MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THỦY LỢI
CHỐNG XÓI MÒN, BẢO VỆ ĐẤT VÀ TĂNG NGUỒN SINH THỦY
CHO MỘT SỐ HUYỆN VÙNG CAO THUỘC LƯU VỰC SÔNG MÃ
Trần Minh Chính , Hoàng Thái Đại
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong gần nửa thế kỷ qua, độ che phủ của rừng ở Việt Nam giảm từ 48% xuống
23,6%, thậm chí có nơi chỉ còn dưới 10%. Những hậu quả của chiến tranh cùng với áp
lực về sinh kế, về phát triển kinh tế xã hội dẫn đến việc khai thác, sử dụng đất không hợp
lý. Nạn chặt phá rừng bừa bãi, đốt nương làm rẫy, canh tác không hợp lý trên đất dốc đã
tác động không nhỏ đến tài nguyên rừng, tài nguyên đất và nước. Độ phì nhiêu của nhiều
vùng đất dốc đã bị suy thoái nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của
nhân dân.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc quản lý đất dốc bền vững, trong những
năm qua tỉnh Thanh Hóa đã triển khai và thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính
sách, các chương trình, dự án về phát triển lâm nghiệp (đưa độ che phủ của rừng từ
36,5% năm 1999 lên 45,1% năm 2007), góp phần quan trọng trong bảo vệ môi trường
sinh thái, phát triển kinh tế xã hội nhằm hạn chế xói mòn, rửa trôi đất, điều tiết nguồn
nước phục vụ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân.
Công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên, quyết định sự phát triển kinh tế – xã hội
của đất nước có bền vững hay không. Nhiều biện pháp tổng hợp (biện pháp sinh học, biện
pháp nông nghiệp kết hợp với biện pháp công trình) đã được nghiên cứu, ứng dụng có
hiệu quả trên các vùng đất dốc, nâng cao năng suất, chất lượng của nông sản, bảo vệ và
nâng cao độ phì nhiêu của đất ở nước ta. Các công trình nghiên cứu đã đề xuất được
nhiều giải pháp quản lý bền vững đất dốc. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã
hội của các lưu vực, các vùng đất là khác nhau nên việc tiến hành nghiên cứu điển hình
về các giải pháp tổng hợp quản lý đất dốc là công việc rất cần thiết. Trong khuôn khổ thời
gian có hạn, chúng tôi đã tiến hành khảo sát các mô hình kết hợp gồm nông nghiệp, lâm
nghiệp và thủy lợi trên các huyện vùng cao của lưu vực sông Mã thuộc tỉnh Thanh Hóa
nhằm tổng kết thực tiễn, đề xuất một số biện pháp chống xói mòn, bảo vệ đất, tăng nguồn
sinh thủy phù hợp với điều kiện cụ thể của lưu vực sông Mã.
II. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu tổng quan về các biện pháp chống xói mòn, bảo vệ đất và canh tác
trên đất dốc;
Nghiên cứu các biện pháp, mô hình canh tác bảo vệ đất đang được áp dụng tại địa
bàn nghiên cứu;
Nghiên cứu đề xuất một số biện pháp nông, lâm nghiệp và thủy lợi nhằm tăng
nguồn sinh thủy, bảo vệ đất dốc, phù hợp với các huyện vùng cao thuộc lưu vực sông Mã.
1
2
Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam
Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội
2.2.Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm:
- Phương pháp kế thừa: kế thừa các thông tin, các công trình nghiên cứu đã có từ
trước đến thời điểm tiến hành nghiên cứu này
- Phương pháp khảo sát, điều tra thực địa: tiến hành khảo sát, điều tra thực địa để
thu thập các thông tin cần thiết, phục vụ cho việc đánh giá các biện pháp bảo vệ
đất, các mô hình canh tác có tác dụng bảo vệ đất, chống xói mòn, tăng nguồn
sinh thủy.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Giới thiệu vùng nghiên cứu
Vùng nghiên cứu thuộc địa bàn các huyện nằm trong lưu vực hệ thống sông Mã
và sông Chu ở trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Lưu vực của hệ thống sông Mã ở trong địa bàn tỉnh Thanh Hóa nằm trải dài trên
17 huyện và thành phố, có tổng diện tích tự nhiên là 7.077 km2 và có 2.647.232 người,
bao gồm các huyện: Mường Lát, Quan Hóa, Bá Thước, Thường Xuân, Ngọc Lặc, Cẩm
Thủy, Thạch Thành, Vĩnh Lộc, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Thiệu Hóa, Yên Định, Quảng
Xương, Triệu Sơn, Thọ Xuân, thành phố Thanh Hóa. Trong khuôn khổ nghiên cứu điển
hình này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu tại các huyện miền núi, là: Mường Lát, Quan
Hóa, Bá Thước, Thường Xuân, Ngọc Lặc, Cẩm Thủy và Thạch Thành. Với tổng diện tích
tự nhiên 5.174 km2 chiếm 46% diện tích toàn tỉnh và chiếm 73% diện tích lưu vực hệ
thống sông Mã. Dân số của 7 huyện là 673.570 người chiếm 18% dân số toàn tỉnh. Mật
độ dân cư trung bình là 160 người/km2, đông nhất ở huyện Ngọc Lặc với 293 người/km2,
và thưa nhất là huyện Mường Lát 41 người/km2.
Hình 1. Rừng trồng đầu nguồn sông Mã
3.2. Các biện pháp chống xói mòn, bảo vệ đất dốc
Kết quả nghiên cứu tổng quan về các biện pháp chống xói mòn, bảo vệ đất dốc có
thể được tóm tắt dưới đây.
Biện pháp nông nghiệp chống xói mòn, bảo vệ đất
Biện pháp nông nghiệp chống xói mòn là biện pháp phi công trình để giữ đất, giữ
nước bằng cách luôn duy trì một lớp phủ thực vật trên mặt đất với mục đích cải tạo và
phát triển lớp thực vật trên mặt đất, cải tạo kỹ thuật cày bừa, đánh luống, trồng tỉa để mặt
đất không bị hạt mưa trực tiếp xung kích và không để nước chảy quá mạnh gây xói mòn
mặt đất. Những kỹ thuật cụ thể là: Canh tác theo chiều ngang của hướng dốc; Cày sâu;
Trồng dày hợp lý; Trồng dày thành hàng rào; Dùng vật liệu che phủ mặt đất; Trồng xen
băng; Xen canh gối vụ; Luân canh hợp lý...
Chống xói mòn bằng biện pháp lâm nghiệp
Trồng và bảo vệ rừng là biện pháp tích cực chống xói mòn. Các kết quả nghiên
cứu thực nghiệm cho thấy khoảng 13 - 14% lượng nước mưa đọng lại trên thân, cành, lá
cây, 3 - 10% bị bốc hơi ở mặt đất, đất rừng và 50 - 80% được ngấm xuống đất. Nước
ngấm xuống đất, một phần được giữ lại trong đất, một phần ngấm xuống mạch nước.
Như vậy trồng rừng giữ được nước, giảm bớt lượng dòng chảy mặt, giảm lưu tốc dòng
chảy trên mặt đất, chống được xói mòn, tạo nguồn sinh thủy dần dần cho sông suối và
nước ngầm, chống được lũ lụt, hạn hán cho cả miền núi và đồng bằng, cải tạo được khí
hậu, có lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp. Trồng và bảo vệ rừng cần thực hiện ở
nhiều nơi: Trồng và bảo vệ rừng ở chỏm đồi núi cao; Trồng và bảo vệ rừng trên sườn
dốc lớn; Trồng và bảo vệ rừng đầu nguồn…
Chống xói mòn bằng biện pháp công trình
Ngoài biện pháp nông, lâm nghiệp chống xói mòn đất mang lại hiệu quả kinh tế
cho việc khai thác sử dụng đất, các công trình thủy lợi có vai trò tích cực chống xói mòn,
bảo vệ đất và nước trong phát triển kinh tế ở miền núi. Các công trình thủy lợi có tác
dụng điều tiết dòng chảy mặt, làm giảm hệ số dòng chảy mặt, tăng lượng nước thấm vào
đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, góp phần nâng cao độ ẩm của đất khô kiệt trên sườn dốc, cải
tạo đất. Những công trình thủy lợi chống xói mòn ở miền núi rất đa dạng: Làm bờ ngăn
dòng; Ruộng bậc thang; Đào hố vẩy cá, các hố bẫy đất; Tạo ra những vật chắn dòng;
tùy điều kiện từng vùng mà lựa chọn sử dụng loại hình thích hợp.
3.3. Các mô hình chống xói mòn, bảo vệ đất nông lâm nghiệp đang được áp dụng
Đất nông nghiệp: Diện tích đất nông nghiệp tại 7 huyện miền núi 69.093 ha, bao
gồm: Nương rẫy, vườn đồi, ruộng bậc thang.
Đất rừng, đất lâm nghiệp: Diện tích tự nhiên của 7 huyện miền núi thuộc lưu vực
sông Mã là 517.386,67 ha trong đó: diện tích rừng và đất lâm nghiệp 364.073,58 ha (Diện
tích có rừng 298.917,55 ha, đất trống 65.156,03 ha). Rừng trong khu vực chiếm 66% diện
tích đất sản xuất (chiếm 57,7 % diện tích đất tự nhiên). Đây là diện tích rừng che phủ lớn
so với nhiều vùng trong cả nước, diện tích đất trống chiếm 14,3%, diện tích đất sản xuất
nông nghiệp chỉ chiếm 19,7%. Nhưng diện tích đất nông nghiệp thấp là nguy cơ phá
rừng làm nương rẫy luôn tiềm ẩn để đảm bảo an ninh về lương thực.
Thanh Hóa là tỉnh sớm có nhiều chính sách phát triển kinh tế vùng đồi. Nhờ sự hỗ
trợ của các chương trình đầu tư của Trung ương về phát triển kinh tế lâm nghiệp như 135,
328, 661…. Tỉnh đã đầu tư bảo vệ được diện tích rừng hiện có, tạo rừng mới 179.333 ha,
đưa diện tích có rừng toàn tỉnh tăng lên từ 331.782 ha(1990) lên 551.785 ha (2007), nâng
độ che phủ rừng từ 29,8% (1990) lên 45,1% (2007).
Các mô hình trồng rừng được thực hiện theo phương thức nông lâm kết hợp “Lấy
ngắn nuôi dài”. Trong 3 năm đầu, rừng mới trồng nên chưa khép tán thì người dân trồng
xen cây lương thực ngắn ngày (ngô, sắn, lạc, đậu, cây cho củ…) hoặc cây ăn quả, chè,
cây thuốc….phương thức thâm canh theo băng. Băng (cây) chắn nước ngang dốc, hoặc
chừa lại băng cây rừng khi phát đốt nương rẫy, vừa cho sản phẩm, vừa làm tăng độ phì
cho đất, chống xói mòn, bảo vệ rừng trồng, sinh trưởng phát triển nhanh (Bá Thước,
Ngọc Lặc, Thạch Thành, Cẩm Thủy, Như Thanh, Như Xuân).
Mô hình trang trại VACR (vườn - ao - chuồng - rừng): Trên diện tích rừng và
đất lâm nghiệp được giao, nhiều hộ gia đình có điều kiện về vốn, lao động đã xây dựng
trang trại theo mô hình VACR (vườn - ao - chuồng - rừng). Đây là mô hình bền vững, có
hiệu quả. Hiện nay có 539 trang trại lâm nghiệp tổng hợp, bằng 15,93% số trang trại toàn
tỉnh (3.384), diện tích các trang trại lâm nghiệp 7.772 ha đất đồi núi có độ dốc từ 20 - 450,
thu hút 2.976 lao động. Điển hình một số trang trại làm ăn hiệu quả là: ông Quách Công
Chiến: xã Điền Trung (Bá Thước), Ông Bùi Đình Kim xã Thành Tân (Thạch Thành).
Mô hình kinh tế tổng hợp vùng gò đồi: Được sự hỗ trợ của Bộ KHCN & MT
(cũ), dự án xây dựng mô hình kinh tế nông lâm kết hợp trên vùng gò đồi xã Cẩm Châu
huyện Cẩm Thủy sau 5 năm thực hiện đã tạo được các mô hình trình diễn về kinh tế tổng
hợp vùng gò đồi gồm cây lâm nghiệp, cây ăn quả, cây nông lâm kết hợp và chăn nuôi để
phát huy tối đa tiềm năng đất đai, mở rộng diện tích có rừng từ 990 ha lên 1.320 ha - đạt
độ che phủ 43%, trong đó có 230 ha cây ăn quả tập trung, góp phần cải tạo môi trường
sinh thái.
Mô hình canh tác bền vững trên đất dốc: Trên địa bàn các huyện miền núi có
các dự án do NGO tài trợ về canh tác bền vững trên đất dốc như dự án phát triển ngành
luồng tỉnh Thanh Hóa do tổ chức nghiên cứu và chuyển giao công nghệ - Gret triển khai.
Cây luồng chủ yếu tập trung ở 11 huyện miền núi phía Tây của tỉnh, đóng vai trò chính
trong thu nhập của nhiều hộ nông dân. Đặc biệt là huyện Quan Hóa có diện tích luồng lớn
nhất tỉnh với 23,5 nghìn ha, chiếm gần 30% diện tích luồng toàn tỉnh, sau đó đến các
huyện Quan Sơn, Mường Lát, Lang Chánh, Ngọc Lặc.
Dự án canh tác bền vững trên đất dốc tại thôn Cốc Cáo, xã Lương Ngoại huyện
Bá Thước do tổ chức Care tài trợ, xây dựng mô hình cây trồng trên đất dốc: trồng xen cây
họ đậu với ngô, trồng các hàng rào xanh theo đường đồng mức là các cây họ đậu (cây cốt
khí..) nhằm giảm thiểu tốc độ dòng chảy gây xói mòn.
3.4 Một số tồn tại trong quản lý đất dốc
- Tiến độ trồng rừng ở một số nơi còn chậm;
- Cơ cấu cây trồng ở một số vùng chưa phù hợp
- Chất lượng rừng trồng thấp, tỷ lệ sống thấp, một số ít diện tích trồng không
thành rừng…
- Hiện tượng phá rừng, chặt cây ăn quả ở diện tích giao cho hộ gia đình để trồng
cây lương thực (ngô, sắn..) đã và đang diễn ra ở một số nơi, như Cẩm Châu (Cẩm
Thủy)…Hiện tại đất trống đồi núi trọc còn nhiều, nếu chậm phủ xanh thì nguy cơ xói
mòn là rất cao.
- Cơ sở hạ tầng, giao thông còn nhiều bất cập, khó khăn trong việc đi lại sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm…
- Trang trại lâm nghiệp phần lớn phát triển theo hướng tự phát, chậm tiếp cận
khoa học kỹ thuật, giống mới, quy mô nhỏ (diện tích bình quân 14,42 ha/trang trại),
chưa có thị trường, hiệu quả chưa cao.
- Trong sản xuất nông nghiệp: Quy hoạch đất nông nghiệp, nương rẫy chưa vận
dụng mối quan hệ hữu cơ giữa yếu tố tự nhiên - con người - xã hội nên cơ cấu cây
trồng ở một số vùng chưa phù hợp, chậm áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật. Do vậy
đã có một số ít một số mô hình thất bại như các mô hình trồng dứa gai, cà phê, sắn,
cây ăn quả.
- Mô hình ruộng bậc thang: Sản xuất lúa trên đất dốc chủ yếu là ruộng bậc thang,
diện tích ít, lại phân bố chủ yếu ở các sườn núi, khe suối, độ dốc lớn, khi có bão lũ dễ
bị sạt lở dất, khi hạn thì thiếu nước, dẫn đến thất thu trong sản xuất, không đảm bảo
an ninh lương thực cho nông dân.
- Diện tích tương đối bằng phẳng của các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa thuộc
lưu vực sông Mã chiếm khoảng 15 - 20% tổng diện tích đất tự nhiên. Trên diện tích
này dù có trình độ thâm canh cao cũng không thể thỏa mãn nhu cầu lương thực ngày
càng tăng của địa phương. Trước tình hình đó một diện tích không nhỏ đất dốc đã
được đưa vào trồng cây lương thực ngắn ngày. Đặc biệt, thời kỳ những năm của thập
kỷ 80, trước sức ép gia tăng dân số và tình trạng thiếu lương thực, rừng đã bị chặt phá
để chuyển sang trồng lúa nương, ngô, khoai, sắn. Cây lương thực ngắn ngày được
trồng nhiều ở phần lưng chừng đồi, nơi độ dốc phổ biến từ 100 - 150. Cá biệt có
những nơi, lúa nương và sắn được trồng ở nơi độ dốc lớn hơn 250.
- Nguồn nước thiếu hụt nghiêm trọng, nhất là mùa khô. Do vậy hàng năm đất
canh tác thường chỉ được sử dụng trong vòng từ 5-6 tháng, nhiều nơi chỉ từ 3-4 tháng,
thời gian còn lại để đất hoang. Mưa lớn và phân bố không đều trong năm gây nên
hiện tượng xói mòn diễn ra mãnh liệt, nhiều nơi tầng đất mặt bị bóc đi, độ phì nhiêu
của đất suy giảm nhiều. Một yếu tố nữa là nguồn nước thiếu hụt nghiêm trọng vào
mùa khô. Chính những yếu tố này đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân
dân trong vùng.
Vì vậy tăng độ che phủ cho đất là yêu cầu quan trọng nhất cần khắc phục để có
thể sử dụng đất dốc hiệu quả hơn, bằng cách có thể trồng xen thành băng những cây trồng
hàng năm với cây trồng lâu năm; thiết kế cơ cấu luân phiên giữa các băng; trồng xen
trồng gối tạo được tán che tối đa có nhiều tầng. Với sự phân bố không gian, trên mặt đất
là lớp thảm thực vât, tầng trên là lớp thực vật sống nhiều lớp, nhiều tầng, sẽ hạn chế được
xung lực của các hạt mưa, sự rửa trôi và xói mòn mặt đất trong mùa mưa. Giữ ẩm, hạn
chế sự bốc hơi và khô hạn cho đất trong mùa khô.
Để khắc phục tình trạng thiếu nước, nhưng lại thiếu vốn xây dựng các công trình
tưới, việc áp dụng rộng rãi phương thức canh tác nông - lâm kết hợp để tạo tán che nhiều
tầng tán sẽ khiến giảm tốc hạt mưa/dòng chảy triệt để, giữ được nước trong đất, giúp cho
cây trồng có thể sinh trưởng tốt quanh năm. Đây là chìa khoá đảm bảo cho sự phát triển
nông nghiệp ổn định, hạn chế phá rừng, đốt nương làm rẫy và sử dụng đất được lâu bền.
Hình 2. Mô hình nông – lâm – thủy
Hình 3-4. Mô hình trồng xen cây lâm nghiệp với cây nông nghiệp
(cây họ đậu)
Hệ sinh thái nông - lâm hợp lý là bố trí hệ thống cây trồng xen kẽ giữa cây dài
ngày và cây ngắn ngày, kết hợp với cây lâm nghiệp đảm bảo có tán che mặt đất quanh
năm đạt 20-25% ở vùng thấp, 40-50% ở vùng giữa và 60-65% ở vùng cao. Đây là biện
phát hữu hiệu nhất, đã và đang được các nhà khoa học nghiên cứu và nông dân ứng dụng.
3.5. Đề xuất một số biện pháp chống xói mòn, bảo vệ đất dốc
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa,
và từ kết quả khảo sát các biện pháp, các mô hình canh tác bảo vệ đất đã được áp dụng
trên địa bàn nghiên cứu, chúng tôi đề xuất một số biện pháp, mô hình canh tác bảo vệ đất,
chống xói mòn để nâng cao khả năng sinh thủy của các vùng đất dốc tỉnh Thanh Hóa như
sau:
3.5.1. Về các biện pháp lâm nghiệp
Rừng được trồng tại đầu nguồn, dọc theo lưu vực sông, trên đỉnh đồi và nơi có độ
dốc lớn trên 250.
Xác định cơ cấu chức năng 3 loại rừng (đặc dụng, phòng hộ, sản xuất), đặc biệt
rừng phòng hộ có chức năng phòng hộ đầu nguồn, bảo vệ nguồn nước cho các hồ đập
thủy lợi lớn…cần xác định rõ ranh giới, diện tích, nhằm phát huy tác dụng phòng hộ bảo
vệ môi trường sinh thái, giảm thiểu thiên tai, chống sa mạc hóa nhưng không gây ra các
xung đột không đáng có. Thực hiện bảo vệ cho được diện tích rừng hiện có, khoanh nuôi
tái sinh tự nhiên, tăng tiến độ trồng rừng mới, nhanh chóng nâng độ che phủ rừng, phát
huy chức năng bảo vệ môi trường, phòng hộ thiên tai. Cần tiếp tục chính sách giao rừng
cho hộ gia đình hoặc cộng đồng thôn, bản có truyền thống bảo vệ rừng, góp phần giải
quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người làm nghề rừng, sống bằng rừng
để có thể làm giàu lên từ rừng một cách chính đáng. Trồng rừng, xác định cơ cấu, loài
cây trồng đa tác dụng, vừa có tác dụng phòng hộ vừa có giá trị kinh tế, phù hợp với sinh
thái 3 loại rừng (đặc dụng, phòng hộ, sản xuất). Cụ thể:
Rừng đặc dụng: nên trồng các loài cây bản địa quý hiếm đang có nguy cơ diệt
chủng. Cần coi trọng và giải pháp bảo tồn quỹ gen: Pơ mu, Sa mu dầu, Sến mật Tam qui,
Lim xanh, Sấu, Trám, Gụ, Giổi…
Rừng phòng hộ: nên trồng các loài cây có tuổi thọ cao, thường sinh sống lâu năm,
phù hợp với đất đai, khí hậu, điều kiện sinh thái như: Lát hoa, Dẻ, Re, Lim, Xanh, Giổi,
Lim xẹt, Trám trắng, Trám đen, Chò chỉ, Quế, luồng…kết hợp cây kinh tế như: Các loại
keo, Bạch đàn, Cao su, cây ăn quả,…mang lại kinh tế cho chủ rừng.
Rừng sản xuất: Thực hiện trồng thâm canh, nhằm tăng giá trị kinh tế trên diện tích
rừng; trồng rừng theo quy hoạch vùng nguyên liệu gắn với nhà máy chế biến lâm sản
như: Cây Luồng, Keo tai tượng, Keo lá tràm, Keo lai, Quế, Trám…Trồng xen với cây ăn
quả các loại. Trước mắt ưu tiên trồng rừng vùng nguyên liệu bột và giấy.
Trồng 3 năm đầu rừng mới trồng chưa khép tán, trồng xen cây lương thực (ngô,
khoai, sắn, lạc, đậu..) có tác dụng chống xói mòn, cải tạo đất, tăng thu nhập cho người
dân.
3.5.2. Về các biện pháp nông nghiệp
Các huyện vùng cao đất nông nghiệp ít nên canh tác chủ yếu trên nương rẫy,
ruộng bậc thang, vườn đồi và đất lâm nghiệp được giao theo NĐ 02/CP.
Quy hoạch sử dụng nương rẫy, gắn với sử dụng đất lâm nghiệp;
Thực hiện “dồn điền, đổi thửa” tạo thuận lợi cho canh tác trên đất dốc theo mô
hình liên hoàn từ dưới lên theo đường đồng mức: Ruộng bậc thang - vườn đồi - nương
rẫy - rừng. Đây là mô hình canh tác bền vững, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, giống
và kỹ thuật canh tác mới làm thay đổi tập quán canh tác lạc hậu, tạo ra năng suất, tăng thu
nhập, nâng cao mức sống, giảm đốt phá rừng làm nương rẫy;
Xây dựng ruộng bậc thang: Tại nơi có nguồn nước tưới sẽ trồng lúa nước. Các
huyện có kinh nghiệm trồng và mở rộng diện tích lúa lai gồm: Thạch Thành, Cẩm Thủy,
Bá Thước, Như Thanh, Như Xuân, Ngọc Lặc...đã đạt năng suất cao hơn lúa thuần từ 25 40% (năng suất lúa lai từ 50 - 60 tạ/ha). Tập đoàn lúa lai trong vụ Xuân gồm: Sán ưu 63,
nhị ưu 838, D ưu 527 có thời gian sinh trưởng từ 110 - 140 ngày. Các giống hướng quang
gieo cấy trong vụ mùa như: Bắc ưu 64, Bắc ưu 903, Bắc ưu 253. Trong vụ mùa thì chủ
yếu sử dụng lúa lai 2 dòng có thời gian sinh trưởng 100 - 115 ngày.
Hình 5-6. Lúa trồng trên ruộng bậc thang
Xây dựng các hệ thống phòng hộ nhằm chia cắt dòng chảy hạn chế tốc độ chảy
của nước. Bờ dốc của bậc thang phải thoai thoải để giảm xói mòn. Một rãnh nhỏ được
đào ở phía dưới bậc thang. Một bờ đất nhỏ được tạo ra tại mép bậc thang để phòng rửa
trôi đất. Trên bờ đất trồng các loài cây như cỏ hoặc dứa, phía bờ dốc thì trồng các loài
cây đậu (cốt khí, keo dậu). Tại những nơi không có nguồn nước tưới: trồng các cây chịu
hạn như ngô, sắn, mía, cao lương, đậu tương, các loại cây lấy củ khác như khoai môn,
khoai sọ, củ từ…
3.5.3. Các biện pháp canh tác trên đất dốc
Mô hình làm bậc thang kết hợp trồng cây phòng hộ:
Khi đồi có độ dốc thấp (từ 150 - 200): Nếu độ dốc 200 thì bề rộng ruộng bậc thang
nhỏ, khoảng cách hai đường đồng mức từ 1 - 2m. Nếu độ dốc 150 thì bề rộng bậc thang
lớn, khoảng cách hai đường đồng mức 2 - 3m.
Mô hình đào mương đồng mức kết hợp trồng cây phòng hộ:
Khi đồi có độ dốc lớn (200 - 400) nên xây dựng hệ thống chống xói mòn bằng
mương đồng mức kết hợp cây phòng hộ. Đào mương theo đường đồng mức là giữ nước
được lâu hơn và cho phép nước thấm từ từ sâu vào đất giúp tăng độ ẩm cho đồi.
Phía gần bờ mương trồng các loại cây họ đậu (cốt khí, keo dậu), phía trên hàng
cây họ đậu trồng dứa hoặc cỏ (Ghine).
- Với độ dốc vừa 200 - 250, khoảng cách 2 mương là 5-6m
- Với độ dốc cao 250 - 400 khoảng cách hai mương đồng mức là 4 - 5m; Đào
mương theo đường đồng mức kết hợp trồng cây phòng hộ.
Hình 7. Phương pháp thủ công xác định dường đồng mức dùng thước chữ A
Hình 8. Với độ dốc vừa 200 - 250
Hình 9. Với độ dốc cao 250 - 400
Hình 10. Đào mương theo đường đồng
mức kết hợp trồng cây phòng hộ
Mô hình xếp đá kết hợp trồng cây phòng hộ:
Ở những vùng đồi có nhiều đá thì xây dựng hệ thống phòng hộ bằng bờ đá là
thích hợp nhất. Xây dựng bờ đá vừa tăng diện tích trồng cây, vừa hạn chế xói mòn đất.
Dọc theo đường đồng mức, đào vào sườn đồi 50 - 70cm tạo bậc thềm và có bờ dốc ngược
vào phía trong, dùng đá to làm nền móng, các hòn đá có mặt phẳng thì xếp ra ngoài, đá
nhỏ chèn vào giữa. Đồi có độ dốc vừa 200 - 250 khoảng cách các bờ đá là 5 - 6m, đồi có
độ dốc 250 - 400 khoảng cách các bờ đá là 4 - 5m. Trồng các cây họ đậu (keo dậu, cốt khí)
phía dưới cách bờ đá 10cm. Khi chặt để cây cao tới đầu gối và lá rải trên mặt mương.
Trồng các loại cỏ làm thức ăn cho gia súc hoặc dứa ở phía trên bờ đá, giúp ổn định bờ đá.
HÌnh 11-12. Mô hình xếp đá kết hợp trồng cây phòng hộ
Mô hình làm tiểu bậc thang kết hợp trồng cây phòng hộ:
Với độ dốc 200 - 400 có thể làm tiểu bậc thang kết hợp với trồng cây phủ đất,
nhằm giữ được phân bón, thuận lợi cho việc chăm sóc và thu hoạch. Trồng lạc dại hoặc
cỏ ở mép ngoài bậc thang để cố định bậc thang và che phủ đất, khi lạc dại tốt cắt phủ lên
mặt. Sau thu hoạch giữ lại thân cây để che phủ và cải tạo đất.
Mô hình hàng rào xanh:
Đối với đồi có độ dốc >400 biện pháp tốt nhất để giảm xói mòn là xây dựng hàng
rào xanh. Hàng rào xanh trồng theo đường đồng mức, mỗi hàng cách nhau 4 - 5m tùy
theo độ dốc của đồi và cắt tỉa hàng năm (lưu ý chiều cao của hàng rào không vượt quá
đầu gối).
Hình 13. Mô hình làm tiểu bậc thang kết hợp trồng cây
phòng hộ
Hình 14. Mô hình hàng rào xanh
3.5.4. Che phủ cho đất bằng tàn dư thực vật hoặc các vật liệu khác
Để giữ và điều hoà độ ẩm đất, hạn chế xói mòn rửa trôi, sự bốc hơi nước trong
mùa khô, tăng cường hàm lượng hữu cơ cho đất. Có thể phủ trên mặt đất hoặc ủ xung
quanh gốc cây trồng. Thời gian che phủ trước hoặc sau khi gieo trồng phụ thuộc vào từng
nhóm, loại cây cụ thể. Nhóm cây hoà thảo thường che phủ toàn bộ mặt đất. Các loại cây
lâu năm thường ủ xung quanh gốc. Đây là biện pháp dễ làm, rẻ tiền, tiết kiệm được công
lao động làm cỏ.
Vật liệu sử dụng là các tàn dư thực vật như rơm rạ, thân lá ngô, mía, thân lá đậu
đỗ thực phẩm, cỏ dại, cỏ lào, cúc quỳ, các loại đậu đỗ có sinh khối lớn như đậu mèo, đậu
kiếm, đậu nho nhe, lạc dại, các loài cây họ đậu hoang dại, các loại cỏ chăn nuôi sinh khối
lớn như các loài Brachiaria, Panicum, Paspalum, cỏ voi các loại ngũ cốc khác như cao
lương, kê, yến mạnh, đại mạch...Các tấm nhựa, nilon, cỏ lào và rơm, rạ là hai loại vật liệu
cho hiệu quả cao nhất. Lượng phủ 10 tấn/ha là thích hợp và cho năng suất cao nhất, tuy
nhiên trường hợp thiếu vật liệu thì dùng 7tấn/ha cũng có thể chấp nhận được vì hiệu quả
đầu tư cao.
Phủ đất bằng tàn dư thực vật
Hình 15. Thân cây ngô sau thu hoạch được chặt và giữ
nguyên toàn bộ trên nương nhưng không đốt để che phủ đất
Hình 16. Cây lúa nương đựợc phủ
bằng rơm rạ
3.5.5. Các biện pháp thủy lợi
Bên cạnh các biện pháp về sinh học, về canh tác, biện pháp công trình trên đất
dốc là rất cần thiết. Việc kết hợp đồng bộ các biện pháp sinh học, kỹ thuật canh tác và
biện pháp công trình sẽ góp phần tích cực chống xói mòn, bảo vệ và cải tạo đất, giữ nước
và điều hòa nguồn nước cho đất dốc.
Giữ nước ngọt trong bể, trong ao, hồ, khe suối, giếng khơi và trong các tầng đất là
rất quan trọng cho đời sống của sinh vật, con người. Ở miền núi lại càng quan trọng. Nơi
nào có nước quanh năm thì dân định cư, sản xuất phát triển. Trong những năm gần đây,
do rừng đầu nguồn bị tàn phá gây ra hiện tượng mùa mưa thì lũ lụt, mùa khô thì hạn hán.
Do đó muốn giữ được nước cần có các giải pháp về thủy lợi như sau:
Xây dựng ao núi kết hợp hố vẩy cá:
Ao núi là loại công trình tập trung dòng chảy tự do gây xói lở đất và xói lở các
công trình khác. Ao núi có tác dụng trữ nước chống hạn và cung cấp nước cho sản xuất
và đời sống. Tác dụng quan trọng là chắn dòng lũ trên khe suối làm yếu sức phá hoại của
nước. Ao núi nên đặt ở nơi thấp nhất nhưng cao hơn ruộng để đảm bảo dẫn nước tự chảy
vào ruộng. Nên đào nơi có nền đất tốt (đất sét), đào cạnh khu dân cư và đường giao thông
để tiện quản lý. Có thể đào ao núi ở đầu hoặc chân khe kết hợp làm hố vẩy cá, trên sườn
dốc trồng cây chống xói mòn giữ ẩm cho đất. Hố vẩy cá có dung tích trữ nước nhỏ nên
phải kết hợp với ao núi.
Hố vẩy cá được bố trí men theo đường đồng mức, trên các hố vẩy cá người ta kết
hợp trồng cây gây rừng chống xói mòn. Hố vẩy cá
có thể được làm ở nơi có độ dốc trung bình >20
%, địa hình không đồng đều, đất tơi xốp nhưng
không gây nguy hiểm sạt lở. Hố vẩy cá không phù
hợp ở nơi đất nặng và mực nước ngầm nông.
Phai đập:
Phai đập là loại công trình sử dụng phổ
biến ở miền núi để trữ nước và chống xói mòn.
Phai đập có tác dụng ngăn nước làm chậm dòng chảy, ngăn đất cát, chống xói lở lòng khe
và bờ. Trên phai đập, khi bị bồi lắng, lấp bằng thì biến thành ruộng bậc thang thực hiện
canh tác nông nghiệp. Đối với phai đập chưa bị bồi lắng thì trữ nước tưới và cấp nước
sinh hoạt. Có nhiều loại phai đập: Phai đập đất, đá, gỗ, rọ đá, bê tông cốt thép. Độ cao
của phai đập cũng khác nhau: Phai bằng bó cành cây cao 1m; Phai đập bằng đá xếp cao
1,5m; Phai đập bằng đá xây vữa cao 3,5m; Phai đập
Hình 17. Xây dựng ao núi
đất cao 0,5 m.
Đập bằng đất: Loại này thường được làm ở
các khe núi, khe suối hay sườn núi thưa cây đã bị xói lở thành khe rãnh. Đập có tác dụng
ngăn nước mưa, đất cát, phòng xói lở, ổn định khe rãnh tạo điều kiện thuận lợi cho cây
cối sinh trưởng. Loại đập này có thể sử dụng vật liệu tại chỗ, chi phí xây dựng thấp.
Đập đất loại nhỏ: Đập đất loại nhỏ là những đập cao không quá 1m, đỉnh rộng 0,3
- 0,5m, mái dốc thượng lưu 1:0,2 - 1:0,5, mái hạ lưu tùy theo sườn núi, nói chung là 1:1.
Cửa tràn có thể bố trí ở giữa đập hoặc đầu đập (chỗ có đất rắn chắc). Mái hạ lưu và ven
đỉnh đập phải trồng cỏ để bảo vệ đập, chống xói mòn.
Đập đất loại vừa: Đập đất loại vừa là những đập làm ở khe rãnh sâu, có tác dụng
làm chậm tốc độ dòng chảy, ngăn đất cát, giữ cho khe rãnh khỏi bị phá hoại. Loại đập
này thường cao từ 1 đến 5m. Ở thượng lưu có trữ nước, xem như một hồ chứa nhỏ, nước
chứa có thể làm nguồn tưới nước ruộng, sau khi đập bị lấp đầy có thể làm đất trồng trọt.
Đập bằng đá: Căn cứ theo phương pháp xây có thể phân làm 3 loại:
Đập đá xây khan: Loại đập này không cao lắm, thường xây dựng ở lòng khe bằng
đất. Hai đầu đập cần cắm vào bờ 0,5m. Móng đập cần sâu 0,5m, rộng 1m. Trên mặt đập
cần có cửa tràn nước. Để khe khỏi bị xói lở, phía hạ lưu nên xây thành từng cấp và nên
dùng đá to, tương đối phẳng xếp thành từng cấp. Các lớp gối lên nhau, ít nhất là 1/3 viên
đá, xếp so le nhau. Mái hạ lưu thường là 1:1. Nếu điều kiện khai thác đá khó khăn thì mái
có thể dốc hơn. Ở phía hạ lưu đập cần có sân sau bảo vệ và đổ đá rời chống xói. Trong
thân đập có thể làm bằng đá nhỏ, trên đỉnh đập có thể dùng đá hộc loại lớn. Sau khi xây
đập xong, nên thu dọn tất cả đá dăm hoặc sỏi thừa đổ xuống phía thượng lưu đập, làm
thành kiểu dốc nghiêng để bảo vệ đập.
Đập đá xây hồ: Đập đá xây hồ thích hợp trên nền đá. Nếu lòng khe là đất thì phải
cắm sâu vào hai bờ 0,5m hoặc cho thêm đá hộc lớn để bảo vệ bờ. Nếu khe núi là đá, có
thể dùng vữa xi măng gắn chặt đầu đập vào thành đá.
Đập rọ đá: Đập rọ đá thường làm ở khe đất bùn, phù sa tương đối sâu, khó dọn
móng. Đập có tính chất bán vĩnh cửu, thường ở những nơi có nhiều tre và đá cuội. Đập
cao 1,5 - 2 m là vừa, đỉnh rộng tùy theo dòng nước lớn hay nhỏ mà định. Phía sau đập
đóng một hàng cọc cách nhau 0,5 - 0,8m. Để tránh hiện tượng nước thấm sâu qua thân
đập, phía thượng lưu nên phủ một lớp đất sét chống thấm. Loại đập này có ưu điểm là dễ
làm, ít tốn kém, sử dụng được vật liệu địa phương, làm nhanh nhưng có hạn chế là không
được bền và mất nhiều công bảo dưỡng.
Đập bằng bó cành cây: Đập bằng bó cành cây thường làm ở các suối, khe có độ
dốc nhỏ và lưu lượng nước lũ không lớn. Nó có ưu điểm là dễ làm và làm nhanh, ít tốn
kém, nhưng có hạn chế là dễ mục, mau hỏng. Cách làm: Lấy cành tre hoặc cành cây
thẳng, bó thành bó tròn, đường kính 0,4 - 0,5m, cứ 0,5m buộc một dây. Giữa các bó cây
với nhau có một lớp cát sỏi hoặc đất nèn chặt lại, mỗi bó đóng độ 2-3 cọc gỗ, mỗi cọc
cách nhau 1m, đóng sâu xuống đất độ 1-1,5m. Hai đầu đập gối chắc vào bờ 0,5 - 1m.
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Trong khuôn khổ thời gian có hạn, các tác giả đã tiến hành điều tra thực địa, khảo
sát địa bàn nghiên cứu, tìm hiểu về các biện pháp kỹ thuật quản lý đất dốc, các mô hình
canh tác trên đất dốc hiện đang được áp dụng phổ biến tại 7 huyện miền núi thuộc lưu
vực sông Mã. Trên cơ sở tổng kết các kết quả nghiên cứu các mô hình canh tác bảo vệ đất
của các nước kết hợp với điều kiện cụ thể của địa bàn nghiên cứu, các tác giả đã đề xuất
một số giải pháp công trình và phi công trình về canh tác bảo vệ đất, chống xói mòn, tăng
nguồn sinh thủy cho các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa thuộc lưu vực sông Mã. Vì địa
bàn nghiên cứu rộng lớn, điều kiện đi lại khó khăn nên kết quả nghiên cứu chỉ là bước
đầu và còn thiên về định tính. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, đất nước ta trong thời kỳ
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, cần áp dụng cách tiếp cận hệ sinh thái để quản lý
bền vững đất dốc. Cần tiếp tục có những nghiên cứu điển hình cho từng điều kiện địa
hình, nguồn nước và các hệ sinh thái cụ thể để có thể đề xuất được các giải pháp phù hợp
cho từng huyện của tỉnh.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Quốc Doanh (1999). Canh tác bền vững trên đất dốc Ngọc Lặc tỉnh Thanh
Hóa, Viện Khoa học KTNN Việt Nam.
2. Nguyễn Viết Khoa, Võ Đại Hải, Nguyễn Đức Thanh (2008). Kỹ thuật canh tác
trên đất dốc, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
3. Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm (1994). Cơ sở khoa học kỹ thuật về canh tác đất
dốc, Tài liệu hội thảo khoa học “ Sử dụng đất và bảo vệ rừng”.
4. Nguyễn Thế Quảng và cộng sự (2010). Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ “Nghiên cứu đề xuất mô hình phát triển tổng hợp quản lý tài nguyên
nước lưu vực sông Mã”.
5. Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm (1999). Đất đồi núi Việt Nam thoái hóa và phục hồi,
NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
6. Shepherd, Gill. (2004). Tiếp cận Hệ sinh thái: Năm bước để thực hiện. IUCN,
Gland, Switzerland and Cambridge, UK.
7. Nguyễn Văn Trương (1992), Tiếp cận vấn đề sinh thái ở Việt Nam, Viện Kinh tế
sinh thái, Hà Nội.
8. Trần Đức Viên, Phạm Chí Thành (1996). Nông nghiệp trên đất dốc thách thức và
tiềm năng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
Summary
Some agroforestry, water management measures to protect soils from soil erosion,
encrease water resources for some mountainous districts of Ma river basin
Authors: Tran Van Chinh, Hoang Thai Dai
The article presented some results obtained from survey of farming systems on slope land
in the mountainous districts of Ma river basin. The farming measures applied, the lessons
learned from successful models were highlighted. Some measures of agroforestry,
hydraulic works are proposed aimed at protecting soil from soil erosion, increasing water
resources, soil moisture in the studied areas.
Key words: farming system, soil erosion, soil protection, water resources.