Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.81 KB, 35 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Hoat động ngân hàng đóng một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế của mỗi quốc gia. Một nền kinh tế không thể tăng trưởng và phát triển bền
vững nếu thiếu đi sự phát triển của hoạt động ngân hàng. Mỗi quốc gia trong nền kinh
tế thị trường ngày nay đều cần phải có một hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định và
có hiệu quả để điều hòa quá trình lưu thông tiền tệ giữa các tác nhân trong nền kinh tế.
Từ khi hình thành đến nay, hoạt động ngân hàng ở Việt Nam không ngừng phát
triển mạnh mẽ và có những bước tiến đáng ghi nhận. Tuy vậy, vẫn còn nhiều bất cập
trong hệ thống ngân hàng ở Việt Nam, điển hình là hoạt động quản trị rủi ro còn nhiều
yếu kém. Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là một điều không tránh khỏi, và nếu
không được quản trị một cách hợp lý sẽ đem lại những hậu quả không đáng có, tác
động xấu đến sự phát triển kinh tế. Chính vì vậy, việc nhận thức đúng bản chất của rủi
ro, từ đó tìm ra các biện pháp nhằm hạn chế tối thiểu rủi ro trong các hoạt động ngân
hàng đóng một vai trò vô cùng quan trọng.
Trên cơ sở nhận thức được tính cấp bách của vấn đề này, em xin chọn đề tài “Các
biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại”,
qua đó xin đưa ra một số giải pháp hạn chế rủi ro, xây dựng một hệ thống ngân hàng
phát triển ngày càng vững mạnh.


Chương 1: Lý luận chung về rủi ro trong hoạt động kinh doanh
của ngân hàng thương mại

1.1.
Tổng quan về hoạt động ngân hàng
1.1.1. Khái niệm hoạt động ngân hàng

Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế, hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ, tín dụng, nó cung cấp một số dịch vụ cho khách hàng và ngược lại nó nhận tiền
gửi của khách hàng với các hình thức khác nhau. Nghiệp vụ kinh doanh của Ngân
hàng thương mại rất phong phú và đa dạng cùng với sự phát triển của khách hàng,


khoa học kỹ thuật kinh tế và xã hội, hoạt động của Ngân hàng thương mại cũng có
nhiều phương pháp mới, nhưng các nghiệp vụ kinh doanh về cơ bản không thay đổi là
nhận tiền gửi và hoạt động cho vay, đầu tư. Qua Ngân hàng thương mại các chính sách
tài chính tiền tệ của Quốc gia sẽ được thực hiện một cách nhanh chóng và cũng nhờ nó
mà việc kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp theo đúng luật pháp được dễ dàng
hơn. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Ngân hàng luôn gắn liền với sự phát triển của
nền kinh tế và đời sống xã hội. Trong cơ chế thị trường, các Ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng cũng là các doanh nghiệp nhưng chúng là những doanh nghiệp
đặc biệt vì tài sản trong quá trình kinh doanh của các Ngân hàng thương mại đều phụ
thuộc vào các khách hàng.
Mặt khác, hàng hóa mà các Ngân hàng kinh doanh là một loại hàng hóa đặc biệt,
nó rất nhậy cảm với sự biến đổi của thị trường và tình hình kinh tế xã hội.
1.1.2. Vai trò của hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1.2.1.
Trung gian tài chính

Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong kinh tế:
Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu (tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu
tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn). Các cá nhân và tổ
chức thặng dư tạm thời trong chi tiêu (tức là thu nhập hiên tại của họ lớn hơn các
khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm).
Sự tồn tại của hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với Ngân hàng,
và điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ hai sang nhóm thứ nhất nếu cả hai cùng


có lợi. Khi đó sẽ hình thành nên mối quan hệ tài chính, mà có thể là quan hệ trực tiếp
dưới hình thức tín dụng hoặc quan hệ cấp phát, hùn vốn và cũng có thể là quan hệ gián
tiếp nếu trong quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do không phù hợp về qui mô, thời
gian, không gian... Với quan hệ gián tiếp đòi hỏi có sự tham gia của các trung gian tài

chính mà với sự chuyên môn hóa họ có thể giảm chi phí giao dịch xuống, làm tăng thu
nhập cho người tiết kiệm từ đó mà khuyến khích được tiết kiệm, đồng thời giảm phí
tổn tín dụng cho người đầu tư và cũng khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã
tập hợp những người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy giải quyết được mâu thuẫn của quan
hệ tài chính trực tiếp.
Đồng thời do sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin
thường được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của
thị trường và Ngân hàng có năng lực để làm giảm đến mức thấp nhất những sai lệch
đó.
1.1.2.2.

Tạo phương tiện thanh toán
Tiền-Vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán trong trao
đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ, song khi nền sản xuất phát triển cao hơn, lượng phân
phối qua lại ngày càng nhiều thì trong thanh toán bằng tiền mặt, vàng gặp nhiều khó
khăn và Ngân hàng đã tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ cho
khách hàng, và với những ưu điểm nhất định nó đã trở thành phương tiện thanh toán
rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Ngoài ra giấy nhận nợ đó còn được thay thế tiền
kim loại làm phương tiện lưu thông, phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy.
Ngày nay giấy nhận nợ đã được phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau như:
Séc, kỳ phiếu... đã giúp cho việc thanh toán được diễn ra nhanh gọn và có hiệu quả
hơn.


1.1.2.3. Trung gian thanh toán
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc
gia. Thay mặt cho khách hàng, Ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và
dịch vụ, để việc thanh toán nhanh chóng thuận tiện và tiết kiệm chi phí, Ngân hàng
đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng Sec, ủy nhiệm
chi, nhờ thu... Cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền

giấy khi khách hàng cần. Các Ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau
thông qua Ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán, công nghệ
thanh toán qua Ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi qui mô sử dụng công nghệ đó
càng được mở rộng. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính
thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn
giữa các Ngân hàng trên toàn thế giới. Với các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết
lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua Ngân hàng, biến Ngân hàng trở thành
trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn
cầu.
1.2.
Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm rủi ro

Rủi ro là khả năng xảy ra các tổn thất ngoài dự kiến.
Rủi ro trong kinh doanh ngân hàng được hiểu là những biến cố không mong đợi
mà khi xảy ra sẽ dẫn đến sự tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực
tế so với dự kiến ssshoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được
một nghiệp vụ tài chính nhất định.


Rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đại lượng đồng biến với nhau trong
một phạm vi nhất định.



Khi đề cập đến rủi ro, người ta thường nhắc đến hai yếu tố mang tính đặc trưng của rủi
ro là biên độ rủi ro: mức độ thiệt hại do rủi ro gây ra và tần suất xuất hiện rủi ro; số
trường hợp thuận lợi để rủi ro xuất hiện/tổng số trường hợp đồng khả năng.




Rủi ro là yếu tố khách quan, nên người ta không thể nào loại trừ được hẳn mà chỉ có
thể hạn chế sự xuất hiện và những tác hại của chúng gây ra.


1.2.2. Phân loại rủi ro

Rủi ro của ngân hàng có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau song đều có
bản chất chung, đó là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu.
Có một số quan điểm cho rằng rủi ro là toàn bộ tổn thất có thể xảy ra đối với
ngân hàng. Một số khác lại cho rằng rủi ro chỉ là những tổn thất có thể xảy ra ngoài dự
kiến. Ví dụ ngân hàng đang chuyển hoán từ nguồn ngắn hạn sang cho vay trung và dài
hạn sẵn sàng chấp nhậnchi phí nguồn vốn cao hơn khi lãi suất thay đổi để thu lãi cao
hơn. Chỉ khi nào lãi suất nguồn tăng vượt dự kiến làm lợi nhuận của ngân hàng giảm
sút thì lúc đó mới nảy sinh rủi ro lãi suất. Như vậy rủi ro của ngân hàng phải gắn liền
với giảm sút thu nhập ngoài dự kiến.
Phân chia rủi ro theo các loại tài sản gồm có: rủi ro trong quản lý và kinh doanh
ngân quỹ, rủi ro tín dụng, rủi ro trong quản lý và kinh doanh chứng khoán, rủi ro trong
cho thuê và rủi ro đối với các tài sản khác của ngân hàng.
Phân chi rủi ro theo nguyên nhân – các nhân tố tác động – gồm có rủi ro do người
vay không trả nợ cho ngân hàng, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do tỷ giá thay đổi,
rủi ro do các nguyên nhân khác như mất trộm, cháy, giấy tờ giả… Sau đây là cách
1.2.2.1.

phân loại rủi ro phổ biến:
Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do
khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ cả vốn và lãi.
Khi thực hiện một hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản cho
vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số

ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối
với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung.
Do vậy, khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến, ngân hàn coi đó là một thành

1.2.2.2.

công trong quản lý.
Rủi ro hối đoái
Là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu khi tỷ giá hối đoái
thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên dao
động. Sự thay đổi này cùng với trạng thái hối đoái của ngân hàng tạo ra thu nhập thặng
dư hoặc thâm hụt tạm thời. Tuy nhiên có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến

1.2.2.3.

tổn thất cho ngân hàng.
Rủi ro lãi suất


Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất khi lãi suất thay đổi ngoài dự
tính. Lãi suất ngân hàng (cả bên tài sản lẫn bên nguồn vốn) thường xuyên biến động
với các mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn thất. Rủi ro lãi suất có liên quan chặt chẽ
đến rủi ro tín dụng.
1.2.2.4.

Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng khi nhu cầu thanh
khoản thực tế vượt quá khả năng thanh khoản dự kiến, làm gia tăng các chi phí để đáp

1.2.2.5.


ứng nhu cầu thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh khoản.
Rủi ro tác nghiệp
Rủi ro tác nghiệp là nguy cơ tổn thất trực tiếp hoặc gián tiếp do cán bộ ngân
hàng, quá trình xử lý và hệ thống nội bộ không đầy đủ hoặc không hoạt động hoặc do

1.2.2.6.

các sự kiện bên ngoài tác động vào hoạt động ngân hàng.
Các rủi ro khác
Các rủi ro khác là khả năng xảy ra cướp ngân hàng, nhầm lẫn trong thanh toán,

hỏa hoạn…
1.2.3. Ảnh hưởng của rủi ro tới hoạt động của ngân hàng
Rủi ro gắn liền với hoạt động ngân hàng thương mại, phản ánh các tình huống bất
thường xảy ra, có thể gây tổn thất cho ngân hàng. Khi tổn thất xảy ra, trước hết dẫn
đến thu nhập của ngân hàng giảm sút, dẫn đến tỷ suất lợi tức và thị giá cố phiếu của
ngân hàng giảm. Việc cổ phiếu giảm giá, nếu không được kịp thời chấn chỉnh, sẽ có
thể kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là điểm mở đầu của quá trình
mua lại, sáp nhập, hoặc thay thế ban quản lý ngân hàng. Rủi ro tín dụng, và lãi suất có
thể dẫn đến rủi ro thanh khoản với việc hàng loạt người rút tiền ra khỏi ngân hàng,
buộc ngân hàng phải đóng cửa và tuyên bố phá sản. Tổn thất ở mức thấp, làm giảm
quỹ dự phòng, giảm vốn và quỹ của ngân hàng. Để đối phó với tình huống trên, ngân
hàng có thể phải giảm tiền lương (hoặc chi phí khác), giảm lao động…
1.2.4. Các nguyên nhân gây ra rủi ro

Có nhiều nguyên nhân gây rủi ro cho ngân hàng.
Thứ nhất, do khách hàng: làm ăn thua lỗ hoặc kém hiệu quả, cố tình chây ì hoặc
lừa đảo… dẫn đến không trả được nợ cho ngân hàng.



Thứ hai, do quản lý yếu kém hoặc tham ô của nhân viên ngân hàng: không có khả
năng đánh giá chất lượng các khoản cho vay, hoặc cố tình làm sai quy định để mưu lợi
riêng.
Thứ ba, do các thay đổi khách quan trên thị trường vượt quá khả năng phán đoán
của ngân hàng như thay đổi lãi suất và tỷ giá, khủng hoảng nợ dây chuyền, những thay
đổi trong quyết định của chính phủ…


Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro ở các ngân hàng thương
mại tại Việt Nam

2.1.
Thực trạng hoạt động của các ngân hàng trong thời gian qua
2.1.1. Đánh giá chung

Hiện trạng về quản trị rủi ro tại các ngân hàng thương mại tại Việt Nam thì rủi ro
về thanh khoản là rủi ro đáng lo ngại nhất. Trong vài năm gần đây chúng ta cũng gặp
một số ngân hàng khó khăn về nguồn vốn khi NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt
chặt. Cũng đã có trường hợp ngân hàng ACB bị kẻ xấu tung tin đồn thất thiệt làm cho
người dân rút tiền hàng loạt và phải có sự hỗ trợ, can thiệp của Ngân hàng Nhà nước
thì mới tránh được rủi ro thanh khoản. Trong khi đó rủi ro thị trường chưa có nguy cơ
lớn tại Việt Nam do số lượng và tỷ trọng vốn dành cho kinh doanh ngoại tệ cũng
nhưng kinh doanh chứng khoán tại các NHTM không nhiều, đối với ngoại tệ thì các
NHTM chủ yếu thực hiện mua bán để phục vụ cho nhu cầu thanh toán của các doanh
nghiệp, ít ngân hàng thực hiện hoạt động đầu cơ. Đối với kinh doanh chứng khoán thì
từ năm 2008 các ngân hàng đã dần giảm bớt việc đầu tư kinh doanh chứng khoán, còn
rủi ro về biến động lãi suất có thể ảnh hưởng tới lợi nhuận của các ngân hàng nhưng
chưa ngân hàng nào bị lỗ trong các năm qua, vì các ngân hàng thường chỉ chịu rủi ro
về biến động trong thời gian ngắn rồi sau đó thường có giải pháp để cân bằng giữa lãi

suất đầu ra và lãi suất đầu vào.
Một lưu ý lớn hiện nay của hệ thống NHTM là vấn đề rủi ro tín dụng. Nợ xấu là
một tiêu chí để xem xét tầm quan trọng của vấn đề này ở hệ thống ngân hàng đang ở
mức độ nào. Đặc biệt là việc nhiều NHTM có công ty mẹ, cổ đông lớn, cổ đông chiến
lược là các tập đoàn, các tổng công ty lớn, các doanh nghiệp lớn. Điều này có thể tạo
ra mối nghi ngờ về việc một số ngân hàng có thể cố tình nới lỏng điều kiện cho vay
đối với một số cá nhân hoặc tổ chức vì một số lý do nào đó, điều này có thể dễ dẫn tới
những rủi ro tín dụng.


Theo tính toán của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu trong toàn ngành ngân
hàng ở thời điểm cuối năm 2009 ở mức 2,5% (tỷ lệ này năm 2008 là 2,1%), tỷ lệ nợ
xấu đối với một số khoản vay đặc biệt ở mức khoảng 6,5%. Như đã phân tích việc tỷ
lệ nợ xấu tăng là yếu tố quan trọng cho thấy “sức khỏe” của toàn khối ngân hàng. Hơn
nữa nhiều chuyên gia cho rằng cách phân loại các khoản vay và dự phòng của Việt
Nam không thể khắt khe như theo quy định của chuẩn mực lập báo cáo tài chính quốc
tế (IFRS). Chính vì vậy các ngân hàng Việt Nam phải đương đầu với nhiều khó khăn
liên quan đến chất lượng tài sản và vốn, tăng trưởng tín dụng cao sẽ dẫn đến chất
lượng các khoản vay đi xuống, các quy định thường lỏng lẻo hơn khi ngân hàng mở
rộng quá nhanh.
Về rủi ro tỷ giá hối đoái, tỷ giá tại Việt Nam được giữ ổn định tương đối trong
một thời gian dài. Biến động bình quân 1năm chỉ khoảng 1%, ngay cả khi đồng USD
có nhiều biến động lớn trên thị trường thế giới. sự ổn định đó làm mờ nhạt đi những
rủi ro về tỷ giá, thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, khi mà quá
trình hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu ngày càng trở nên sâu rộng, hội nhập tỷ giá là
không thể tránh khỏi.
Khi cơ chế tỷ giá linh hoạt, thì rủi ro tỷ giá sẽ xảy ra thường xuyên hơn, mức độ
ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ lớn hơn. thời gian
2.1.2. Tình hình quản trị rủi ro tại một số ngân hàng tại Việt Nam
2.1.2.1.

Rủi ro tín dụng tại một số ngân hàng trong quý đầu năm 2012

Kết thúc quý đầu tiên của năm 2012, nhiều ngân hàng đang phải đối mặt với con
số nợ xấu lên đến hàng nghìn tỷ đồng. Trong đó cá biệt có nhà băng nợ xấu tăng hơn
gấp đôi so với đầu năm.
Lướt qua báo cáo tài chính quý 1/2012 của một số ngân hàng, có một hiện tượng
khiến nhiều người không thể không lưu tâm: trong khi dư nợ cho vay sụt giảm, nợ xấu
của nhiều ngân hàng đang tăng nhanh. Điều này xảy ra không chỉ ở những nhà băng
nhỏ, mà ở ngay cả những ngân hàng lớn, đặc biệt là các ngân hàng thương mại quốc
doanh.


Trong bản cáo cáo tài chính riêng lẻ giữa niên độ đề ngày 20/4/2012 của ngân
hàng TMCP Ngoại Thương (Vietcombank), bên cạnh con số lợi nhuận trước thuế
giảm 112 tỷ đồng so với cùng kỳ năm ngoái (chỉ đạt 1662,85 tỷ đồng) thì một chỉ tiêu
khác khiến nhiều người không khỏi băn khoăn là dư nợ và nợ xấu.
Trong khi tổng dư nợ cho vay khách hàng giảm 1.195 tỷ đồng, từ 208.085 tỷ
đồng xuống 206.890 tỷ đồng, thì số nợ bị phân loại từ nhóm 3 đến nhóm 5 của VCB
lại tăng mạnh. Tính đến ngày 31/3/2012, tổng nợ xấu của nhà băng này lên tới 5.873,4
tỷ đồng, tăng 40,69% so với thời điểm 31/12/2011.
Diễn biến này khiến tỉ lệ nợ xấu của họ tăng từ khoảng 2% hồi đầu năm lên
2,84%. Đây sẽ là thách thức cho Vietcombank trong việc kiểm soát tỉ lệ nợ xấu dưới
2,8% vào cuối năm như phát biểu mới đây của TGĐ Nguyễn Phước Thanh.
Đối với ngân hàng TMCP Công Thương (Vietinbank), số liệu trong bản báo cáo
tài chính riêng lẻ quý 1 của ngân hàng này cho thấy, tổng số nợ xấu đã tăng tới 139%,
tức là hơn gấp đôi, từ 2.165 tỷ đồng cuối năm 2011 lên 5.176,7 tỷ đồng chỉ sau 3
tháng.
Tăng mạnh nhất là các khoản nợ nhóm 4, từ hơn 200 tỷ lên 817 tỷ đồng, và nợ
nhóm 3, từ 1.053 tỷ lên 3.358,5 tỷ đồng. Hệ quả tất yếu của sự sụt giảm chất lượng các
khoản cho vay của nhà băng này là số tiền trích lập dự phòng rủi ro cho vay khách

hàng tăng từ 2.994 tỷ đồng cuối năm trước lên 3.738 tỷ đồng.
Ở khối ngân hàng TMCP tư nhân, dù số lượng nợ xấu ít hơn nhưng cũng không
nằm ngoài xu hướng tăng lên. Ngân hàng Á Châu (ACB), một trong những nhà băng
có tỉ lệ nợ xấu trong năm 2011 ở mức thấp thì sau 3 tháng đầu năm cũng đã ghi nhận
sự sụt giảm khá mạnh chất lượng các khoản cho vay khách hàng.
Cụ thể, theo thuyết minh báo cáo tài chính giữa niên độ đề ngày 20/4/2012, tổng
dự nơ cho vay khách hàng của nhà băng này chỉ tăng chưa tới 1,8% nhưng nợ xấu lại
tăng tới 38,8%, từ 873,4 tỷ đồng của cuối năm 2011, lên 1.212,5 tỷ đồng. Tại Đại hội
cổ đông ngày 30/3 mới đây của ACB, TGĐ Lý Xuân Hải cho biết khoảng 60% nợ xấu
của ngân hàng có liên quan đến bất động sản.


Tình hình nợ xấu tăng cũng được ghi nhận ở một số ngân hàng khác như
Eximbank (tăng 14,5%, từ 1.202,9 tỷ đồng lên 1.377,2 tỷ đồng) và SHB (tăng 18,17%,
lên 769,8 tỷ đồng). Trong đó đáng chú ý là dù dư nợ giảm tới hơn 5.000 tỷ đồng so với
đầu năm nhưng nhà tài trợ chính cho VưLeague lại ghi nhận thêm hơn 174 tỷ đồng nợ
xấu.
Trên đây mới chỉ là số liệu nợ xấu của 5 ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính
quý 1. Trước đó cả 5 đơn vị này đều được NHNN xếp nhóm 1 về tăng trưởng tín dụng,
nghĩa là những ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh, khả năng quản trị tốt và
được cấp chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng 17%.
Tình hình quản trị rủi ro tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu

2.1.2.2.

 Rủi ro tín dụng

Rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất trong hoạt động kinh doanh của tập đoàn, do đó
ban lãnh đạo quản lý rủi ro tín dụng cho tập đoán một cách rất cẩn trọng.
Tập đoàn kiểm soát rủi ro tín dụng bằng việc áp dụng các hạn mức đối với các rủi

ro liên quan đến từng khách hàng vay vốn, hoặc nhóm khách hàng vay vốn theo đùng
quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Thêm vào đó, rủi ro tín dụng cũng được
kiểm soát thông qua việc rà soát định kỳ các nhóm tài sản thế chấp và phân tích khả
năng trả nợ lãi và vốn của các khách hàng vay vốn và các khách hàng tiềm năng.
Tập đoàn có một số chính sách và cách thức thực hành để giảm thiểu rủi ro tín
dụng. Cách thức truyền thống nhất là nắm giữ các tài sản đảm bảo cho các khoản tạm
ứng vốn, một cách thức phổ biến. Các loại tài sản đảm bảo cho các khoản cho vay và
ứng trước gồm có:
-

Thế chấp đối với các bất động sản là nhà ở
Quyền đối với các tài sản hoạt động như trụ sở, máy móc thiết bị, hàng tồn kho, các

-

khoản phải thu
Quyền đối với các công cụ tài chính như chứng khoán nợ và chứng khoán vốn.
Đối với các khoản cho vay có đảm bảo, tài sản thế chấp được xác định một cách
độc lập bởi tập đoàn với việc áp dụng các tỷ lệ chiết khấu cụ thể để xác định giá trị có


thể cho vay tối đa. Khi giá trị hợp lý của các tài sản thế chấp bị giảm, tập đoàn sẽ yêu
cầu khách hàng vay vốn phải thế chấp thêm tài sản để duy trì mức độ an toàn đối với
rủi ro của khoản cho vay.
Rủi ro tín dụng đối với các cam kết chủ yếu bao gồm thư tín dụng và các hợp
đồng bảo lãnh tài chính có tính chất tương tự như rủi ro tín dụng đối với các khoản cho
vay. Thư tún dụng kèm chứng từ và thư tín dụng thương mại – là các cam kết bằng
văn bản của tập đoàn thay mặt cho khách hàng thanh toán cho bên thứ ba lên đến số
tiền quy định theo các điều khoản và điều kiện cụ thể ư được đảm bảo bằng chính
hàng hóa liên quan và do đó rủi ro thấp hơn so với các khoản cho vay trực tiếp. việc

phát hành thư tín dụng và các hợp đồng bảo lãnh tài chính được thực hiện theo các quy
trình đánh giá và phê duyệt tín dụng như đối với các khoản cho vay và tạm ứng cho
khách hàng trừ khi khách hàng ký quỹ 100% cho các cam kết có liên quan.
Bảng tổng mức tối đa có rủi ro tín dụng chưa tính đến tài sản thế chấp hoặc các
biện pháp giảm thiểu rủi ro:

n: Báo cáo tài chính 2011 của NH TMCP Á Châu>

Bảng tài sản tài chính nội bảng có rủi ro tín dụng:


<Nguồn: Báo cáo tài chính 2011 của NH TMCP Á Châu>


 Rủi ro lãi suất

Rủi ro lãi suất liên quan đến dòng tiền là rủi ro khi dòng tiền trong tương lai của
công cụ tài chính diễn biến bất thường do những biến động của lãi suất thị trường. Rủi
ro lãi suất liên quan đến giá trị hợp lý là rủi ro khi giá trị của các công cụ tài chính biến
động do sự thay đổi của lãi suất thị trường. Tập đoán quản lý rủi ro lãi suát bằng cách
theo dõi định kỳ hàng tháng mức độ không phù hợp của lãi suất theo từng kỳ hạn.


Bảng quản lý rủi ro lãi suất tại NH TMCP Á Châu ngày 31/12/2011:



<Nguồn: Báo cáo tài chính 2011 của NH TMCP Á Châu>



 Rủi ro thanh khoản

Rủi ro thanh khoản là rủi ro mà tập đoàn không thể thực hiện được nghĩa vụ chi
trả liên quan đến công nợ tài chính khi đến hạn và không có nguồn vốn thay thế khi
khách hàng rút vốn. Hậu quả có thể dẫn đến việc tập đoàn không còn khả năng thanh
toán đối với người gửi tiền và không thực hiện được các cam kết cho vay. Quy trình
quản lý tín dụng của tập đoàn bao gồm:
-

Kiểm soát hoạt động huy động vốn và cho vay hàng ngày
Duy trì danh mục đầu tư bao gồm các chứng khoán dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt
Kiểm soát các chỉ số thanh khoản dựa trên báo cáo tình hình tài chính đảm bảo tuân
thủ theo các quy định của ngân hàng nhà nước Việt Nam.


Bảng quản lý rủi ro thanh khoản tại NH TMCP Á Châu vào ngày 31/12/2011:



<Nguồn: Báo cáo tài chính 2011 của NH TMCP Á Châu>


Đánh giá tình hình quản trị rủi ro ở các ngân hàng thương mại tại Việt

2.2.

Nam
2.2.1. Kết quả đạt được


Năm 2011, lợi nhuận của một số ngân hàng đã công bố tốt hơn so với năm 2010
như Vietinbank (tăng 77,62%), Eximbank (tăng 68,6%), SHB (tăng 50,82%), MBB
(tăng 29,03%)...CTG và MBB có tốc độ tăng trưởng tín dụng khá cao với mức tăng lần
lượt là 25,25% và 31,26%. ACB, EIB, VCB... có tốc độ tăng trưởng tín dụng từ 17 ư
20%. Đối với mảng huy động vốn, bốn ngân hàng là ACB, CTG, MBB, và SHB có tốc
độ tăng trưởng huy động vốn trên 20%
Đạt được thành tựu đó một phần là do quản trị rủi ro ở các ngân hàng được coi
trọng. Một số ngân hàng lớn đã và đang từng bước xây dựng bộ phận quản trị rủi ro
như NHTM CP Á Châu (ACB), NHTM CP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank),…
Bên cạnh đó, một số ngân hàng ở Việt Nam đã áp dụng các công cụ quản trị rủi
ro: sử dụng các công cụ phái sinh, thiết lập chính sách lãi suất sao cho phù hợp với cơ
chế lãi suất và những biến động của thị trường…
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân
 Hạn chế

Nhìn chung, ngoại trừ một số ngân hàng lớn đã áp dụng thành công các công cụ
để quản trị rủi ro, tình hình quản trị rủi ro tại các ngân hàng ở Việt Nam vẫn còn nhiều
yếu kém. Tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng do thị trường bất động sản biến động thất
thường, tình trạng đầu cơ còn phổ biến… dẫn đến nguy cơ rủi ro tín dụng là rất cao.
Nhiều ngân hàng nhỏ gặp khó khăn trong thanh khoản, đối mặt với nguy cơ phá sản.
Rủi ro tác nghiệp trong hệ thống ngân hàng Việt Nam còn khá phổ biến.
 Nguyên nhân
- Đa phần các NHTM chưa xây dựng được về mặt tổ chức và quy trình quản lý rủi ro.
-

Chính sách tín dụng còn khá nhiều thiếu sót.
Hệ thống thông tin quản lý còn thiếu đồng bộ. Các cán bộ và nhân viên ngân hàng còn

-


thiếu các kỹ năng cần thiết.
Các NHTM chưa có những nhận thức đầy đủ về các loại hình rủi ro.


Chương 3: Một số biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng thương mại
3.1.

Biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng

3.1.1. Xây dựng chính sách tín dụng hợp lý

Chính sách tín dụng của một Ngân hàng Thương mại là một hệ thống
các biện pháp nhằm mở rộng hay thu hẹp hoạt động cho vay của nó với việc
thực hiện 3 mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận cao, sự an toàn và sự lành mạnh.
Đây là chính sách để quản lý cho vay, đảm bảo hiệu quả của vốn tín dụng,
chính sách cho vay cần quy định cụ thể trong việc xem xét các loại khách
hàng có thể cho vay, tiêu chuẩn ngân hàng có thể cho vay. Chính sách tín
dụng là kim chỉ nam đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng quĩ đạo.
Chính sách tín dụng của một ngân hàng cần bao quát các vấn đề sau:
- Giới hạn về mặt địa lý, lĩnh vực đầu tư tín dụng
- Thể thức cho vay
- Giới hạn kỳ hạn nợ, thời hạn cho vay
- Tiêu chuẩn khách hàng và tài sản đảm bảo
- Mức cho vay một khách hàng, một nhóm khách hàng
- Thẩm quyền và thủ tục thanh lý thu hồi nợ
- Tiêu chuẩn tài chính tối thiểu khách hàng cần
Tuỳ theo đặc điểm, quy mô hoạt động của từng ngân hàng để xây dưng
chính sách tín dụng phù hợp. Trong quá trình thực hiện, các Ngân hàng
Thương mại cần đúc rút kinh nghiệm, phát hiện những chỗ bất hợp lý, chưa

phù hợp để kiến nghị, bổ sung, hoàn chỉnh chính sách, chế độ.
3.1.2. Nâng cao chất lượng thẩm định khách hàng

Trong nền kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa doanh nghiệp và Ngân hàng ngày
cành được khẳng định. Doanh nghiệp cần Ngân hàng bên cạnh để san bằng sự bất
thường về nguồn vốn thiếu hoặc thừa, ngược lại doanh nghiệp được coi là chỗ dựa và


là động lực để Ngân hàng tồn tại và phát triển. Ngân hàng lựa chọn doanh nghiệp từ
các tiêu chuẩn cần phải có để thành lập quan hệ tín dụng như: tư cách, năng lực hoạt
động, sức mạnh tài chính, điều kiện hoạt động và tài sản đảm bảo. Trong đó năng lực
hoạt động và sức mạnh tài chính thể hiện cho khả năng tài chính của doanh nghiệp, là
yếu tố cơ bản quyết định sự kết dính mối quan hệ.
3.1.3. Mở rộng cạnh tranh
3.1.3.1.
Mở rộng quan hệ tín dụng nhằm phân tán rủi ro

Hiện nay, phạm vi hoạt động tín dụng của các Ngân hàng còn hẹp, phần lớn là
các doanh nghiệp Nhà nước, vốn cho vay lớn nhưng chưa năng động. Các Ngân hàng
thương mại cần phải mở rộng quan hệ tín dụng với tất cả các thành phần kinh tế, đặc
biệt là kinh tế ngoài quốc doanh.
Biện pháp phân tán rủi ro là tránh tập trung quá lớn vào một lĩnh vực đầu tư, vào
một mặt hàng không có sức mạnh cạnh tranh... để đến khi doanh nghiệp không có khả
năng trả nợ thì Ngân hàng sẽ không chịu ảnh hương lớn. Vì thế, các NHTM phải phân
tán rủi ro bằng cách cho vay vào nhiều đối tượng, nhiều khách hàng khác nhau với
nhiều lĩnh vực khác nhau.
3.1.3.2.

Đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ tín dụng.
Đây là biện pháp nhằm phân tán rủi ro đã được các Ngân hàng trên thế giới áp

dụng một cách có hiệu quả. Các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam có đến 90% tài
sản nợ là đầu tư trực tiếp nên khả năng rủi ro rất cao. Vì thế muốn hạn chế rủi ro tín
dụng thì việc đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ tín dụng rất cần được coi trọng. Có đa
dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ thì Ngân hàng mới có thêm lợi nhuận mà các dịch vụ
đem lại.
Muốn đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ thì các Ngân hàng thương mại phải tăng
cường các trang thiết bị hiện đại như: máy vi tính, máy Fax cũng như cơ sở vật chất,
thiết bị kho tàng. Đồng thời phải đào tạo, nâng cao trình độ ngoại ngữ, vi tính thu thập
thông tin thị trường... cho cán bộ Ngân hàng.
Phải từng bước chuyển dịch cơ cấu từ vốn bán lẻ sang bán buôn, mở rộng và phát
triển dịch vụ đã có như thanh toán Quốc tế, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán
L/C... Tuy nhiên, muốn đa dạng hoá dịch vụ Ngân hàng đòi hỏi các Ngân hàng phải


có một khoản chi phí lớn về tiền của vì nó phụ thuộc vào quá trình hiện đaị hoá công
nghệ Ngân hàng cả về máy móc thiết bị lẫn trình độ tinh thông nghiệp vụ mới của cán
bộ Ngân hàng.
3.1.4. Duy trì quan hệ khách hàng lâu dài

Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, khách hàng vừa là
người cung cấp nguồn vốn cho hoạt động tín dụng, đồng thời cũng là người sử dụng
nguồn vốn này nên khách hàng có ý nghĩa rất quan trọng. Thiết lập mối quan hệ tốt và
lâu bền với khách hàng giúp các Ngân hàng thương mại có điều kiện nắm vững các
thông tin có liên quan tới khách hàng, các Ngân hàng sẽ có đối sách thích hợp để có
thể đứng vững môi trường cạnh tranh.
Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng sẽ giúp Ngân hàng:
-

Đánh giá đúng chất lượng khách hàng. Ngân hàng có thể nắm bắt, tiết kiệm được chi
phí thẩm định và kiểm tra giám sát.


-

Thu hút vốn để củng cố đầu vào mở rộng đầu ra theo đúng yêu cầu của khách hàng,
thông qua mối quan hệ lâu bền với khách hàng Ngân hàng có thể huy động được một
khối lượng nguồn vốn từ tiền gửi của khách hàng.

-

Đề ra chính sách chiến lược, kế hoạch tác nghiệp trong từng thời kỳ và xu hướng phát
triển hoạt động Ngân hàng trong tương lai để không ngừng thích nghi với sự biến động
của thị trường.
Để thiết lập mối quan hệ tốt, lâu bền với khách hàng, Ngân hàng phải có kế
hoạch củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động, đề cao uy tín của Ngân hàng trên thị
trường, thông qua việc cải thiện và mở rộng thêm nhiều hình thức phục vụ, đổi mới tác
phong kinh doanh, thu hút thêm nhiều khách hàng đối với Ngân hàng như những
người bạn tin cậy.

3.2.

Biện pháp hạn chế rủi ro lãi suất

3.2.1. Đối với rủi ro lãi suất trong hoạt động huy động vốn
Để hạn chế rủi ro này, các NHTM cần tìm kiếm các nguồn vốn rẻ có mức lãi
suất thấp của các tổ chức kinh tế, cá nhân, các chương trình dự án, có chiến lược


×