ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ SÓC TRĂNG
------------
GIÁO TRÌNH
Công tác xã hội với người nghèo
Mã số: MH 20
NGHỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI
TRÌNH ĐỘ TRUNG CẤP NGHỀ
Năm 2013
1
Chương 1
CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA VÀ QUỐC TẾ VỀ
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO VÀ VIỆC LÀM
1.1 NHẬN THỨC VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1 Khái niệm về xóa đói giảm nghèo
Xóa đói giảm nghèo là tổng thể các biện pháp chính sách của nhà nước và xã
hội hay của chính các đối tượng thuộc điện nghèo đói nhằm tạo để họ có thể tăng thu
nhập, thoát khỏi tình trạng thu nhập không đáp ứng được nhu cầu tối thiểu trên chuẩn
nghèo của từ địa phương, khu vực, quốc gia.
1.2 Xóa đói giảm nghèo là một chiến lược của chính phủ Việt Nam nhằm giải
quyết vấn đề đói nghèo và phát triển kinh tế tại Việt Nam
Năm 1989, Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường trong sản xuất nông
nghiệp thực hiện giao khoán đến hộ đã nhảy vọt từ nước đang thiếu lương thực vươn
lên thành nước xuất khẩu gạo, và giữa vị trí trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế
giới từ đó đến nay, an ninh lương thực đã vững vàng. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn tỷ lệ
đói nghèo (bao gồm cả thiếu lương thực) mà đa số phân bố ở các xã thuộc chương
trình 135 (xã nghèo). chương trình xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do Nhà nước Việt
Nam triển khai từ năm 1998-2010
Đầu thập niên 1990, Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ đói nghèo đã được nhận rõ, mà trước hết là số liệu trẻ
em suy dinh dưỡng đã ở mức báo động (gần 50%). Ngay đầu năm 1991, vấn đề xoá
đói giảm nghèo đã đề ra trong các diễn đàn, các nghiên cứu, và triển khai thành
phong trào xoá đói giảm nghèo. Tổng bí thư Đỗ Mười khi đó rất quan tâm đến
chương trình này, ông lo lắng thế hệ con cháu mai sau bị ảnh hưởng do đói nghèo hôm
nay.
Nghị quyết Quốc hội Việt Nam về nhiệm vụ năm 1993 đã đánh giá cao tinh
thần cộng đồng, tương thân tương ái "trong nhân dân đã phát triển nhiều hoạt động từ
thiện giúp đỡ nhau và phong trào xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa..." Sáng kiến
của Thủ tướng Chính phủ được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lấy ngày 17 tháng 10 là
"Ngày vì người nghèo", đó cũng là ngày Liên hợp quốc chọn là ngày "Thế giới chống
đói nghèo".
Ngày 21 tháng 5 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt "Chiến
lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo". Đây là chiến lược đầy đủ,
chi tiết phù hợp với mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của Liên Hợp Quốc
công bố. Trong quá trình xây dựng chiến lược có sự tham gia của chuyên gia các tổ
chức quốc tế tại Việt Nam như IMF,UNDP, WB,.. tổng hợp thành các mục tiêu phát
triển Việt Nam. Vấn đề là cụ thể hoá chiến lược bằng các chương trình, dự án được
2
triển khai, được giám sát và đánh giá thường xuyên. Các nghiên cứu đã lập được bản
đồ phân bố đói nghèo đến từng xã, từng hộ. Việt Nam đã ký vào Tuyên bố Thiên
niên kỷ với 8 mục tiêu:
1. Xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói.
2. Đạt phổ cập giáo dục tiểu học.
3. Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ.
4. Giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh.
5. Tăng cường sức khỏe bà mẹ.
6. Phòng chống bệnh HIV/AISD, sốt rét và các bệnh khác.
7. Đảm bảo bền vững môi trường.
8. Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì mục đích phát triển.
Những mục tiêu này mang kết quả trực tiếp và gián tiếp xóa đói giảm nghèo
một cách bền vững bởi nguy cơ đói nghèo, tái đói nghèo đều có thể xảy ra trong những
biến cố của môi trường thiên nhiên, của quá trình hội nhập và phát triển. Một quốc gia
khi không giải quyết dứt điểm xóa đói giảm nghèo thì luôn ẩn chứa nguy cơ phát triển
không bền vững dẫn đến những hậu quả bất ổn định kinh tế - xã hội. Những mục tiêu
đó cũng gợi mở những phương thức tác động trực tiếp hay gián tiếp đến việc xóa đói
giảm nghèo.
1.3 Xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và tăng
trưởng bền vững
Xóa đói giảm nghèo không chỉ là công việc trước mắt mà còn là nhiệm vụ lâu
dài. Trước mắt là xóa hộ đói, giảm hộ nghèo; lâu dài là xóa sự nghèo, giảm
khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh, công bằng,
dân chủ, văn minh.
Xóa đói giảm nghèo không đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một
cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn lên
thoát nghèo. Xóa đói giảm nghèo không đơn thuần là sự trợ giúp một chiều của tăng
trưởng kinh tế đối với các đối tượng xã hội có nhiều khó khăn mà còn là nhân tố quan
trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho phát triển, tạo thêm một lực lượng
sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định cho giai đoạn “cất cánh”.
Do đó, xóa đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu của tăng trưởng (cả
trên góc độ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là một điều kiện (tiền đề) cho tăng
trưởng nhanh và bền vững. Trên phương diện nào đó, xét về ngắn hạn, khi phân
phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội cho chương trình xóa đói giảm
nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng kinh tế có thể bị ảnh hưởng, song xét
một cách toàn diện về dài hạn thì kết quả xóa đói giảm nghèo lại tạo tiền đề cho
tăng trưởng nhanh và bền vững. Tình hình cũng giống như việc thực hiện người cày
3
có ruộng ở một số nước đã tạo ra sự phát triển vượt bậc của nông nghiệp. Nhiều nông
dân nhờ đó đã thoát khỏi đói nghèo và có điều kiện tham gia thực hiện cách mạng
xanh, tạo sự phát triển mới cho ngành nông nghiệp.
Xoá đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội và tăng
trưởng bền vững, ngược lại chỉ có tăng trưởng cao, bền vững mới có sức mạnh vật
chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Do đó,
xoá đói giảm nghèo được coi là một bộ phận cấu thành của chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội hàng năm của cả nước, các ngành và các địa phương.
Đói nghèo đang là vấn đề xã hội bức xúc và nóng bỏng của các quốc gia trên
thế giới. Vì vậy, đây là vấn đề được các Chính phủ, các nhà lãnh đạo, các tổ chức quốc
tế quan tâm để tìm các giải pháp hạn chế và tiến tới xoá bỏ nạn đói nghèo trên phạm vi
toàn cầu.
Chính phủ Việt Nam coi vấn đề xoá đói giảm nghèo là mục tiêu xuyên suốt
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như Việt Nam đã công
bố cam kết thực hiện các mục tiêu phát triển quốc tế đã được nhất trí tại Hội nghị
thượng đỉnh các quốc gia năm 2000. Công cuộc phát triển kinh tế và xoá đói giảm
nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể và được quốc tế đánh giá
cao.
Xóa đói giảm nghèo được đặt thành một bộ phận của Chiến lược phát triển
dài hạn, kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển kinh tế - xã hội từ Trung
ương đến cơ sở. Công tác xóa đói giảm nghèo phải được quan tâm ngay từ khi xây
dựng chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và hàng năm,
coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà
nước đối với công tác xóa đói giảm nghèo.
Thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước chủ động điều
tiết hợp lý các nguồn lực của toàn xã hội vào mục tiêu và hoạt động xóa đói giảm
nghèo quốc gia. Nhà nước xây dựng các biện pháp thiết yếu như đầu tư hỗ trợ sản
xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, lập các quỹ cứu trợ xã hội,.... để giúp đỡ, bảo vệ người
nghèo. Duy trì liên tục sự trao đổi, phân phối mang tính thị trường, nhưng không loại
người nghèo ra khỏi những nguồn lực và lợi ích của sự thịnh vượng chung về kinh tế.
Kinh nghiệm thế giới cho thấy sự thiếu vắng vai trò của Nhà nước đặc biệt có hại đối
với người nghèo, cộng đồng nghèo, vì người nghèo không tự bảo vệ được các quyền
của mình, hơn nữa trong thành quả chung của tăng trưởng kinh tế, Nhà nước có vai trò
nòng cốt và có trách nhiệm thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng, các tổ chức
chính trị, kinh tế, xã hội.
Xóa đói giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, toàn xã hội mà trước
hết là bổn phận của chính người nghèo phải tự vươn lên để thoát nghèo. Trong khi
trách nhiệm của Chính phủ là giúp gỡ bỏ rào cản ngăn cách xã hội và kinh tế để xóa
đói giảm nghèo; thì hiệu quả xóa nghèo đạt thấp nếu bản thân người nghèo không tích
cực và nỗ lực phấn đấu vươn lên với mức sống cao hơn. Xóa đói giảm nghèo phải
4
được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo, cộng đồng nghèo, bởi vì sự nỗ
lực tự vươn lên để thoát nghèo chính là động lực, là điều kiện cần cho sự thành
công của mục tiêu chống đói nghèo ở các nước. Nhà nước sẽ trợ giúp người nghèo
biết cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro. Bên cạnh sự hỗ trợ về
vật chất trực tiếp thì việc tạo việc làm cho người nghèo bằng cách hướng dẫn
người nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế theo điều kiện cụ thể của họ
chính là điều kiện xóa đói giảm nghèo thành công nhanh và bền vững.
2 QUAN NIỆM VÀ NHẬN ĐỊNH VỀ NGHÈO ĐÓI
2.1 Quan niệm về nghèo đói
Nghèo đói diễn tả sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc sống tương ứng với
các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Thước đo các tiêu chuẩn này và các nguyên nhân
dẫn đến nghèo nàn thay đổi tùy theo địa phương và theo thời gian. Tổ chức Y tế Thế
giới định nghĩa nghèo theo thu nhập. Theo đó một người là nghèo khi thu nhập
hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm
(Per Capita Incomme, PCI) của quốc gia. Nghèo đói có hai khái niệm cơ bản là
nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối:
a) Nghèo tuyệt đối
Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển,
Robert Mc.Namara, khi là giám đốc của Ngân hàng Thế giới, đã đưa ra khái niệm
nghèo tương đối. Ông định nghĩa khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: "Nghèo ở mức
độ tuyệt đối... là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo
tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và
trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn
của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta."
b) Nghèo tương đối
Trong những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào
hoàn cảnh xã hội của cá nhân. Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung
cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về
một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó.xa hoi my
Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào
cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo tương đối chủ quan khi
những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách quan.
Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi
vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóa - xã hội, thiếu
tham gia vào cuộc sống xã hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học
xem như là một thách thức xã hội nghiêm trọng.
c) Ranh giới nghèo tương đối
5
Ranh giới cho nạn nghèo tương đối dựa vào nhiều số liệu thống kê khác nhau
cho một xã hội. Một con số cho ranh giới của nạn nghèo được dùng trong chính trị
và công chúng là 50% hay 60% của thu nhập trung bình. Vì thế từ năm 2001 trong
các nước thành viên của Liên minh châu Âu những người được coi là nghèo khi có ít
hơn 60% trị trung bình của thu nhập ròng tương đương. Lý luận của những người phê
bình cho rằng con số này trên thực tế cho biết rất ít về chuẩn mực cuộc sống của con
người. Những ai hiện tại có ít hơn 50% của thu nhập trung bình thì cũng vẫn có ít hơn
50% của trung bình khi tất cả các thu nhập đều tăng gấp 10 lần. Vì thế những người đó
vẫn còn là nghèo tương đối. Và khi những người giàu bỏ đi hay mất tiền của thì sẽ
giảm trung bình của thu nhập đi và vì thế làm giảm thiểu nghèo tương đối trong một
nước. Ngược lại nghèo tương đối sẽ tăng lên khi một người không nghèo có thể tăng
được thu nhập ngay cả khi những người có thu nhập khác vẫn không có thay đổi.
Người ta còn phê bình là ranh giới nghèo trộn lẫn vấn đề nghèo với vấn đề phân bố thu
nhập. Vì một sự phân chia rõ ràng giữa nghèo và giàu trên thực tế không có nên khái
niệm ranh giới nguy cơ nghèo cũng hay được dùng cho ranh giới nghèo tương đối.
Ngược với ranh giới nghèo tương đối, các phương án tính toán ranh giới nghèo
tuyệt đối đã đứng vững. Các ranh giới nghèo tuyệt đối được tính toán một cách
phức tạp bằng cách lập ra những giỏ hàng cần phải có để có thể tham gia vào
cuộc sống xã hội.
Các ranh giới nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối đều không có thể xác định
được nếu như không có trị số tiêu chuẩn cho trước. Việc chọn lựa một con số phần
trăm nhất định từ thu nhập trung bình và ngay cả việc xác định một giỏ hàng đều
không thể nào có thể được giải thích bằng các giá trị tự do. Vì thế mà chúng được
quyết định qua những quá trình chính trị.
d) Nghèo khổ của con người (nghèo khổ tổng hợp)
Sự nghèo khổ của con người là khái niệm đã được Liên Hợp Quốc đưa ra trong
“Báo cáo về phát triển con người” năm 1997. Theo đó, nghèo khổ của con người là
khái niệm biểu thị sự thiệt thòi (khốn cùng) theo cả ba khía cạnh cơ bản nhất của
cuộc sống con người. Chẳng hạn đối với các nước đang phát triển thì sự thiệt thòi đó
là:
+ Thiệt thòi trên khía cạnh cuộc sống lâu dài và khoẻ mạnh, được xác định
bởi tỷ lệ người dự kiến có tuổi thọ không quá 40 tuổi.
+ Thiệt thòi về tri thức, được xác định bởi tỷ lệ người lớn mù chữ.
+ Thiệt thòi về đảm bảo kinh tế (nghèo khổ về thu nhập), được xác định
bởi tỷ lệ người không tiếp cận được các dịch vụ y tế, nước sạch và tỷ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng.
Để đánh giá “nghèo khổ của con người”, Liên Hợp Quốc đã sử dụng chỉ số
nghèo khổ của con người – HPI (Human Poor Index) hay còn gọi là chỉ số nghèo
tổng hợp. Giá trị HPI của một nước nói lên rằng sự nghèo khổ của con người ảnh
6
hưởng lên bao nhiêu phần dân số của nước đó. So sánh các giá trị HDI và HPI cho
thấy sự phân phối thành tựu của tiến bộ con người. Các nước có thể có giá trị HDI như
nhau nhưng giá trị HPI sẽ khác nhau.
Ví dụ: Trường hợp của Trung Quốc và Gioócđani (1999). Chỉ số phát triển
con người HDI của mỗi nước đều là 0,718 và 0,714; chỉ số nghèo khổ con người HPI
của Trung Quốc là 15,1% và của Gioócđani là 8,5%. ở Việt Nam, HPI năm 1999 là
29,1% xếp hạng theo HPI nước ta đứng thứ 45 trên 90 quốc gia được Liên Hợp Quốc
nghiên cứu.
2.2 Chuẩn nghèo và phương pháp xác định
a) Chuẩn nghèo
Hiện nay, chuẩn nghèo của thế giới quy định quốc gia có thu nhập bình
quân người hàng năm là 735 USD. Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam
năm 2013 là 1.960 USD người/năm. Theo mức thu nhập này, hiện nay Việt Nam đã
thoát khỏi ngưỡng của một quốc gia nghèo và bước vào ngưỡng một quốc gia có thu
nhập trung bình thấp của thế giới. Tuy nhiên, trong nước vẫn còn một bộ phận không
nhỏ người dân đang sống trong mức nghèo.
Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 USD/ngày theo sức mua tương đương
của địa phương so để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho nạn
nghèo tuyệt đối. Trong những bước sau đó các trị ranh giới nghèo tuyệt đối (chuẩn)
cho từng địa phương hay từng vùng được xác định, từ 2 USD/ngày cho châu Mỹ La
tinh và Carribean đến 4 USD/ngày cho những nước Đông Âu cho đến 14,40
USD/ngày cho những nước công nghiệp….
Tính từ năm 2001 đến năm 2011, Việt Nam đã có 3 lần nâng mức chuẩn
nghèo. Đó là: Theo Quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 27 tháng 9 năm 2001, trong đó phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia
xóa đói và giảm nghèo giai đoạn 2001 – 2005", thì những hộ gia đình có thu nhập
bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000
đồng/người/tháng (960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nông
thôn đồng bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000
đồng/người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực
thành thị những hộ có thu nhập bình quân đầu người từ 150.000 đồng/người/tháng
(1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 8
tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 –
2010 thì ở khu vực nông thôn những hộ có mức thu nhập bình quân từ 200.000
đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm)trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực thành
thị những hộ có thu nhập bình quân từ 260.000 đồng/người/tháng (dưới 3.120.000
đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo. Tiêu chuẩn nghèo tại thành phố Hồ Chí Minh
7
năm 2004 là thu nhập bình quân đầu người dưới 330.000 đồng/tháng hoặc 4.000.000
đồng/năm (tương ứng 284USD/năm thấp hơn tiêu chuẩn 360 USD/năm của quốc tế).
Theo Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 30
tháng 01 năm 2011 về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho
giai đoạn 2011 – 2015, thì hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
400.000 đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống; hộ nghèo ở
thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/người/tháng (từ 6.000.000
đồng/người/năm) trở xuống; hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình
quân từ 401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng; hộ cận nghèo ở thành thị là hộ
có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
b) Phương pháp xác định chuẩn nghèo
Phương pháp điều tra, tiêu chí rà soát
Ngày 14/10/2011, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành văn
bản số 3461/LĐ-TBXH hướng dẫn quy trình tổ chức điều tra, rà soát hộ nghèo,
cận nghèo năm 2011. Theo đó, phương pháp điều tra, rà soát được kết hợp các
phương pháp nhận dạng nhanh, điều tra định lượng, phương pháp đánh giá có sự tham
gia của người dân.
- Sử dụng công cụ nhận dạng nhanh về tình trạng tài sản (sản xuất và sinh
hoạt của hộ gia đình) để xác định chắc chắn hộ không nghèo, cận nghèo.
Yếu tố đặc trưng của hộ nghèo là: Nhà ở kém chất lượng (nhà ở tạm-đơn
sơ); Hộ có 2/3 số thành viên hộ trở lên là người ăn theo; Hộ không có nhà vệ sinh;
Hộ có trẻ em 6-15 tuổi không đến trường do không có tiền; Hộ dùng đèn dầu, nến
do không có tiền sử dụng điện.
- Xem xét tình trạng tài sản của hộ gia đình thông qua số lượng và chấm
điểm tài sản: Nếu có số điểm lớn hơn hoặc bằng số điểm quy định, thuộc diện hộ
không nghèo, không cần điều tra thu nhập; Nếu tài sản hộ gia đình có số điểm nhỏ hơn
điểm quy định, điều tra viên tiến hành điều tra thu nhập của hộ gia đình.
Tiêu chí rà soát: thực hiện theo quy định tại Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg
ngày 30/1/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận
nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011- 2015. Lưu ý: Chỉ tính thu nhập của hộ gia
đình trong vòng 12 tháng qua; Không tính khoản trợ cấp an sinh xã hội từ ngân
sách Nhà nước vào thu nhập của hộ gia đình (như trợ cấp xã hội theo Nghị định
số67/2007/NĐ-CP; Nghị định 13/2010/NĐ-CP; trợ cấp tiền điện; trợ cấp khó khăn
đột xuất).
Tổ chức bình xét ở thôn/ấp, tổ dân cư
Cũng theo hướng dẫn tại văn bản số 3461/LĐ-TBXH thì việc xác định hộ
nghèo, hộ cận nghèo phải có sự tham gia đánh giá, bình xét của người dân tại Hội
nghị bình xét tổ chức ở thôn/ấp, tổ dân cư. Chủ trì Hội nghị là Trưởng thôn/ấp, tổ dân
8
cư; tham dự hội nghị gồm đại diện Đảng ủy, UBND cấp xã, cán bộ giảm nghèo, bí thư
chi bộ, chi hội trưởng các chi hội đoàn thể thôn/ấp; các hộ có tên trong danh sách đưa
ra bình xét; đại diện các hộ gia đình trong thôn/ấp, tổ dân cư (hội nghị phải có trên
50% đại diện hộ gia đình tham dự). Việc bình xét theo nguyên tắc dân chủ, công khai,
khách quan và phải lấy ý kiến biểu quyết đối với từng hộ (theo hình thức giơ tay hoặc
bỏ phiếu kín); kết quả biểu quyết phải có trên 50% số người tham dự đồng ý mới đưa
vào danh sách đề nghị: hộ thoát nghèo, cận nghèo; hộ nghèo, cận nghèo mới.
Việc chấm điểm theo phương pháp nhận dạng nhanh, dựa trên cơ sở giá trị tài
sản thực tế, thu nhập thực tế, có sự tham gia bình xét của người dân, so sánh với tiêu
chí, mức chuẩn tại Quyết định 09/2011/QĐ-TTg, là phương pháp kết hợp giữa việc
đánh giá định lượng và đánh giá định tính. Có thực hiện tốt phương pháp kết hợp này
mới có được kết luận chính xác nhất.
2.3 Thực trạng nghèo đói
a) Trên thế giới
Theo số liệu của Ngân hàng Thế Giới thì trong năm 2001 trên toàn thế giới có
1,1 tỉ người (tương ứng với 21% dân số thế giới) có ít hơn 1 đô la Mỹ tính theo sức
mua địa phương và vì thế được xem là rất nghèo. (Năm 1981 là 1,5 tỉ người, vào thời
gian đó là 40% dân số thế giới, năm 1987 là 1,227 tỉ người tương ứng 30% và năm
1993 là 1,314 tỉ người tương đương với 29%).
Phần lớn những người này sống tại châu Á, thế nhưng thành phần những người
nghèo trong dân cư tại châu Phi lại còn cao hơn nữa. Các thành viên của Liên Hiệp
Quốc trong cuộc họp thượng đỉnh thiên niên kỷ năm 2000 đã nhất trí với mục tiêu cho
đến năm 2015 giảm một nửa số những người có ít hơn 1 đô la Mỹ. (Điểm 1 của những
mục đích phát triển thiên niên kỷ). Theo thông tin của Ngân hàng Thế Giới vào tháng
4 năm 2004 thì có thể đạt được mục đích này nhưng không phải ở tất cả các nước.
Trong khi nhờ vào tăng trưởng kinh tế tại nhiều vùng của châu Á, tỷ lệ người nghèo
giảm xuống rõ rệt (từ 58% xuống còn 16% tại Đông Á) thì con số những người nghèo
nhất lại tăng lên ở châu Phi (gần gấp đôi từ 1981 đến 2001 phía Nam sa mạc Sahara).
Tại Đông Âu và Trung Á con số những người nghèo nhất đã tăng lên đến 6% dân số.
Nếu như đặt ranh giới nghèo là 2 đô la Mỹ mỗi ngày thì có tổng cộng là 2,7 tỉ người
nghèo, gần một nửa dân số thế giới. Nếu xếp theo thu nhập bình quân đầu người thì
các nước sau có tỉ lệ người nghèo cao nhất: Malawi, Tanzania, Guiné-Bissau, Burundi
và Yemen.
Nạn nghèo tại Áo
Theo số liệu của Bộ Xã hội ("Báo cáo về tình trạng xã hội 2003–2004") thì
trong năm 2003 có hơn 1 triệu người ở Áo (13,2% dân cư) có nguy cơ nghèo. Trong
năm 2002 là 900.000 hay 12%, năm 1999 là 11%. Ranh giới nguy cơ nghèo là 60%
của thu nhập trung bình. Theo đó thì cứ mỗi 8 người thì có 1 người là có thu nhập ít
hơn 785 Euro/tháng. Phụ nữ có tỷ lệ nguy cơ nghèo cao hơn (14%).
9
Bên cạnh nghèo về thu nhập như là chỉ số cho tình trạng tài chính của một gia
đình, ở Áo còn có „nghèo nguy kịch“ khi ngoài việc thiệt thòi về tài chính còn có thiếu
thốn hay hạn chế nhất định trong những lãnh vực sống cơ bản. Trong năm 2003 có
467.000 người (5,9% dân số) nghèo nguy kịch. Trong năm trước còn là 300.000 người
hay 4%. Theo một bản báo cáo của hội nghị về nạn nghèo, lần đầu tiên có số liệu về
cái gọi là "working poor": tại Áo có 57.000 người nghèo mặc dầu là có việc làm.
Ngoài ra mức độ nguy cơ nghèo phụ thuộc vào công việc làm: Những người làm việc
cho đến 20 tiếng hằng tuần có nguy cơ nghèo gấp 3 lần, những người làm việc từ 21
đến 30 tiếng có nguy cơ nghèo gấp đôi những người làm việc từ 31 đến 40 tiếng.
Nạn nghèo tại Đức
Thu nhập tương đương sau thuế hằng tháng do Cục Thống kê Liên bang tính
toán vào năm 2002 là 1.217 Euro trong các tiểu bang cũ và 1.008 Euro trong các nước
tiểu bang mới. Theo các tiêu chí của Liên minh châu Âu cho ranh giới nghèo (60%) thì
như vậy ranh giới nghèo nằm vào khoảng 730,20 Euro cho phía Tây và 604,80 Euro
cho phía Đông của nước Đức. Theo lệ thường thì mức sống xã hội văn hóa tối thiểu
được định nghĩa bằng trợ cấp xã hội còn ở dưới ranh giới này.
Theo số liệu từ "Báo cáo giàu và nghèo lần thứ hai" do chính phủ liên bang đưa
ra trong tháng 3 năm 2005 thì trong năm 2003 có 13,5% dân số là nghèo. Năm 2002
cũng theo các số liệu này thì con số đó còn là 12,7%, năm 1998 là 12,1%. Hơn 1/3
những người nghèo là những người nuôi con một mình và con của họ. Vợ chồng có
nhiều hơn 3 con chiếm 19%.
Trẻ em và thanh niên ở Đức có nguy cơ nghèo cao. 15% trẻ em dưới 15 tuổi và
19,1% thanh niên từ 16 đến 24 tuổi thuộc vào diện này. Số trẻ em sống nhờ vào trợ
cấp xã hội ở Đức tăng thêm 64.000, lên đến 1,08 triệu trong năm 2003 và đạt đến 1,45
triệu trong thời gian 2004/2005. Theo UNICEF, trẻ em nghèo ở Đức tăng nhanh hơn
so với phần lớn các nước công nghiệp. Thêm vào đó nghèo có ảnh hưởng lớn đến cơ
hội giáo dục theo nghiên cứu của Hiệp hội Từ thiện Công nhân (Arbeiterwohlfahrt).
Ngược lại thì nạn nghèo ở người già tại Đức giảm đi từ 13,3% năm 1998 xuống
11,4% trong năm 2003. Thế nhưng nạn nghèo ở đây được dự đoán là sẽ tăng vì những
người thất nghiệp, làm việc nửa ngày và những người thu nhập ít hiện đang có nhiều
sẽ có tiền hưu ít và thêm vào đó là mức tiền hưu của tất cả những người về hưu trong
tương lai (tức là tất cả những người làm việc hiện nay) sẽ bị giảm đi theo các cải tổ.
Theo một nghiên cứu của Deutsches Institut für Altersvorsorge thì 1/3 công dân liên
bang có nguy cơ bị nghèo đi trong tuổi già. Nguyên nhân bên cạnh việc tăng tuổi thọ
là các cải tổ về chế độ hưu của năm 2001 và 2004 giảm mức độ tiền hưu theo luật
pháp xuống khoảng 18% và việc nhiều công dân liên bang không sẵn sàng tự lo trước
cho tuổi già vì không muốn hay không có khả năng (khoảng 60%).
Nạn nghèo ở Mỹ
10
Theo số liệu từ bản báo cáo của Cục điều tra dân số tháng 8 năm 2005 thì ở Mỹ
con số những người có thu nhập dưới ranh giới nghèo đã liên tiếp tăng đến lần thứ tư.
Có 12,7% dân số hay 37 triệu người nghèo và đã tăng 0,2% so với năm trước đó. Một
gia đình 4 người được coi là nghèo khi chỉ có thể chi tiêu ít hơn 19.310 đô la Mỹ trong
một năm. Đối với những người độc thân thì ranh giới này ở vào khoảng 9.650 đô la.
b) Tại Việt Nam
Theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc ở Việt Nam, vào năm
2004 chỉ số phát triển con người của Việt Nam xếp hạng 112 trên 177 nước, chỉ số
phát triển giới (tiếng Anh: Gender Development Index-GDI) xếp 87 trên 144 nước và
chỉ số nghèo tổng hợp (tiếng Anh: Human Poverty Index-HPI) xếp hạng 41 trên 95
nước. Cũng theo số liệu của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc, vào năm 2002 tỷ
lệ nghèo theo chuẩn quốc gia của Việt Nam là 12.9%, theo chuẩn thế giới là 29% và tỷ
lệ nghèo lương thực (%số hộ nghèo ước lượng năm 2002) là 10.87%. Vào đầu thập
niên 1990, chính phủ Việt Nam đã phát động chương trình Xóa đói giảm nghèo cùng
với lời kêu gọi của Ngân hàng thế giới. UNDP cho rằng mặc dù Việt Nam đã đạt được
tăng trưởng kinh tế bền vững và kết quả rất ấn tượng giảm tỷ lệ nghèo, song vẫn còn
tồn tại tình trạng nghèo cùng cực ở một số vùng. Để đạt được các Mục tiêu Phát triển
Thiên niên kỷ (MDG), Việt Nam cần phải giải quyết tình trạng nghèo cùng cực.
Cho đến năm 2009, theo chuẩn nghèo trên, cả nước Việt Nam hiện có khoảng 2
triệu hộ nghèo, đạt tỷ lệ 11% dân số. Tuy nhiên, trên diễn đàn Quốc hội Việt Nam, rất
nhiều đại biểu cho rằng tỷ lệ hộ nghèo giảm không phản ánh thực chất vì số người
nghèo trong xã hội không giảm, thậm chí còn tăng do tác động của lạm phát (khoảng
40% kể từ khi ban hành chuẩn nghèo đến nay) và do là suy giảm kinh tế. Chuẩn nghèo
quốc gia của Việt Nam hiện nay là gồm những hộ có mức thu nhập bình quân từ
400.000 đến 650.000 đồng/người/tháng (QĐ 09/2011/QD-TTg). Mặc dù vậy, nhiều hộ
gia đình vừa thoát nghèo vẫn rất dễ rớt trở lại vào cảnh nghèo đói. Trong thập kỷ tới
đây nỗ lực của Việt Nam trong việc hội nhập với nền kinh tế toàn cầu sẽ tạo ra nhiều
cơ hội cho sự tăng trưởng, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với sự nghiệp giảm
nghèo.
Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh
Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công rất lớn trong việc giảm tỷ lệ
nghèo, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, những thành tựu này vẫn còn rất mong
manh. Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo, do vậy
chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng khiến họ rơi xuống ngưỡng nghèo
và làm tăng tỷ lệ nghèo.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nô ng nghiệp. Với điều kiện nguồn lực
rất hạn chế (đất đai, lao độ ng, vốn), thu nhập của những người nghèo rất bấp bênh và
dễ bị tổn thương trước những độ t biến của mỗi gia đình và của cộ ng đồ ng. Nhiều hộ
gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo, nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng
nghèo đói nên khi có những dao động về thu nhập cũng có thể khiến họ trượt xuống
11
ngưỡng nghèo. Tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp cũng tạo nên khó khăn cho
người nghèo.
Mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với mức sống
chung và đặc biệt so với nhóm có mức sống cao. Sự gia tăng chênh lệch thu nhập giữa
nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất (từ 7,3 lần năm 1993 lên 8,9 lần năm 1998)
cho thấy, tình trạng tụt hậu của người nghèo (trong mối tương quan với người giàu).
Mặc dù chỉ số nghèo đói có cải thiện, nhưng mức cải thiện ở nhóm người nghèo chậm
hơn so với mức chung và đặc biệt so với nhóm người có mức sống cao. H ệ số chênh
lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn còn rất cao.
Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn
Đa số người nghèo sinh sống trong các vùng tài nguyên thiên nhiên rất nghèo
nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa hoặc ở các
vùng Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, do sự biến động của thời tiết (bão, lụt,
hạn hán....) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm
khó khăn. Đặc biệt, sự kém phát triển về hạ tầng cơ sở của các vùng nghèo đã làm cho
các vùng này càng bị tách biệt với các vùng khác. Năm 2000, khoảng 20-30% trong
tổng số 1.870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đ ường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số
xã chưa đủ phòng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước sạch;
40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% chưa đủ công trình thuỷ lợi nhỏ;
20% số xã chưa có chợ xã hoặc cụm xã. Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không
thuận lợi, số người trong diện cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1-1,5 triệu
người. Hàng năm số hộ tái đ ói nghèo trong tổ ng số hộ vừa thoát khỏi nghèo vẫn còn
lớn.
Đói nghèo tập trung trong khu vực nông thôn
Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn với trên 90% số người
nghèo sinh sống ở nông thôn. Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực, thực phẩm
của thành thị là 4,6%, trong khi đó của nông thôn là 15,9%. Trên 80% số người nghèo
là nông d ân, trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận các nguồn lực trong sản xuất
(vốn, kỹ thuật, công nghệ....), thị trường tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều
kiện địa lý và chất lượng sản phẩm kém, chủng lo ại sản phẩm nghèo nàn. Những
người nông dân nghèo thường không có điều kiện tiếp cận với hệ thố ng thô ng tin,
khó có khả năng chuyển đổi việc làm sang các ngành phi nông nghiệp. Phụ nữ nông
dân ở vùng sâu, vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm
nghèo dễ bị tổn thương nhất. Phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn, nhưng thu
nhập ít hơn, họ ít có quyền quyết định trong gia đ ình và cộ ng đồng do đó có ít cơ hội
tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang lại.
Nghèo đói trong khu vực thành thị
Trong khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đó i thấp hơn và m ức sống trung bình
cao hơn so với mức chung cả nước, nhưng mức độ cải thiện điều kiện sống không
12
đồng đều. Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực kinh tế phi chính thức,
công việc không ổn đ ịnh, thu nhập thấp và bấp bênh. Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế
và chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước dẫn đến sự dôi dư lao động, mất việc làm của
một bộ phận người lao động ở khu vực này, làm cho đ iều kiện sống của họ càng thêm
khó khăn hơn. Số lao động này phải chuyển sang làm các công việc khác với mức
lương thấp hơn, hoặc không tìm được việc làm và trở thành thất nghiệp.
Người nghèo đô thị phần lớn sống ở những nơi có cơ sở hạ tầng thấp kém, khó
có điều kiện tiếp cận tới các dịch vụ cơ bản (nước sạch, vệ sinh môi trường, thoát
nước, ánh sáng và thu gom rác thải....). Họ thường dễ bị tổn thương do số ng phụ thuộc
chủ yếu vào nguồn thu nhập bằng tiền và không có hoặc có ít khả năng tiết kiệm và
gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn tạo việc làm.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa làm tăng số lượng người di cư tự do từ
các vùng nông thô n đến các đô thị, chủ yếu là trẻ em và người trong độ tuổi lao động.
Hiện tại chưa có số liệu thống kê về số lượng người di cư tự do này trong các b áo cáo
về nghèo đói đô thị. Những người này gặp rất nhiều khó khăn trong việc đăng ký hộ
khẩu hoặc tạm trú lâu dài, do đó họ khó có thể tìm kiếm được công ăn việc làm và thu
nhập ổn đ ịnh. Họ có ít cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội và phải chi trả cho các dịch
vụ cơ bản như y tế, giáo dục ở mức cao hơn so với người dân đã có hộ khẩu.
Ngoài ra, đói nghèo còn chiếm tỷ lệ cao trong các nhóm đối tượng xã hội khác
như những người không nghề nghiệp, người thất nghiệp, người lang thang và người bị
ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội (mại dâm, nghiện hút, cờ bạc,...).
Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao
Đói nghèo mang tính chất vù ng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa,
vùng đồ ng bào dân tộ c ít người sinh sống, có tỷ lệ đói nghèo khá cao. Có tới 64% số
người nghèo tập trung tại các vùng miền núi phía Bắc, Bắc Trung bộ, Tây Nguyên và
duyên hải miền Trung. Đây là những vùng có điều kiện sống khó khăn, địa lý cách
biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện sản xuất và dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ
tầng cơ sở rất kém phát triển, điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thiên tai xảy ra
thường xuyên.
Tỷ lệ hộ nghèo đói đặ c biệt cao trong các nhóm dân tộc ít người
Trong thời gian qua, Chính phủ đã đầu tư và hỗ trợ tích cực, nhưng cuộc sống
của cộng đồng dân tộc ít người vẫn gặp nhiều khó khăn và bất cập. Mặc dù dân số dân
tộc ít người chỉ chiếm khoảng 14% tổng số dân cư, song lại chiếm khoảng 29% trong
tổng số người nghèo. Đa số người dân tộc ít người sinh sống trong các vùng sâu, vù ng
xa, bị cô lập về mặt đ ịa lý, văn ho á, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và các
dịch vụ xã hội cơ bản.
2.4 Nguyên nhân
a) Nguyên nhân của nghèo đói nói chung
13
Những nguyên nhân chính dẫn đến nghèo được liệt kê ra là chiến tranh, cơ cấu
chính trị (thí dụ như chế độ độc tài, các quy định thương mại quốc tế không công
bằng), cơ cấu kinh tế (phân bố thu nhập không cân bằng, tham nhũng, nợ quá nhiều,
nền kinh tế không có hiệu quả, thiếu những nguồn lực có thể trả tiền được), thất bại
quốc gia, tụt hậu về công nghệ, tụt hậu về giáo dục, thiên tai, dịch bệnh, dân số phát
triển quá nhanh và không có bình đẳng nam nữ.
Yếu tố nguy hiểm chính cho sự nghèo tương đối là thất nghiệp và thiếu việc
làm. Ngoài ra những yếu tố nguy hiểm khác là phân bố thu nhập quá mất cân bằng,
thiếu giáo dục và bệnh tật mãn tính.
Cho đến thế kỷ 19 sự nghèo nàn phần lớn không được xem như là có nguyên
nhân từ xã hội mà là do lỗi lầm cá nhân hay "trời muốn". Cùng với công nghiệp hóa và
các tranh cãi chung quanh "câu hỏi xã hội" tại châu Âu, quan điểm cho rằng hiện
tượng nghèo nàn phổ biến là kết quả của sự thất bại của thị trường và có thể được làm
giảm thiểu bằng các biện pháp quốc gia. Thí dụ như ở Liên hiệp Anh, việc chống
nghèo chính là khởi điểm của một chính sách xã hội hiện đại. Thế nhưng trong thời
gian gần đây hiệu quả của việc chống nghèo bằng chính sách xã hội tại nhiều nước
công nghiệp đã bị đặt câu hỏi vì nhiều hình thức nghèo mới xuất hiện.
b) Nguyên nhân nghèo đói tại Việt Nam
Có nhiều quan điểm về nguyên nhân gây ra nghèo đói ở Việt Nam nhưng nói
chung nghèo đói ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như sau:
Nguyên nhân lịch sử, khách quan
- Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc chiến tranh
lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ hoang, bom mìn, nguồn
nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất mát trong chiến tranh, thương
tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến tranh, học tập cải tạo trong một thời gian
dài.
- Chính sách nhà nước thất bại: sau khi thống nhất đất nước việc áp dụng chính
sách tập thể hóa nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp và chính sách giá lương tiền
đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm yếu của Việt Nam làm suy kiệt toàn
bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình ở nông thôn cũng như thành thị, lạm phát
tăng cao có lúc lên đến 700% năm.
- Hình thức sở hữu: việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước và
tập thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã làm thui chột động
lực sản xuất.
- Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, ngăn sông cấm chợ đã làm cắt
rời sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công nghiệp thiếu hiệu quả,
thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc doanh thiếu hàng hàng hóa làm thu
nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi dân số tăng cao.
14
- Lao động dư thừa ở nông thôn không được khuyến khích ra thành thị lao
động, không được đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp, chính sách quản lý
bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nông dân di cư, nhập cư vào
thành phố.
- Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do nguồn
vốn đầu tư thấp và thiếu hệu quả vào các công trình thâm dụng vốn của Nhà nước.
Nguyên nhân chủ quan
Sau 20 năm đổi mới đến năm 2005 kinh tế đã đạt được một số thành tựu nhưng
số lượng người nghèo vẫn còn đông, có thể lên đến 26% (4,6 triệu hộ) do các nguyên
nhân khác như sau:
- Sai lệch thống kê: do điều chỉnh chuẩn nghèo của Chính phủ lên cho gần với
chuẩn nghèo của thế giới (1USD/ngày) cho các nước đang phát triển làm tỷ lệ nghèo
tăng lên.
- Việt Nam là nước nông nghiệp đến năm 2004 vẫn còn 74,1% dân sống ở nông
thôn trong khi tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc gia thấp. Hệ
số Gini là 0,42 và hệ số chênh lệch là 8,1 nên bất bình đẳng cao trong khi thu nhập
bình quân trên đầu người còn thấp.
- Người dân còn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chưa có các
thiết chế phòng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như: thiên tai, dịch bệnh, sâu hại,
tai nạn lao động, tai nạn giao thông, thất nghiệp, rủi ro về giá sản phẩm đầu vào và đầu
ra do biến động của thị trường thế giới và khu vực như khủng hoảng về dầu mỏ làm
tăng giá đầu vào, rủi ro về chính sách thay đổi không lường trước được, rủi ro do hệ
thống hành chính kém minh bạch, quan liêu, tham nhũng.
- Nền kinh tế phát triển không bền vững, tăng trưởng tuy khá nhưng chủ yếu là
do nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ODA, kiều hối, thu nhập từ dầu mỏ trong khi
nguồn vốn đầu tư trong nước còn thấp. Tín dụng chưa thay đổi kịp thời, vẫn còn ưu
tiên cho vay các doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả thấp, không thế chấp, môi trường
sớm bị hủy hoại, đầu tư vào con người ở mức cao nhưng hiệu quả còn hạn chế, số
lượng lao động được đào tạo đáp ứng nhu cầu thị trường còn thấp, nông dân khó tiếp
cận tín dụng ngân hàng nhà nước,
- Ở Việt Nam, sự nghèo đói và HIV/AIDS tiếp tục phá hủy từng kết cấu của
tuổi thơ. Các em không được thừa hưởng quyền có một tuổi thơ được thương yêu,
chăm sóc và bảo vệ trong mái ấm gia đình hoặc được khích lệ phát triển hết khả năng
của mình. Khi trưởng thành và trở thành cha mẹ, đến lượt con cái các em có nguy cơ
bị tước đoạt các quyền đó vì các hiểm họa đối với tuổi thơ lặp lại từ thế hệ này sang
thế hệ khác.
- Sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, thành thị và nông thôn, giữa các dân
tộc cao.
15
- Môi trường sớm bị hủy hoại trong khi đa số người nghèo lại sống nhờ vào
nông nghiệp.
3 NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA XÓA ĐÓI GIẢM
NGHÈO
3.1 Mục tiêu và phương hướng thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012 – 2015
được Chính phủ phê duyệt ngày 08 tháng 10 năm 2012 với mục tiêu và phương hướng
thực hiện như sau:
a) Mục tiêu chung
Cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của người nghèo, ưu tiên người
nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo thuộc huyện nghèo, xã biên giới, xã
an toàn khu, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo; tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện về công tác giảm nghèo ở các vùng nghèo; góp
phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa thành thị và nông thôn, giữa
các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư.
b) Mục tiêu cụ thể
- Thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo cả nước tăng lên 1,6 lần so với
cuối năm 2011 (riêng các hộ nghèo ở các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt
khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi tăng gấp 2,5 lần); tỷ lệ hộ nghèo cả nước
giảm bình quân 2%/năm (riêng các huyện, xã nghèo giảm 4%/năm) theo chuẩn nghèo
quốc gia giai đoạn 2011 - 2015.
- Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chính sách giảm nghèo để cải thiện điều
kiện sống của người nghèo, trước hết là về y tế, giáo dục, văn hoá, nước sinh hoạt, nhà
ở; người nghèo tiếp cận ngày càng thuận lợi hơn với các dịch vụ xã hội cơ bản.
- Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở các huyện, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó
khăn được tập trung đầu tư đồng bộ theo tiêu chí nông thôn mới, trước hết là hạ tầng
thiết yếu như: giao thông, điện, nước sinh hoạt,…
c) Các chỉ tiêu chủ yếu cần đạt được đến năm 2015
- Phấn đấu 10% số huyện nghèo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn theo
Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về
Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo (sau đây
viết tắt là Nghị quyết 30a); 50% số xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và
hải đảo và 30% số xã, thôn bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi
thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn theo tiêu chí do Thủ tướng Chính phủ quy định.
- Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất, kinh doanh và dân
sinh phù hợp quy hoạch dân cư và quy hoạch sản xuất, kinh doanh. Phấn đấu đến năm
2015:
16
+ 85% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được nhựa hóa hoặc bê tông hóa theo
tiêu chuẩn kỹ thuật của Bộ Giao thông - Vận tải;
+ 60% thôn, bản có đường trục giao thông được cứng hoá theo tiêu chuẩn kỹ
thuật của Bộ Giao thông - Vận tải;
+ 100% trung tâm xã có điện; trên 90% thôn, bản có điện phục vụ sinh hoạt và
sản xuất, kinh doanh;
+ Các công trình thủy lợi nhỏ được đầu tư đáp ứng 80% nhu cầu tưới tiêu cho
diện tích cây trồng hằng năm.
- Thu nhập của hộ nghèo tham gia mô hình tăng 15 - 20%/năm; bình quân mỗi
năm có 10% hộ tham gia mô hình thoát nghèo.
- 100% cán bộ, công chức xã, trưởng thôn, bản và cán bộ đoàn thể được tập
huấn về: kiến thức, kỹ năng quản lý và tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách,
dự án; lập kế hoạch có sự tham gia của người dân; phát triển cộng đồng.
3.2 Chính sách đối với người nghèo
a) Hàm ý của các chính sách đối với người nghèo
Thứ nhất, Việt Nam cần hạn chế tình trạng bất ổn định vĩ mô, tiến hành thêm
cải cách để đưa đất nước trở lại con đường với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao và bền
vững. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng cũng có vai trò quan trọng ngang tỷ lệ tăng
trưởng.
Thứ hai, cần có các biện pháp để giúp tăng trưởng kinh tế của Việt Nam mang
lại lợi ích cho mọi nhóm dân, chẳng hạn hỗ trợ năng suất và tăng trưởng ở khu vực
nông thôn thông qua tăng tỷ lệ đầu tư công ở nông thôn, cung cấp tín dụng và các biện
pháp khuyến khích khác để kích thích đầu tư tư nhân ở nông thôn, và cũng hướng các
biện pháp hỗ trợ nông nghiệp (ví dụ, tín dụng, khuyến nông và thông tin thị trường)
theo nhu cầu của nông dân nghèo và dân tộc thiểu số. Hỗ trợ các ngành sản xuất thâm
lao động và các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng sẽ góp phần khiến tăng trưởng có lợi
cho các nhóm dân, gồm tăng khả năng tiếp cận tín dụng và tập huấn, mở rộng dạy
nghề cho thanh niên ở vùng nghèo và vùng dân tộc thiểu số, và các biện pháp khuyến
khích phát triển doanh nghiệp địa phương để cung cấp các lựa chọn nghề đa dạng hơn
tại địa phương. Cần tạo điều kiện tăng khả năng lưu động của lao động, cả về nghề
nghiệp và địa lý: lao động nông thôn di cư đến các thành phố và thị xã đang phát triển
ở Việt Nam cũng như tới các nước ngoài như Hàn Quốc, Nhật Bản và Ma-lai-xia từng
là một động lực mạnh mẽ đối với tăng trưởng có lợi cho mọi nhóm dân và giảm nghèo
trong quá khứ. Cần giảm bất bình đẳng về cơ hội, gồm cải thiện chất lượng giáo dục
và thúc đẩy phát triển kỹ năng, đặc biệt ở nông thôn. Nâng cao quản trị công bằng
cách tăng cường sự minh bạch và trách nhiệm giải trình sẽ góp phần làm tăng sự tham
gia ở cấp địa phương và ngăn ngừa sự gia tăng của bất bình đẳng có tác dụng làm xói
mòn sự tăng trưởng có tính công bằng.
17
- Thứ ba, các chính sách thúc đẩy tăng trưởng cao và có lợi cho mọi nhóm dân
phải được bổ trợ bằng các chính sách bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội hiệu quả. Việt
Nam cần bảo vệ việc chi cho mục đích xã hội và trợ giúp xã hội trong quá trình tái cấu
trúc kinh tế. Cần đưa vào hoạt động các công cụ có tính bình ổn tự động nhằm bảo vệ
thực sự người nghèo trong những giai đoạn bất ổn kinh tế, trợ cấp xã hội và chuẩn
nghèo chính thức cần được điều chỉnh theo chỉ số lạm phát, và cũng cần được điều
chỉnh nhằm phản ánh khác biệt và chi phí sinh hoạt theo vùng, gồm khác giữa nông
thôn và thành thị và đảm bảo đưa vào trong rổ hàng hóa một cách hợp lý các hàng hóa
và dịch vụ có tính đặc thù của người người. Cần có các biện pháp hiệu quả hơn để bảo
vệ hộ nghèo và hộ dễ tổn thương trước bối cảnh chi phí dịch vụ căn bản tăng, đặc biệt
giá điện tăng trong bối cảnh dự kiến giảm dần trợ cấp năng lượng. Công nhân nhập cư
chịu tác động nghiêm trọng của tình trạng chi phí sinh hoạt thành thị tăng; họ cần được
tiếp cận bình đẳng các dịch vụ căn bản, hưởng chế độ trợ cấp lưu động (gồm bảo hiểm
y tế) và có khả năng tiếp cận cao hơn với các chương trình bảo trợ xã hội.
- Cuối cùng, cần tiếp tục cải thiện hệ thống theo dõi nghèo của Việt Nam để hệ
thống này có thể cung cấp một nguồn thông tin đáng tin cậy cho hoahcj định chính
sách trong bối cảnh nền kinh tế thay đổi nhanh chóng. Để làm được điều này, cần sử
dụng các chuẩn nghèo khách quan, độc lập với nguồn lực bên cạnh các chuẩn nghèo
mục tiêu gắn với nguồn lực sẵn có, và cần thông tin rõ ràng tới các nhà hoạch định
chính sách, những người thực hiện cũng như công chúng về nguyên nhân cũng như
điều kiện ứng dụng phù hợp của hai loại chuẩn nghèo này. Hơn nữa, việc xây dựng hồ
sơ nghèo và các ước tính nghèo trong tương lai cần được thực hiện một cách minh
bạch nhằm giúp cho các chuyên gia độc lập và công chúng nói chung có thể giám sát
được các kết quả.
b) Một số chính sách đối với người nghèo ở Việt Nam
- Chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo, trong 02 năm (2011-2012),
ngân sách nhà nước đã bố trí 22.303 tỷ đồng để hỗ trợ mua thẻ bảo hiểm y tế cho
người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi, hỗ trợ người thuộc hộ cận
nghèo, học sinh sinh viên; trong 02 năm đã có 29 triệu lượt người nghèo, dân tộc thiểu
số được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí; trên 10% người thuộc hộ cận nghèo tham gia
mua thẻ bảo hiểm y tế được ngân sách hỗ trợ bằng 70% mệnh giá;
- Chính sách hỗ trợ học sinh nghèo về giáo dục - đào tạo, năm 2011-2012, ngân
sách nhà nước đã hỗ trợ 11.844 tỷ đồng để thực hiện các chính sách giảm nghèo trong
lĩnh vực giáo dục- đào tạo như miễn giảm học phí cho con hộ nghèo, hộ chính sách,
trợ cấp học bổng, hỗ trợ tiền ăn trưa cho trẻ em 5 tuổi (mỗi năm ngân sách trung ương
bố trí khoảng 5.922 tỷ đồng); trong 02 năm đã có trên 04 triệu lượt học sinh nghèo
được miễn giảm học phí, hỗ trợ điều kiện học tập và trợ cấp tiền ăn, nhờ đó, tỷ lệ học
sinh bỏ học giảm, tỷ lệ huy động trẻ em đến trường theo độ tuổi tăng;
- Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu
số: năm 2011-2012, ngân sách nhà nước đã bố trí để thực hiện Quyết định 1592/QĐ18
TTg ngày 12/10/2009 của TTCP là 1.050 tỷ đồng. Tính đến cuối năm 2012, các địa
phương đã hỗ trợ đất ở cho 71.713 hộ; hỗ trợ đất sản xuất cho 83.563 hộ; hỗ trợ nước
sinh hoạt phân tán cho 214.466 hộ; xây dựng 5.573 công trình nước tập trung ở các xã,
thôn bản đặc biệt khó khăn;
- Chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm: Từ năm 2010 đến 2012, đã có
1,087 triệu người được hỗ trợ đào tạo nghề ngắn hạn, trong đó lao động thuộc hộ
nghèo chiếm 10,7%, lao động thuộc hộ cận nghèo chiếm 5,2% và lao động người dân
tộc thiểu số chiếm 20,5% năm; thông qua chương trình đào tạo nghề cho lao động
nông thôn, đã có 39.221 người thuộc hộ nghèo, sau học nghề có việc làm, thu nhập đã
thoát nghèo (chiếm 33,7% số người thuộc hộ nghèo được học nghề);
- Chính sách chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật
Sau 02 năm triển khai chương trình "Hỗ trợ, ứng dụng và chuyển giao tiến bộ
khoa học và kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn miền núi 20112015", đã có 278 dự án được phê duyệt và đang triển khai. Nhiều dự án đã phát huy
hiệu quả, giúp các địa phương phát triển các sản phẩm hàng hóa có lợi thế; hình thành
các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở địa phương;
- Chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số
Trong 02 năm (2011-2012), đã bố trí từ ngân sách trên 52 tỷ đồng để triển khai
các hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số; thông qua
đó, các địa phương đã tư vấn pháp luật 89.612 vụ việc cho hơn 90.000 lượt người
nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số; phổ biến pháp luật cho 150.507 lượt người;
- Chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo: năm 2011-2012, ngân sách trung ương
tiếp tục bố trí 2.741 tỷ đồng hỗ trợ nhà ở theo Quyết định 167/2008/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ. Tính đến cuối năm 2012, đã có trên 500 ngàn hộ nghèo được hỗ trợ.
Do chính sách hợp lý, huy động được các nguồn hỗ trợ nên quy mô, chất lượng nhà ở
được bảo đảm, giúp hộ nghèo có cuộc sống ổn định hơn;
- Chính sách hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo, trong 02 năm (2011-2012), ngân
sách nhà nước đã bố trí 1.838 tỷ đồng để hỗ trợ tiền điện cho trên 5 triệu lượt hộ
nghèo, trong đó năm 2011 là 910 tỷ đồng, năm 2012 là 928 tỷ đồng;
- Chính sách tín dụng ưu đãi: trong 02 năm đã có hơn 01 triệu lượt hộ nghèo
được vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất với mức vay bình quân 12 triệu
động/lượt, tổng dư nợ cho vay hộ nghèo phát triển sản xuất đến 31/12/2012 là 37.447
tỷ đồng; có 1,9 triệu hộ gia đình được vay vốn tín dụng học sinh, sinh viên để cho 2,3
triệu con em đi học, với dư nợ 35.558 tỷ đồng.
c) Chính sách xóa đói giảm nghèo đói với nhóm dân tộc thiểu số
Đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta có hơn 14 triệu người, cư trú trên 52 tỉnh,
thành của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo ở các xã, thôn, bản miền núi, vùng cao, vùng sâu
nếu áp dụng theo chuẩn nghèo năm 2011, là gần 50%.
19
Các nhóm chương trình giảm nghèo
Nhóm chính sách giảm nghèo toàn diện: Đó là các chính sách tổng hợp, nhằm
mục tiêu cải thiện toàn diện các khía cạnh đời sống của các hộ nghèo, bao gồm các dự
án tiếp cận dịch vụ, kết cấu hạ tầng; hỗ trợ sản xuất, thúc đẩy sản xuất hàng hóa và liên
kết thị trường, đào tạo nghề, tạo điều kiện phát triển các mặt của đời sống kinh tế, văn
hóa, xã hội cho đồng bào (Chương trình 135, Chương trình 30a; Chương trình mục
tiêu quốc gia về giảm nghèo...)
Nhóm các chính sách có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp nâng cao đời sống
nhân dân mang tầm quốc gia. Các chính sách này với các chủ trương tiếp cận theo mục
tiêu, tập trung vào một số lĩnh vực cụ thể, thiết thực đặt ra từ thực tế đời sống kinh tế,
xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch;
giáo dục đào tạo, giải quyết việc làm; dân số, kế hoạch hóa gia đình; chương trình xây
dựng nông thôn mới...).
Các chính sách theo vùng. Đó là các chính sách có trọng tâm hỗ trợ cho một số
vùng nhất định như: Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội các xã biên giới
Việt Nam - Lào - Campuchia, vùng Tây Bắc; Giải quyết đất ở, đất canh tác cho đồng
bào dân tộc thiểu số ở Tây Nam Bộ; Giao rừng và bảo vệ rừng cho đồng bào dân tộc
thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Thanh Hóa - Nghệ An...
Chính sách giảm nghèo tiếp cận theo ngành. Chính sách này tập trung hỗ trợ
theo từng lĩnh vực cụ thể như giáo dục, chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, nước
sạch, trồng rừng…
Các chính sách tiếp cận đặc trưng cho nhóm nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số
như chính sách hỗ trợ một số dân tộc đặc biệt khó khăn; những dân tộc đặc biệt ít
người,...
Các nhóm chính sách trên thông qua các dự án, các chương trình nhằm tạo điều
kiện phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân
tộc thiểu số, đưa vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển;
tạo điều kiện cho hộ nghèo tiếp cận với các dịch vụ xã hội và hoạt động nâng cao nhận
thức, năng lực giảm nghèo.
Kết quả thực hiện: Thành tựu và những hạn chế
Chương trình 135 giai đoạn II. Được thực hiện trên địa bàn 1.848 xã đặc biệt
khó khăn và 3.274 thôn, bản đặc biệt khó khăn. Tổng ngân sách đầu tư là 14.024 tỷ
đồng được đầu tư cho công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng triển khai thực hiện các
hoạt động trợ giúp pháp lý, nâng cao nhận thức pháp luật và các hoạt động văn hóa
cho đồng bào.
Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt, đã phân bổ được
4.474 tỷ đồng, hỗ trợ xây dựng được 373.400 ngôi nhà cho đồng bào; hỗ trợ 15.552 ha
đất ở cho gần 72 nghìn hộ; hỗ trợ 27.763 ha đất sản xuất cho hơn 85 nghìn hộ; gần 95
nghìn hộ được hỗ trợ chuyển đổi nghề, hơn 42 nghìn hộ có lao động được hỗ trợ học
20
nghề... Ngoài ra, Chính phủ còn có chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nhà ở và nước
sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng đồng bằng
sông Cửu Long.
Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo.
Kết quả thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các chương trình giảm
nghèo làm cho bộ mặt các xã nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được
cải thiện rõ rệt: 100% số xã có đường giao thông đến trung tâm xã (trong đó 75,2% xã
có đường giao thông từ trung tâm xã đến thôn, bản đi lại được bằng xe gắn máy);
100% số xã có trạm y tế xã được đầu tư; 100% xã có đủ trường tiểu học (trong đó
trường, lớp học kiên cố 83,6%); 67,5% xã có công trình thủy lợi nhỏ bảo đảm năng lực
phục vụ sản xuất; 91,8% số xã có điện đến trung tâm xã; đầu tư các công trình nước
sinh hoạt tập trung (phân tán) cung cấp cho 67,8% số hộ dân...
Về chăm lo nâng cao dân trí, đời sống văn hoá, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hoá dân tộc. Trình độ dân trí, đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân được nâng cao;
giá trị bản sắc văn hoá các dân tộc được giữ gìn, phát huy. Sự nghiệp giáo dục miền
núi tiếp tục phát triển. Đã có sự chuyển biến đáng kể về đầu tư, quy mô và chất lượng
dạy và học. 100% các xã vùng miền núi phổ cập trung học cơ sở. Các chế độ, chính
sách được giải quyết đầy đủ, kịp thời, 100% học sinh tiểu học là con em đồng bào dân
tộc thiểu số ở các xã đặc biệt khó khăn được cấp giấy vở và sách giáo khoa để học tập.
Học sinh dân tộc tuyển vào các trường Dân tộc nội trú, được học bổng với tỷ lệ cao.
Hệ thống thiết chế văn hoá thông tin đang từng bước được đầu tư. Nhiều hoạt
động văn hoá của bà con dân tộc thiểu số được khôi phục, phát triển như: lễ hội đâm
trâu, lễ hội làm mùa, lễ hội cầu may,... Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch, các tỉnh,
thành trên cả nước hằng năm đều tổ chức liên hoan ngày hội Văn hoá Thể thao các dân
tộc thiểu số, góp phần tích cực vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá, thể thao
các dân tộc thiểu số, tạo nên một hoạt động văn hoá sôi nổi, vui tươi, lành mạnh.
Nâng cao sức khỏe và mức sống cho đồng bào các dân tộc thiếu số: Công tác
chăm sóc sức khỏe cho đồng bào các dân tộc thiểu số được quan tâm. 100% trạm y tế
đã được kiên cố hoá. Đội ngũ y sĩ, bác sĩ về xã được tăng cường, mạng lưới y tế thôn
bản đầy đủ 100%. Công tác dân số gia đình và trẻ em được chú trọng, đẩy mạnh
truyền thông dân số, thực hiện nhiều biện pháp kế hoạch hóa gia đình, giảm được tỷ lệ
sinh cho vùng dân tộc miền núi.
Về công tác xoá đói giảm nghèo: Nhờ thực hiện các chủ trương phát triển sản
xuất, xoá đói giảm nghèo, lồng ghép các mục tiêu và sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cơ
quan, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh, huyện, xã, trong sản xuất và đời sống, như đầu tư
giúp đỡ trâu bò, dụng cụ sản xuất, lương thực, nhà ở, tấm lợp, phân bón, dầu hoả,
muối i-ốt... và sự cố gắng nỗ lực trong trồng trọt chăn nuôi, làm vườn, đồng bào các
dân tộc thiểu số đã dần vươn lên trong cuộc sống, chấm dứt tình trạng chạy ăn từng
bữa như trước đây. Chất lượng cuộc sống được nâng lên rõ rệt. Hiện nay, tỷ lệ hộ đói
trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm đáng kể, từ 74% năm 2001 xuống còn dưới 38%
21
năm 2012; thu nhập bình quân đầu người đạt 4,2 triệu đồng/người/năm. Đời sống vật
chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc đã được nâng lên rõ rệt, an ninh quốc
phòng được giữ vững, khối đại đoàn kết các dân tộc được tăng cường và củng cố.
Đồng bào các dân tộc tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào các chủ trương, chính
sách của Nhà nước.
Đồng bào dân tộc thiểu số ở nhiều nơi đã từ bỏ phương thức canh tác lạc hậu,
du canh du cư, đốt rừng làm nương rẫy, ổn định định canh, định cư để phát triển sản
xuất, nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập. Đội ngũ cán bộ cấp xã,
thôn, bản từng bước được nâng cao về năng lực quản lý và điều hành, thực hiện các
chính sách, chương trình, dự án tại địa phương. Hệ thống chính trị ngày càng được
tăng cường và củng cố. Bộ mặt nông thôn miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số thay đổi và có nhiều khởi sắc.
Tuy nhiên, công tác xóa đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn
đang còn nhiều khó khăn, thách thức bởi kết quả giảm nghèo chưa có tính bền vững, tỷ
lệ hộ cận nghèo còn lớn, số hộ tái nghèo hàng năm còn cao; hiệu quả mang lại chưa
tương xứng với sự quan tâm và nguồn lực đầu tư.
Các chương trình, dự án đầu tư còn dàn trải, manh mún, lãng phí, thiếu thống
nhất. Một số công trình đầu tư hiệu quả thấp sau khi đưa vào khai thác sử dụng; cơ cấu
đầu tư thiếu đồng bộ. Giáo dục và y tế miền núi chưa đáp ứng yêu cầu nhất là xây
dựng, nâng cao năng lực cho con người tại chỗ. Đến nay, tỷ lệ đói nghèo tại địa bàn
dân tộc thiểu số vẫn cao và còn chênh lệch lớn so với vùng đồng bằng. Tư tưởng bảo
thủ, trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước vẫn còn nặng nề trong cán bộ và đồng bào
các dân tộc.
Nguyên nhân của những hạn chế phần lớn là do điều kiện tự nhiên không thuận
lợi, địa hình phức tạp, diện tích đất trồng ít và khó canh tác, kinh tế chưa phát triển;
việc lồng ghép các chương trình, dự án liên quan đến giảm nghèo còn chồng chéo,
thiếu đồng bộ, một số chính sách chưa thực sự phù hợp với thực tiễn địa phương,...
Một nguyên nhân khác làm cản trở công cuộc xoá đói giảm nghèo vùng dân tộc
thiểu số là do trình độ dân trí của bà con còn hạn chế. Chính vì vậy họ không nắm
được kỹ thuật sản xuất, chi tiêu, phân bổ đồng vốn không hợp lý, kém hiệu quả.
Không ít gia đình được dự án hỗ trợ cho vay tiền với lãi suất ưu đãi, nhưng không biết
sử dụng vào sản xuất, kinh doanh nên cuối cùng vẫn không thoát được nghèo. Có một
thực trạng ở một số địa phương, nhiều đồng bào thậm chí không muốn thoát tiếng
“nghèo” để được hưởng chế độ chính sách ưu đãi của Nhà nước,…
Các Chương trình giảm nghèo đã triển khai chưa bao quát toàn diện công tác
giảm nghèo. Các chính sách, dự án, chương trình giảm nghèo thường mang tính ngắn
hạn, chồng chéo, tạo ra tính ỳ của người nghèo. Nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm
nghèo còn phân tán, dàn trải, chưa tập trung ưu tiên để giải quyết những vấn đề bức
xúc nhất, địa bàn trọng điểm nhất. Thiếu giải pháp cụ thể giữa việc thực hiện chính
sách giảm nghèo với chính sách an sinh xã hội; việc tổ chức phối hợp chỉ đạo thực
22
hiện giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ và kém hiệu quả; cơ chế phân cấp,
trao quyền cho địa phương, cơ sở và sự tham gia của người dân còn nhiều lúng túng;
công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân còn nhiều hạn chế, chưa khơi
dậy được ý thức tự giác vươn lên của người nghèo; tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà
nước, vào cộng đồng vẫn còn mang tính phổ biến ở nhiều địa phương.
Một số bài học kinh nghiệm về quản lý, tổ chức thực hiện
Thực hiện các nhiệm vụ của chương trình xoá đói giảm nghèo kết hợp và lồng
ghép có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn huyện,
xã, thôn, bản vùng dân tộc, miền núi, cho thấy sự thành công là phải dựa trên cơ sở đề
xuất của nhân dân, có sự xem xét và định hướng của chính quyền sở tại, phát huy dân
chủ cơ sở sẽ tạo thuận lợi trong quản lý điều hành, tổ chức thực hiện chương trình,
chính sách, các dự án. Tạo điều kiện cho đồng bào các dân tộc, miền núi trong quá
trình tổ chức thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ của chương trình.
Quá trình thực hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo cho thấy việc bố trí, sắp
xếp dân cư phải xen, ghép các hộ người Kinh với các hộ dân tộc thiểu số để có điều
kiện học tập kinh nghiệm lẫn nhau, tác động lan toả và chuyển giao kinh nghiệm cho
nhau trong lao động, sản xuất, sinh hoạt,... cùng giúp đỡ nhau vươn lên thoát nghèo.
Nhiệm vụ phối hợp với các cơ quan, ban, ngành liên quan trong thực hiện là
khâu then chốt cho sự thành công của các chương trình. Tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các chương trình, dự án trên từng địa bàn; kịp thời tháo gỡ
những vướng mắc, thiếu sót trong thực hiện. Hằng năm, tổ chức hội nghị sơ kết đánh
giá, rút kinh nghiệm quá trình chỉ đạo, tổ chức thực hiện chương trình xoá đói, giảm
nghèo. Kịp thời khen thưởng để động viên những nhân tố tích cực, đồng thời khắc
phục những yếu kém, tồn tại để tổ chức thực hiện chương trình tốt hơn trong những
năm sau.
Giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách thời gian tới
Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công tác xóa đói giảm nghèo là một trong
những vấn đề cấp bách, nhất là đối với vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền
núi; thực hiện chính sách dân tộc nhất quán với nội dung cơ bản là: "Bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển" nhằm đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế xã hội và nâng cao đời sống cho đồng bào các dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu,
vùng xa. Định hướng phát triển bền vững vùng dân tộc thiểu số và miền núi là: phát
triển kinh tế gắn với giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội.
Cơ chế, chính sách, kế hoạch hằng năm và những năm tiếp theo phải hướng vào
huy động nguồn lực toàn xã hội để thực hiện chương trình giảm nghèo và bảo đảm an
sinh xã hội, ưu tiên nguồn lực cho vùng khó khăn nhất, đối tượng khó khăn nhất, vùng
miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số.
Để đi tới mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững và bảo đảm an sinh xã hội,
cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả các nhóm chính sách hiện hành và luôn có điều
23
chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Đồng thời, tổng kết thực tiễn, đề xuất một số nhóm
chính sách mới cả trong ngắn hạn và lâu dài.
Để tiếp tục phát huy hiệu quả chính sách xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới, cần tiến hành
đồng bộ một số giải pháp sau:
- Một là, tiếp tục triển khai, cụ thể hóa kịp thời những chủ trương, chính sách
hiện có trên cơ sở đánh giá, tổng kết, bổ sung, điều chỉnh những điểm không còn phù
hợp. Tăng cường nguồn lực đầu tư thực hiện các chương trình, dự án đang được triển
khai có hiệu quả.
- Hai là, tập trung đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, trước hết là đầu tư xây dựng
các tuyến giao thông huyết mạch kết nối của vùng, liên vùng với chuyển dịch cơ cấu
sản xuất, tăng mức hỗ trợ vốn, khoa học kỹ thuật đối với vùng dân tộc thiểu số gắn với
việc giải quyết vấn đề nhà ở, đất ở, đất canh tác. Quy hoạch bố trí lại dân cư ở những
vùng đặc biệt khó khăn.
- Ba là, phát triển nguồn nhân lực, giáo dục, nâng cao dân trí cho đồng bào.
Triển khai công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là người dân tộc
thiểu số; gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm tại chỗ sao cho phù hợp với từng đối
tượng, nhu cầu chuyển dịch cơ cấu của từng địa phương, từng vùng.
- Bốn là, có chính sách ưu đãi, khuyến khích nông dân phát triển kinh tế hộ gia
đình và kinh tế trang trại, phát triển công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp
truyền thống. Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hình thành các vùng
chuyên canh. Có chính sách tiêu thụ với giá cả hàng hóa, nông sản ổn định cho đồng
bào vùng dân tộc thiểu số.
- Năm là, đổi mới việc chuyển giao kỹ thuật khuyến nông, khuyến lâm đa dạng
cho đồng bào, phù hợp với khả năng tiếp thu của từng nhóm hộ; đẩy mạnh áp dụng
khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vốn cho đồng bào. Đổi mới một số quy định về chính sách
cho vay vốn của ngân hàng; xây dựng cơ chế cho vay ưu đãi đối với đồng bào dân tộc
thiểu số.
3.3 Các dự án xóa đói giảm nghèo
a) Dự án 1: Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các huyện nghèo, các xã đặc biệt
khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo
- Tiểu dự án 1: Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các huyện nghèo
+ Mục tiêu: Tăng cường cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sản xuất, kinh
doanh và dân sinh ở các huyện nghèo, thực hiện mục tiêu theo Nghị quyết 30a đến
năm 2015; tăng cường năng lực cho người dân và cộng đồng để phát huy hiệu quả các
công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu được đầu tư, từng bước phát huy lợi thế về địa lý,
khai thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên.
+ Đối tượng: Các huyện nghèo.
24
+ Nhiệm vụ chủ yếu:
Hoàn thiện đường giao thông từ huyện đến trụ sở Ủy ban nhân dân các xã và hệ
thống giao thông trên địa bàn xã;
Hoàn thiện hệ thống các công trình bảo đảm cung cấp điện phục vụ sinh hoạt và
sản xuất, kinh doanh trên địa bàn xã;
Hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ nhu cầu về hoạt động văn hóa trên
địa bàn xã gồm: Trạm chuyển tiếp phát thanh xã; nhà văn hóa xã, thôn, bản;
Hoàn thiện hệ thống các công trình để bảo đảm chuẩn hóa về y tế trên địa bàn
huyện nghèo, xã nghèo;
Hoàn thiện hệ thống các công trình để bảo đảm chuẩn hóa về giáo dục trên địa
bàn huyện nghèo, xã nghèo;
Cải tạo, xây mới hệ thống thủy lợi trên địa bàn huyện nghèo, xã nghèo;
Đầu tư trung tâm dịch vụ tổng hợp về nông, lâm, ngư nghiệp trên địa bàn huyện
nghèo;
Đầu tư cơ sở dạy nghề tổng hợp (bao gồm cả nhà ở cho học viên) ở các huyện
nghèo;
Duy tu, bảo dưỡng các công trình hạ tầng cơ sở các huyện nghèo.
+ Phân công thực hiện: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp
với các Bộ, ngành liên quan chỉ đạo tổ chức thực hiện Dự án.
- Tiểu dự án 2: Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi
ngang ven biển và hải đảo
+ Mục tiêu: Tăng cường cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất, kinh doanh
và dân sinh ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống của người dân, giảm nghèo
nhanh và bền vững.
+ Đối tượng: Các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo.
+ Nhiệm vụ chủ yếu:
Hoàn thiện đường giao thông nông thôn phục vụ sản xuất, kinh doanh và dân
sinh;
Hoàn thiện hệ thống các công trình bảo đảm cung cấp điện phục vụ sinh hoạt và
sản xuất, kinh doanh;
Hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ nhu cầu về hoạt động văn hóa, thể
thao trên địa bàn xã;
Đầu tư chuẩn hóa trạm y tế xã;
Hoàn thiện hệ thống các công trình để bảo đảm chuẩn hóa về giáo dục;
25