố định ,mở rộng sản xuất kinh doanh ,đổi mới cải
tiến thiết bị công nghệ,ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm mục tiêu lợi nhuận
phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội và pháp luật quy định.
2.1.2. Nguån vèn ®Ó cho vay trung dµi h¹n
Nguồn vốn tự có: nguồn vốn này rất hạn chế vì nó chỉ chiếm từ 5 đến
10% tổng nguồn vốn hoạt động của ngân hàng.
Nguồn vốn huy động từ hình thức phát hành trái phiếu trung dài hạn
hoặc huy động tiền gửi trung dài hạn.
Nguồn huy động ngắn hạn định kỳ. Nguồn này có thể được xem xét,
tính trích ra một tỷ lệ phần trăm nào đó tuỳ thuộc vào sự biến động của tiền
gửi.
Nguồn vốn vay từ ngân hàng nhà nước. Nguồn này bị hạn chế vào
chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN. Các ngân hàng thương mại rất khó
thuyết phục NHNN cho vay trung dài hạn vì nó rất dễ gây ra lạm phát, nhất là
trong thời kỳ xây dựng cơ bản chưa có hàng hoá đối ứng.
Nguồn nhận vốn uỷ thác và vốn tài trợ cho vay theo chương trình hoặc
dự án đầu tư của nhà nước, của tổ chức kinh tế - tài chính - tín dụng trong và
ngoài nước.

9



2.1.3. Sù cÇn thiÕt cña tÝn dông trung dµi h¹n
Trong một nền kinh tế nhu cầu tín dụng trung dài hạn thường xuyên phát
sinh do các doanh nghiệp luôn tìm cách phát triển mở rộng sản xuất, đổi mới
công nghệ,... Đặc biệt đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay nhu cầu về vốn
xây dựng cơ bản là rất lớn, trong lúc các nhà kinh doanh chưa tích luỹ được
nhiều, chưa có thời gian để tích luỹ vốn, tâm lý đầu tư trực tiếp của công
chúng vào các doanh nghiệp còn hạn chế. Do vậy các doanh nghiệp khi tiến
hành đầu tư chủ yếu phải dựa vào nguồn vốn tự có của mình và bộ phận chủ
yếu còn lại phải dựa vào sự tài trợ của hệ thống ngân hàng. Trong hoạt động
kinh doanh của mình, các doanh nghiệp ngày càng thích huy động vốn để tiến
hành đầu tư thông qua hình thức đi vay trung dài hạn tại các ngân hàng hơn là
việc phát hành cổ phiếu hoặc phát hành trái phiếu dài hạn vì:
Việc đi vay vốn trung dài hạn ở ngân hàng sẽ làm cho doanh nghiệp có thể
tự chủ và khả năng kiểm soát độc lập được hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình mà không bị pha loãng quyền kiểm soát doanh nghiệp với các cổ đông
mới trong trường hợp phát hành thêm cổ phiếu mới.
Trong trường hợp phát hành trái phiếu, không phải doanh nghiệp nào khi
cần huy động vốn trung dài hạn chỉ cần bán trái phiếu là có người mua
ngay mà còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa như uy tín của doanh
nghiệp trên thị trường. Các nhà đầu tư chỉ tiến hành mua trái phiếu của
doanh nghiệp khi họ thật sự tin tưởng vào doanh nghiệp mà yếu tố này
không phải bất cứ một doanh nghiệp nào cũng có được.
Khi doanh nghiệp vay vốn trung dài hạn ngân hàng, ngân hàng sẽ có
thể điều chỉnh được kỳ hạn nợ, nghĩa là họ có thể trả nợ sớm hơn thời gian
đến hạn trả nợ khi họ không cần phải sử dụng đến vốn vay trung dài hạn. Khi
doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc trả nợ tại một thời điểm nhất định thì
cũng có thể xin ngân hàng gia hạn nợ. Còn việc huy động vốn thông qua hình
thức phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu thì doanh nghiệp luôn phải đối mặt

với việc trả lãi trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi khi công việc kinh doanh gặp khó
khăn.

10


Việc trả nợ vốn vay trung dài hạn cũng được ấn định theo một sự phân
chia hợp lý và ổn định vì vậy các doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm các
khoản trả nợ một cách dễ dàng hơn.
Tín dụng trung dài hạn ngày càng được các doanh nghiệp ưa thích hơn
vì phù hợp với điều kiện thực tế của các doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn,
các doanh nghiệp nhỏ. Các công ty cổ phần lớn cũng thích vay vốn trung dài
hạn để tránh những sự phân chia quyền lợi, kiểm soát công ty do việc phát
hành cổ phiếu đem lại.
Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay nhu cầu vốn tín dụng trung dài
hạn cho đầu tư phát triển, mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ là rất lớn.
Nhu cầu vốn này được thoả mãn một phần nhờ vốn do ngân sách nhà nước
cấp phát, vay nước ngoài và một phần huy động từ dân cư. Nhưng cho dù là
nguồn vốn xuất phát từ đâu, việc cung cấp vốn thông qua hệ thống ngân hàng
dưới hình thức tín dụng trung dài hạn là rất quan trọng.
Hệ thống ngân hàng thương mại là một hệ thống kinh doanh tiền tệ, có
kinh nghiệm thẩm định các dự án, các chương trình đầu tư do vậy việc các
ngân hàng thương mại cung cấp vốn trung dài hạn cho các doanh nghiệp sẽ
đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp. Khi ngân hàng cho vay thì có thể soạn
thảo hộ những doanh nghiệp các dự án đầu tư, có thể tư vấn cho các doanh
nghiệp về đầu tư và giúp đỡ các doanh nghiệp trong quan hệ thanh toán với
khách hàng, thông tin cho khách hàng những thông tin cần thiết.
2.2. Các hình thức tín dụng trung dài hạn:
• Hoạt động tín dụng theo dự án đầu tư: đây là hình thức tín dụng trung dài
hạn chủ yếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Dự án đầu

tư là tợp hợp những đề xuất dựa trên cơ sở căn cứ khoa học và thực tiễn về
việc bỏ vốn để cải tạo đổi mới kỹ thuật và công nghệ những đối tượng là
tài sản cố định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng hoặc nâng cao
chất lượng của sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ trong một khoảng thời gian
nhất định. Dự án do doanh nghiệp đưa ra và sau khi được các cấp có thẩm
quyền xét duyệt về các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật, xã hội sẽ được gửi tới
ngân hàng để đáp ứng nhu cầu vay vốn tài trợ của dự án. Dựa vào lĩnh vực
tài trợ mà ta chia làm hai hình thức phổ biến:

11


-) Hình thức tín dụng trung dài hạn nhằm cải tạo, khôi phục, mở rộng, thay
thế tài sản cố định. Trong hình thức này, nguồn vốn của Ngân hàng tham
gia vào dự án tương đối lớn, thời gian tín dụng của dự án không dài, các
dự án này thường có quy mô vừa và nhỏ. Các dự án loại này đã và đang
được ngân hàng tài trợ có hiệu quả.
-) Hình thức tín dụng trung dài hạn nhằm để đầu tư xây dựng theo dự án
mới, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ để tiến hành hoạt động
sản xuất kinh doanh. Khi tham gia vào hình thức này nguồn vốn của ngân
hàng tham gia thường nhỏ hơn nguồn vốn tự có của chủ đầu tư, thời gian của
dự án thường dài.
• Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung dài hạn trên cơ sở hợp
đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách
hàng thuê. Khi hết thời hạn thuê, khách hàng có thể thuê tiếp hoặc mua
lại theo các thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn thuê các bên
không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng
• Thấu chi: tức là ngân hàng chấp thuận cho khách hàng được quyền chi
vượt số dư trên tài khoản tiền gửi với những điều kiện nhất định. Chi phí
cơ bản đối với người vay là lãi suất đánh vào số dư thấu chi ngày. Người

vay nói chung chỉ phải trả lãi số tiền đã sử dụng vì không có yêu cầu số dư
bồi thường và cho trong giai đoạn số tiền bị lấy đi. Vì lý do đó, chi phí hữu
hiệu của một khoản nợ thấu chi là lãi suất được định ra trên số dư thấu chi.


Bảo lãnh trung dài hạn mua thiết bị trả chậm: là cam kết của ngân hàng về
việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho chủ đầu tư, đứng trả nhập thiết bị
máy móc, thiết bị với thời hạn ít nhất là một năm trong trường hợp khách
hàng không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ với nhà xuất khẩu. Hình thức
này được áp dụng khi chủ đầu tư không đủ khả năng trả nợ ngay một lần.
Họ ký hợp đồng với bên xuất khẩu xin trả nợ dần theo giá trị của thiết bị
hàng năm dưới sự bảo lãnh của ngân hàng. Hình thức này rất có lợi cho
chủ đầu tư vì họ không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để mua máy móc
thiết bị mà khoản tiền nay sẽ được trả dần theo một chuỗi niên kim khi các
máy móc này sinh lời. Tuy nhiên, nếu chủ đầu t ư không thực hiện được

12


nghĩa vụ trả nợ cho nhà xuất khẩu thì ngân hàng bảo lãnh phải đứng ra trả
nợ thay cho chủ đầu tư, lúc này ngân hàng trở thành chủ nợ chính của nhà
đầu tư.
2.3. Vai trò của tín dụng trung dài hạn trong nền kinh tế thị trường.
2.3.1. Đối với doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển như hiện nay, các
doanh nghiệp đang phải tham gia vào cuộc cạnh tranh gay gắt, đây là một
thực tế tất yếu xảy ra ở bất kỳ nền kinh tế nào. Do sức ép của cạnh tranh mà
các doanh nghiệp luôn có những nhu cầu đầu tư để tái sản xuất mở rộng, tăng
khả năng sản xuất, phát triển thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, có
như vậy doanh nghiệp mới đảm bảo tồn tại và phát triển. Nhưng muốn thực

hiện các kế hoạch như vậy doanh nghiệp cần có một lượng vốn nhất định. Ở
Việt Nam hiện nay khi mà thị trường tài chính chưa hoàn thiện thì tín dụng
ngân hàng là một giải pháp tối ưu nhất cho các doanh nghiệp. Đối với tất cả
các dự án trên doanh nghiệp cần phải được tài trợ bằng một nguồn vốn trung
dài hạn, tín dụng trung dài hạn của ngân hàng sẽ đáp ứng nhu cầu này của
doanh nghiệp. Nó giúp cho doanh nghiệp có những công nghệ mới để nâng
cao chất lượng sản phẩm, củng cố vị thế của doanh nghiệp trên thị trường,
giúp cho doanh nghiệp có thể chịu được những sức ép ban đầu của cạnh tranh
và của môi trường kinh doanh mới, giúp cho doanh nghiệp yên tâm hơn trong
đầu tư và rảnh tay tính toán với những dự án lớn, hiệu quả cao. An toàn về tài
chính và khả năng thanh toán là mối quan tâm của nhiều phía đặc biệt là các
doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng trung dài hạn của ngân hàng vô cùng quan
trọng đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
2.3.2. Đối với ngân hàng
Ngân hàng là tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ, nhận gửi và
huy động các nguồn tài chính nhằm mục tiêu lợi nhuận. An toàn trong lợi
nhuận là mục của ngân hàng, nói cách khác ngân hàng là một kinh doanh gặp
nhiều rủi ro do phần lớn tài sản có của nó là bộ phận tài sản sinh lợi lại không
do ngân hàng trực tiếp sử dụng do vậy mà trong quá trình hoạt động, ngân
hàng đạt được mục tiêu lợi nhuận nhưng vẫn phải đảm bảo an toàn. Vì vậy
ngân hàng luôn quan hàng cung ứng ngày càng đa dạng không chỉ giới hạn
13


trong nhng nghip v truyn thng nh nhn gi, cho vay hay trung gian
thanh toỏn m cũn rt nhiu cỏc nghip v a dng khỏc. Li nhun do cỏc
nghip v ny ngy mt chim t trng ln trong c cu li nhun ca ngõn
hng. Mt trong nhng khỏch hng quan trng nht ca nhng nghip v ny
khụng ai khỏc chớnh l cỏc doanh nghip. Do vy to c mi quan hệ lâu
dài trong tơng lai, cũng là thị trờng sinh lợi chính của mình, ngân hàng sử

dụng tín dụng trung dài hạn nh là một công cụ cuốn hút các khách hàng, củng
cố lòng trung thành của các khách hàng truyền thống, đồng thời tạo ra các
mối quan hệ mới với các khách hàng mới. Ngân hàng thông qua nguồn vốn tín
dụng u đãi cung cấp tín dụng trung dài hạn cho các khách hàng, không những
thu đợc lợi nhuận từ hoạt động tín dụng đem lại mà còn thu thêm đợc lợi
nhuận từ những dịch vụ khác cung cấp cho khách hàng. Hơn nữa năng lực
cung cấp tín dụng trung dài hạn cũng chứng tỏ ngân hàng có đợc niềm tin lớn
từ khách hàng cũng nh công chúng, trong giai đoạn hiện nay nó cũng chứng tỏ
khả năng cạnh tranh của ngâng hàng.
2.3.3. i vi nn kinh t
m bo phỏt trin kinh t theo chiu sõu: Nhu cu v tớn dng c bit l
tớn dng trung di hn tn ti trong tt c cỏc nn kinh t, khụng ph thuc
vo trỡnh phỏt trin cng nh ch chớnh tr xó hi bi vỡ tt c cỏc
quc gia u cú chung mt nhu cu ú l nhu cu u t phỏt trin. Mt
nn kinh t ch cú th phỏt trin mnh v bn vng nu trong nn kinh t
ú cỏc hot ng u t c y mnh. Khỏc vi cỏc loi hỡnh u t
khỏc, hot ng tớn dng trung di hn cho phộp cỏc t chc cú c
ngun vn vi thi hn hon vn lõu di u t vo cỏc d ỏn mang
ý ngha chin lc, phỏt huy c hiu qu trong trung di hn. i vi
cỏc Chớnh ph, u t vo cỏc cụng trỡnh c s h tng nh: ng xỏ, cu
cng, sõn bay, nõng cp, xõy mi cỏc ụ th... khụng th em li hiu qu
trong chc lỏt nhng nú s mang li ớch li to ln sau ny. Vic s dng cú
hiu qu cỏc ngun ti chớnh trung di hn, i vi cỏc chớnh ph s giỳp
h theo ui c cỏc chớnh sỏch kinh t v mụ t ú cú th hng c
u t t nhõn vo cỏc ngnh m h ang khuyn khớch phỏt trin, m
bo nn kinh t phỏt trin bn vng trong di hn. Vi nhng cụng trỡnh

14



lớn do Chính phủ thực hiện, sẽ tạo ra nhiều việc làm mới, hình thành nhiều
công ty đứng ra phục vụ các nhu cầu còn bỏ ngỏ. Những công trình phúc
lợi được tài trợ bằng nguồn vốn trung dài hạn không đem lại lợi ích cho cá
nhân thực hiện nhưng lợi ích mà nó tạo ra cho toàn bộ nền kinh tế là vô
cùng to lớn. Như vậy có thể nói tín dụng trung dài hạn đóng một vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện các chương trinh kinh tế xã hội
của một quốc gia, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vững chắc, theo
chiều sâu.
• Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với mục tiêu của Chính phủ:
Hiện nay ở nước ta đang tiến hành CNH - HĐH. Công nghiệp hoá không
chỉ đơn giản là tăng thêm tốc độ và tỷ trọng sản xuất công nghiệp mà là
quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới về công nghệ tạo nền tảng
cho sự phát triển nhanh và bền vững, hiệu quả cao cho toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Trong điều kiện hiện nay khi thị trường vốn của nước ta chưa
phát triển thì hiện tại và trong thời gian tới tín dụng trung dài hạn vẫn đóng
vai trò quyết định trong việc thực hiện quá trình CNH - HĐH. Thông qua
hoạt động tín dụng trung dài hạn, ngân hàng có thể cho vay đáp ứng nhu
cầu phát triển của ngành kinh tế này cũng như hạn chế đối với ngành kinh
tế khác. Như vậy qua chính sách tín dụng trong từng thời kỳ mà các
NHTM có thể tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
• Tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn: tín dụng trung dài hạn đầu tư cho
một dự án mới để đầu tư vào các máy móc thiết bị và xây dựng cơ bản của
doanh nghiệp sẽ kích thích sản xuất phát triển. Khi đó nhu cầu vôn lưu
động sẽ tăng lên để đáp ứng nhu cầu sản xuất. Tốc độ phát triển sản xuất
càng lớn thì nhu cầu vốn ngắn hạn càng lớn.
• Thúc đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu: Nhờ có tín dụng trung dài
hạn của ngân hàng mà các doanh nghiệp có thể nhập khẩu công nghệ mới
từ đó nâng cao được năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm, được thị
trường quốc tế chấp nhận. Thị trường của doanh nghiệp được mở rộng ra
thị trường quốc tế góp phần tăng kim ngạch xuất nhập khẩu.

• Đảm bảo nguồn thu vững chắc cho Ngân sách nhà nước: Thuế là nguồn
thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Khối lượng sản phẩm lớn được sản
15


xuất và tiêu thụ sẽ tạo ra một nguồn thu lớn cho ngân sách từ các loại thuế
như VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế XNK...Trong trường hợp hàng hoá
được xuất khẩu thì chúng ta sẽ thu được một nguồn ngoại tệ đáp ứng nhu
cầu nhập khẩu.
Ngoài ra, tín dụng trung dài hạn còn mang ý nghĩa to lớn đối với các cá
nhân trong xã hội và trong toàn bộ nền kinh tế. Sản xuất phát triển, các doanh
nghiệp có vốn để mở rộng sản xuất, tích luỹ trong xã hội tăng lên, nền kinh tế
biến đổi về chất, phúc lợi xã hội được đảm bảo, việc làm tạo ra ngày càng
nhiều, tỷ lệ thất nghiệp giảm đi đôi với chất lượng cuộc sống ngày một tăng
lên của các tầng lớp dân cư trong xã hội.
3.Chất lượng tín dụng trung và dài hạn
3.1.Quan niệm về chất lượng tín dụng trung và dài hạn
Tín dụng ngân hàng là một sản phẩm của ngân hàng cung ứng phục vụ
các khách hàng của mình. Cũng như các sản phẩm khác nó cũng có chất
lượng, tuy nhiên vì ngành ngân hàng là một ngành kinh tế đặc biệt, liên quan
chặt chẽ đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế nên chất lượng tín dụng ngân
hàng có những đặc trưng riêng.
Chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng có
lựa chọn, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đồng thời góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội
Chất lượng tín dụng trung dài hạn là chất lượng của các khoản vay có
thời hạn trên một năm, được đánh giá là có chất lượng tốt khi vốn vay được
sử dụng đúng mục đích phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh đem
lại hiệu quả, đảm bảo trả nợ cho ngân hàng đúng hạn vừa bù đặp được chi phí
vừa có lợi nhuận vừa đem lại hiệu quả kinh tế xã hội

Từ khái niệm trên ta thây rằng khách hàng, NHTM, và bối cảnh kinh tế
là ba nhân tố được đề cập đến khi xem xét chất lượng hoạt động tín dụng
trung dài hạn. Việc xem xét chất lượng tín dụng trung dài hạn mà thiếu đi một
trong ba nhân tố đó là phiến diện vì ba nhân tố này tác động qua lại, vừa thúc
đẩy vừa kiềm chế lẫn nhau. Do đó chúng ta xem xét chất lượng tín dụng trung
dài hạn trên ba giác độ đó
16


• Đối với ngân ngân hàng: chất lượng tín dụng trung dài hạn thể hiện ở
phạm vi, mức độ giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực theo hướng
tích cực của ngân hàng và phải bảo đảm được khả năng cạnh tranh trên thị
trường, làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế, phục vụ tăng trưởng và
phát triển. Chất lượng tín dụng trung dài hạn thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận
hợp lý, dư nợ tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn hợp lý, đảm bảo cơ cấu giữa
nguồn vốn ngắn hạn, trung dài hạn trong nền kinh tế.
• Đối với khách hàng: chất lượng tín dụng trung dài hạn là sự thoả mãn yêu
cầu hợp lý của khách hàng với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản đảm bảo thu
hút khách hàng nhưng vẫn tuân thủ đúng những quy định của tín dụng, góp
phần làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của doanh nghiệp, cải thiện
hoạt động sản xuất kinh doanh và duy trì sự tồn tại, phát triển của ngân
hàng.
• Đối với nền kinh tế: khoản tín dụng trung dài hạn có chất lượng phải hỗ trợ
cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng
cơ sở hạ tầng kinh tế, vừa thúc đẩy tiêu dùng, thu hút tối đa nguồn vốn
trong nước, đồng thời tranh thủ vốn đầu tư nước ngoài phục vụ cho quá
trình phát triển kinh tế.
3.2. Chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn
3.2.1 Quy mô cho vay trung – dài hạn :
Quy mô cho vay trung – dài hạn được thể hiện thông qua các chỉ tiêu sau :

- Doanh số cho vay : Là chỉ tiêu cơ bản khi đánh giá một cách khái quát và có
hệ thống đối với những khoản vay tại một thời điểm. Khi xác định doanh số
cho vay, chưa có sự đánh giá cụ thể về chất lượng và phần ròng của những
khoản vay trong một thời ký nhất định. Nhưng đây là chỉ tiêu cho biết khả
năng luân chuyển sử dụng vốn của một NH. Quy mô đầu tư và cấp vốn tín
dụng của NH đó với nền kinh tế quốc dân trong một thời kỳ.
- Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế : Tổng dư nợ nội tệ và ngoại tệ thể hiện
được mối quan hệ tín dụng giữa NH và khách hàng, đồng thời là chỉ tiêu phản
ánh phần vốn đâu tư hiện đang còn lại tại một thời điểm của NH mà NH đã
cho vay nhưng chưa thu về. Đồng thời chỉ tiêu này cũng phản ánh mối quan
hệ với doanh số cho vay ( dư nợ đầu kỳ + doanh số cho vay – doanh số thu nợ
17


= dự nợ cuối kỳ ), với khả năng đáp ứng nguồn vốn của các NHTM đối với
nhu cầu sử dụng vốn trong nền kinh tế.
3.2.2. Hiệu quả tín dụng trung – dài hạn :
Để đánh giá hiệu quả tín dụng trung – dài hạn, người ta có thể dùng nhiều
chỉ tiêu khác nhau. Các chỉ tiêu này là các chỉ tiêu chung cho toàn bộ các
khoản tín dụng trung – dài hạn tại các NH, Tức là đánh giá hiệu quả tín dụng
trung – dài hạn của một NH.
* Chỉ tiêu dư nợ :
Dự nợ trung – dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này cho thấy biến động tỉ trọng dư nợ trung – dài hạn trong tổng dư
nợ tín dụng của một NH qua các thời kỳ khác nhau. Có thể nghiên cứu biến
động quy mô, khối lượng tín dụng trung – dài hạn. Nếu chỉ xem xét tử số, tỷ
lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát triển ngày càng có uy tín. Vì tín dụng
trung – dài hạn có rất nhiều rủi ro tiềm ẩn, thế mà dư nợ lại lớn chứng tỏ mối
quan hệ khách hàng – NH là hoàn toàn tin cậy.

Chỉ tiêu này cũng có thể dùng so sánh giữa các Nh khác nhau để thấy
được thế mạnh của NH này so với thế mạnh của NH khác trong hoạt động tín
dụng trung – dài hạn. Tuy nhiên có thể coi đây như một chỉ tiêu định lượng để
có thể thấy rõ bản chất tín dụng trung – dài hạn của một NH.
* Chỉ tiêu sử dụng vốn :

Huy động vốn
X 100%
Sử dụng vốn

18


Hoặc :
Doanh số cho vay trung – dài hạn
_______________________________
Nguồn vốn trung – dài hạn
NH chỉ có thể sử dụng vốn trung dài hạn và một phần nguồn vốn ngắn hạn để
cho vay trung – dài hạn. có thể hiểu đây là chỉ tiêu hệ quả phản ánh hiệu quả
tín dụng. Chỉ tiêu sử dụng vốn cho phép đánh giá tính hiệu quả trong hoạt
động tín dụng của một NH. Chỉ tiêu nàu càng lớn chứng tỏ NH đã sử dụng
một cách hiệu quả nguồn vốn huy động được.
* Chỉ tiêu nợ quá hạn :
Nợ quá hạn – trung dài hạn
________________________
Tổng nợ quá hạn
NH sẽ chuyển các khoản vay không trả được nợ khi đến hạn thành các khoản
nợ quá hạn. Nợ quá hạn có thể do các nguyên nhân chủ quan từ phía doanh
nghiệp, do các nguyên nhân khách quan hoặc do xác định không hợp lý thời
hạn vay, phương thức hoàn trả hay một số yếu tố khách của hợp đồng. Nợ quá

hạn là điều không mong muốn của Nh. Nó làm giảm hiệu quả tín dụng của
NH và các NH luôn cố gắng làm giảm tỷ lệ này.
Hoặc :
Nợ quá hạn tín dụng trung dài hạn x 100%
___________________________________
Tổng dư nợ tín dụng trung – dài hạn
Chỉ tiêu này cho thấy trong 100% dư nợ tín dụng trung – dài hạn thì có bao
nhiêu % là nợ quá hạn.

19


Thể hiện tỷ lệ nợ không thanh toán đúng hạn trên tổng dư nợ. Các NH có chir
số này thấp chứng tỏ hiệu quả tín dụng cao. Ở các nước có nền tài chính phát
triển, người ta quy định các Nh có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ < 5% thì
được coi là có chất lượng tín dụng tốt. Ngược lại nếu vượt quá 5% thì có dấu
hiệu xấu, hoạt động của NH đó không an toàn, nguy cơ rủi ro cao.
* Chỉ tiêu nợ khó đòi :
Nợ khó đòi trung – dài hạn
_______________________
Tổng dư nợ trung – dài hạn
Rõ ràng tỷ lệ này càng cao thì tín dụng có hiệu quả thấp. Nợ khó đòi có nguy
cơ làm giảm lợi nhuận của NH và nếu có quá nhiều nợ khó đòi sẽ có thể làm
cho NH phá sản. Các NH đang cố gắng giảm đến mức tối đa các khoản nợ
khó đòi để làm tăng hiệu quả tín dụng trung – dài hạn.
* Chỉ tiêu lợi nhuận :
Lợi nhuận từ tín dụng trung – dài hạn
_________________________________
Tổng dư nợ tín dụng trung – dài hạn
Lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả các khoản tín dụng

trung – dài hạn bởi xét cho cùng mục đích của NHTM là lợi nhuận, hay ít
nhất cũng thu đủ để bì đắp chi phí bỏ ra.
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung dài hạn, nó nêu lên
số lãi thu được từ một đồng dư nợ trung – dài hạn. Nên trong điều kiện thị
trường và rủi ro như nhau thì chỉ tiêu này càng lớn càng có lợi cho NH. Đặc
biệt với những NH chưa phát triển các dịch vụ Nh thì thu từ hoạt động tín

20


dụng là chủ yếu. Có nghĩa là hiệu quả tín dụng tốt phải bao gồm cả cái àm
khoản tín dụng đó mang lại cho NH.
Hay ta xét đến chỉ tiêu :
Lợi nhuận tín dụng trung – dài hạn
________________________________
Tổng lợi nhuận
Chỉ tiêu này cho phép thấy rõ hơn vị trí của tín dụng trung – dài hạn trong
hoạt động của NH. Thu từ khoản tín dụng có hiệu quả cao sẽ đóng góp lớn
vào thu nhập Nh. Nếu khoản tín dụng có hiệu quả không tốt thì thu không
được nợ gốc và lãi mà còn làm tăng chi phí của NH, nên sẽ kéo theo lợi nhuận
giảm tương ứng.
Tuy nhiên, đối với một dự án trung – dài hạn theo kế hoạch Nhà nước thì
chỉ tiêu này đôi khi tỏ ra không đầy đủ để phản ánh hiệu quả tín dụng.
Vì mục tiêu kinh tế xã hội hay chiến lược phát triển những nghành công
nghiệp mũi nhọn, những ngành công nghiệp non trẻ, thì đôi khi mục tiêu lợi
nhuận không phải là hàng đầu. Lúc này lợi nhuận không phản ánh thực chất
các khoản tín dụng. vì vậy, khi dùng các chỉ tiêu này để paahn tích chúng ta
phải xem xét tổng hợp các mục tiêu của dự án vay vốn trung – dài hạn.
3.3:Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài
hạn NHTM:

3.1.1.Các nhân tố bên ngoài:
3.1.1.1 Môi trường pháp lý:
Các nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Tính
đẩy đủ và thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá
trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí.
Môi trường pháp lý tạo hành lang cho kinh doanh tín dụng Ngân hàng,
Ngân hàng hoạt động trong hành lang hẹp được kiểm soát chặt chẽ bởi Nhà
nước vì đây là lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm cần phải kiểm soát hậu quả
của nó, tuy vậy không phải là không cần còn nhiều bất cập. Hiện nay, điều
21


kiện cho vay đặc biệt đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gần như bắt
buộc là phải thế chấp tài sản trong khi đó chúng ta chưa có Luật về sở hữu
nên không có cơ quan nào chịu trách nhiệm cấp chứng thư sở hữu tài sản và
quản lý quá trình chuyển dịch sở hữu tài sản. Vì thế trong nhiều trường hợp
Ngân hàng khó có thể xác định chính xác chủ sở hữu của tài sản đó, hoặc phải
lấy chứng nhận của cơ quan nào về nguồn gốc tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
nguồn gốc số tiền trả nợ là hợp pháp. Mặt khác, pháp luật cho phép các doanh
nghiệp thế chấp giá trị quyền sử dụng đất nhưng lại phải có điều kiện gắn với
tài sản thuộc quyền sở hữu của chính mình cho nên quy định này khó có thể
được áp dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
Các qui định của pháp luật và các yêu cầu giải quyết các tranh chấp tố
tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự phát mại tài sản, bán đấu giá còn
chưa rõ ràng, cụ thể. Có văn bản thì qui định cho ngân hàng có quyền phát
mại tài sản trên đất để thu hồi vốn và lãi, có văn bản thì qui định ngân hàng có
quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp (cả quyền sử dụng đất - Điều 359
BLDS). Nhưng đến nghị định 86/Chính phủ thì ngân hàng không có quyền
phát mại, bán đấu giá tài sản cầm cố, thế chấp. Việc bán đấu giá quyền sử
dụng đất lại phải có sự chấp nhận của UBND cấp có thẩm quyền cho phép.

Thời gian khởi kiện vụ án kinh tế quá dài, tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp
đồng dân sự thì rườm rà, phức tạp. Quy định về việc vô hiệu hợp đồng quá
rộng, các biện pháp cưỡng chế dân sự để thu hồi tài sản trả cho ngân hàng còn
chưa đầy đủ và tính khả thi trong thực tế còn chưa cao. Thực chất là các ngân
hàng còn rất ngại khởi kiện để tranh tụng về kinh tế và dân sự. Đặc biệt là
pháp luật còn chưa quy định rõ cụ thể trách nhiệm của người trực tiếp cầm
tiền, người sử dụng tiền vay để ngăn chặn hành vi lừa đảo, lẫn lộn giữa trách
nhiệm của người vay với trách nhiệm của cán bộ ngân hàng, đồng thời còn rất
khó phân biệt giữa kinh tế với dân sự, hình sự, lẫn lộn trách nhiệm hành
chính, hình sự.
Việc quản lý của Nhà nước, quản lý kinh doanh của NHNN đối với
ngân hàng cấp dưới, các ngân hàng cổ phần còn chưa chặt chẽ, đầy đủ đúng
với chức năng là ngân hàng của các ngân hàng. NHNN chủ yếu mới chỉ quản

22


lý điều hành bằng mệnh lệnh, văn bản vừa cứng nhắc vừa không cụ thể và
không nắm được tình hình và hỗ trợ cho ngân hàng cấp dưới.
3.1.1.2.Môi trường chính trị - xã hội:
Môi trường chính trị xã hội ổn định là một điều kiện vô cùng quan trọng
trong việc tạo lòng tin đối với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư dài
hạn cho hoạt đông sản xuất kinh doanh. Một môi trường chính trị - xã hội ổn
định sẽ là cơ sở rất tốt cho hoạt động tín dụng trung dài hạn của ngân hàng, vì
chỉ khi có nhu cầu đầu tư dài hạn trong nền kinh tế mới xuất hiện nhu cầu vay
vốn trung dài hạn ngân hàng. Hơn nữa sự mất ổn định về chính trị - xã hội sẽ
ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của các doanh nghiệp và nếu doanh
nghiệp này đang vay vốn ngân hàng thì rõ ràng việc thu hồi nợ của ngân hàng
sẽ gặp nhiều khó khăn. Chất lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng cũng
bị ảnh hưởng.

3.1.1.3: Môi trường kinh tế
Môi trường kinh doanh còn chưa ổn định. Các chính sách và cơ chế
quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước ta đang trong quá trình đổi mới và hoàn
thiện, đòi hỏi phải thật năng động, nhiều doanh nghiệp chưa điều chỉnh kịp kế
hoạch kinh doanh với sự thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mô hoặc có trường
hợp ngộ nhận nhu cầu thị trường dẫn đến phát triển tràn lan quá mức. Ví dụ
về các trường họp phát triển xi măng, mía đường, gốm sứ xây dựng, gạch cao
cấp... vẫn còn đang rất nóng hổi. Vì thế có nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ do
không theo kịp với quá trình thay đổi chính sách quản lý kinh tế mà hậu quả
là ngân hàng cho vay phải gánh chịu. Sự biến động về chính trị, thay đổi về
chính quyền cũng tác động tới niềm tin của dân chúng, của các nhà đầu tư qua
đó ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng.
Nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào sự tăng
trưởng kinh tế . Một nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng ổn định,
môi trường kinh doanh thuận lợi, nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng là cơ hội
rất tốt cho các doanh nghiệp đẩu tư mở rộng sản xuất do đó nhu cầu tín dụng
ngân hàng trong giai đoạn này là rất cao. Ngân hàng cũng dễ dàng cho vay vì
khả năng gặp rủi ro mất vốn là rất thấp. Trái lại trong giai đoạn kinh tế trì trệ,

23


giảm phát, thất nghiệp cao, đầu tư không mang lại hiệu quả, dễ thất bại, ngay
cả nếu có thành công thì chưa chắc thu nhập đó đã cao bằng tiền gửi ngân
hàng cùng kỳ hạn. Thay vì đầu tư vào sản xuất, các doanh nghiệp đem số tiền
đó gửi vào ngân hàng để hưởng lãi. Ngân hàng không cho vay được cũng
không thể không nhận tiền gửi của khách hàng, hoạt động của ngân hàng bi
ngưng trệ, vốn của ngân hàng nằm trong tình trạng bị đóng băng không cho
vay được. Không chỉ tình hình kinh tế trong nước mà tình hình kinh tế thế
giới cũng có ảnh hưởng tới chất lượng công tác tín dụng ngân hàng. Khi thị

trường thế giới biến động mạnh, đặc biệt là ở các thị trường xuất nhập khẩu
truyền thống làm cho hoạt động xuất nhập khẩu giảm sút, các doanh nghiệp
kinh doanh xuất nhập khẩu không bán được hàng, chịu thua lỗ, ảnh hưởng tới
công tác trả nợ ngân hàng.
3.1.2 Công -tác tổ chức Ngân hàng
3.2 Các nhân tố từ phía ngân hàng
Tổ chức của ngân hàng cần cụ thể hóa và sắp xếp một cách có khoa
học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã qui định
cả về huy động vốn lẫn cho vay, quản lý tài sản nợ, tài sản có của ngân hàng.
Đây là cơ sở tiến hành nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Do hoạt động tín dụng
có khả năng rủi ro lớn hơn tất cả các loại hình kinh doanh khác nên cần có sự
phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, các bộ phận trong ngân
hàng cũng như thiết lập quan hệ với các cơ quan tài chính, pháp luật. Thiết lập
mối quan hệ này sẽ tạo điều kiện quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng,
phát hiện và giải quyết kịp thời các khoản tín dụng có vấn đề.
3.2.1Chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư
Ngân hàng thẩm định dự án nhằm rút ra những kết luận chính xác về tính
khả thi, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra của dự án để ra quyết
định cho vay hay từ chối cho vay. Mặt khác, thẩm định dự án là cơ sở để ngân
hàng xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý, tạo điều
kiện cho dự án hoạt động có hiệu quả tối ưu. Qua việc thẩm định dự án, cán
bộ tín dụng xác định cơ cấu vốn đầu tư của dự án, xác định tỷ trọng của vốn
đầu tư từ đó đánh giá mức độ tự chủ về vốn của doanh nghiệp trong phương
24


án đầu tư, vốn bổ sung là bao nhiêu, từ những nguồn nào. Ngân hàng rất chú
ý đến cơ cấu vốn của dự án đầu tư vì nó là cơ sở để ngân hàng hạch toán thu
hồi vốn và lãi, để ngân hàng lựa chọn phương án về thời gian và phương thức
thu hồi vốn, lãi phù hợp với hoạt động của dự án.

Do đó, công tác thẩm định dự án nếu được thực hiện một cách nghiêm
túc, chặt chẽ, cẩn thận với chất lượng cao sẽ mang lại các quyết định chính
xác, hạn chế được rủi ro đảm bảo khả năng thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận
cho ngân hàng. Trái lại, nếu chỉ thẩm định một cách qua loa, hình thức, thiếu
cẩn thận sẽ dẫn đến sự "lựa chọn đối nghịch", cho vay những dự án khả năng
hoàn vốn thấp bởi vì những cá nhân và doanh nghiệp với những dự án đầu tư
rủi ro cao nhất là những người sẵn sàng vay nhất kể cả với lãi suất cao. Họ sẽ
trở nên giàu có nhanh chóng nếu thực hiện thành công một cuộc đầu tư rủi ro
cao nhưng đối với ngân hàng khả năng dự án không thành công là rất cao và
ngân hàng sẽ không được thanh toán. Các sai lầm ảnh hưởng đến chất lượng
thẩm định dự án đầu tư mà ngân hàng thường gặp phải là:
Ngân hàng đánh giá sai về năng lực pháp lý của chủ đầu tư, về tư cách
pháp nhân, về giấy phép thành lập, lĩnh vực và ngành nghề được phép kinh
doanh, uy tín của chủ đầu tư cũng như năng lực tài chính của họ. Trên thực
tế, một số kẻ lừa đảo thành lập "công ty ma" để rút vốn ngân hàng sử dụng
vào các mục đích kinh doanh bất hợp pháp và khi đổ bể ngân hàng khó có thể
thu hồi được vốn của mình.
Sai lầm thứ hai có thể ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động thẩm
định dự án đầu tư là phân tích đánh giá sai về thị trường. Phần lớn các dự án
cấp thẩm định tín dụng trung và dài hạn là các kế hoạch của doanh nghiệp
cung cấp trong tương lai. Thị phần sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp trong
tương lai tất nhiên sẽ khác rất nhiều với thị phần trong giai đoạn hiện nay. Nó
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Đánh giá, dự đoán không chính xác về thị
trường tương lai có thể dẫn đến sau khi đầu tư, sản phẩm sản xuất ra khó tiêu
thụ, doanh nghiệp hoạt động không có lãi, không thu hồi được vốn do đó
không trả nợ được cho ngân hàng.

25



×