Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Phân tích Viếng lăng bác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.82 KB, 7 trang )

Viếng lăng bác
I.Tác giả và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
1.Tác giả
- Viễn Phơng tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, sinh năm 198, quê ở tỉnh An
Giang, tham gia cách mạng từ năm 1915. Trong kháng chiến chống Pháp và chống
Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có công xây dựng nền
văn học cách mạng miền Nam từ những ngày đầu.
- Thơ Viễn Phơng thờng nhỏ nhẹ, giàu tình cảm và chất mơ mộng ngay trong
hoàn cảnh chiến đấu ác liệt của chiến trờng.
2.Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm: Năm 1976 sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ
kết thúc thắng lợi, đất nớc thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh
thành, Viễn Phơng ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác. Bài thơ Viếng lăng Bác
đợc sáng tác trong dịp đó và in trong tập thơ Nh mây mùa xuân ( 1978 )
II.Phân tích bài thơ
1.Cảm hứng bao trùm bài thơ và mạch vận động của tâm trạng nhà thơ
- Cảm hứng bao trùm trong bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành
kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi đau xót khi tác giả từ miền Nam ra viếng
lăng Bác. Cảm hứng ấy đã chi phối giọng điệu của bài thơ. Đó là giọng thành kính,
trang nghiêm phù hợp với không khí thiêng liêng ở lăng, nơi vị lãnh tụ yên nghỉ.
Cùng với giọng suy t, trầm lắng là nỗi đau xót lẫn niềm tự hào.
- Mạch vận động của cảm xúc đi theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác. Mở
đầu là cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng, tập trung ở ấn tợng đậm nét là hình ảnh
hàng tre bên lăng gợi hình ảnh về quê hơng đất nớc. Tiếp đó là xúc cảm trớc hình
ảnh dòng ngời nh bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác. Xúc cảm và suy ngẫm về
Bác đợc gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tợng: mặt trời, vầng trăng, trời
xanh. Cuối cùng là niềm mong ớc thiết tha khi sắp phải trở về quê hơng miền Nam,
muốn tấm lòng mình vẫ đợc mãi mãi bên Ngời.
2.Tâm trạng và cảm xúc của nhà thơ
a.Khổ thơ đầu: Hình ảnh đầu tiên quanh lăng Bác là hàng tre
- Câu thơ Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác chỉ gọn nh một thông báo,
nhng lại gợi ra tâm trạng xúc động của một ngời từ chiến trờng miền Nam sau bao


năm mong mỏi bây giờ mới đợc ra viếng Bác.


- Hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy đợc và là ấn tợng đậm nét về cảnh quan
bên lăng Bác là hàng tre. Thì ra đến đây, nhà thơ gặp lại một hình ảnh hết sức thân
thuộc của làng quê, của đất nớc Việt Nam, đã thành một biểu tợng của dân tộc
( Bão táp ma sa đứng thẳng hàng ).
b.Khổ thơ thứ hai đợc tạo nên từ hai cặp câu với những hình ảnh thực và hình ảnh
ẩn dụ sóng đôi:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
- Câu thơ trên là một hình ảnh thực, câu dới là một hình ảnh ẩn dụ vừa nói
lên sự vĩ đại của Bác Hồ ( nh mặt trời) vừa thể hiện sự tôn kính của nhân dân, của
nhà thơ đối với Bác.
- Dòng ngời đi trong thơng nhớ là hình ảnh thực, còn câu sau: Kết tràng
hoa dâng bảy mơi chín mùa xuân là mộ ẩn dụ đẹp và rất sáng tạo của nhà thơ thể
hiện tấm lòng thành kính của nhân dân ta đối với Bác.
c.Khổ thơ thứ ba, nhà thơ diễn tả cảm xúc của mình khi đã vào trong lăng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Mà sao nghe nhói ở trong tim
- Khổ thơ gồm bốn câu bảy chữ cân đối, trang nghiêm, phù hợp với không
khí thiêng liêng và thanh tĩnh ở trong lăng. Không gian và thời gian nh ngng đọng
trớc một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Nhà thơ cảm nhận nh Bác chỉ đang ngủ một
giấc ngủ bình yên. Đó cũng là ấn tợng thực của mọi ngời khi đợc vào lăng thăm
Bác. Hình ảnh vầng trăng là một liên tởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ. Có thể
liên tởng ấy bắt đầu từ ánh sáng rất dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng.
Khi đã xuất hiện thành hình ảnh thơ vầng trăng sáng dịu hiền gợi nghĩ đến tâm
hồn cao đẹp, sáng trong và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Ngời.
- Từ hình ảnh vầng trăng nhà thơ tiếp tục liên tởng đến hình ảnh trời

xanh. Bầu trời xanh là hình ảnh thiên nhiên lớn lao, vĩnh hằng. Nhà thơ Tố Hữu đã
từng viết: Bác sống nh trời đất của ta. Bác ra đi nhng vẫn sống mãi với non sông
đất nớc, nh trời xanh còn mãi. Dù vẫn tin nh thế nhng không thể không đau xót vì
sự ra đi của ngời: Mà sao nghe nhói ở trong tim. Câu thơ biểu hiện cụ thể trực
tiếp và trực tiếp nỗi đau xót trong hình thức của một câu hỏi tu từ.
d.Khổ cuối nhà thơ bày tỏ tâm trạng lu luyến khi sắp phải trở về miền Nam


Mai về miền Nam thơng trào nớc mắt

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
- Mai về miền Nam, nhớ thơng Bác đến trào nớc mắt. Câu thơ có cách diễn
đạt chân thành mộc mạc kiểu Nam Bộ. Ba câu thơ cuối bắt đầu bằng điệp ngữ
muốn làm bày tỏ niềm mong mỏi. Tấm lòng lu luyến của nhà thơ gửi vào trong
niềm mong ớc thiết tha muốn hóa thân vào những cảnh vật bên lăng Bác: muốn làm
con chim hót, muốn làm bông hoa tỏa hơng, và hơn hết là muốn làm cây tre trung
hiếu nhập vào hàng tre bát ngát quanh lăng Bác.
- Hình ảnh hàng tre bên lăng Bác đợc lặp lại ở câu thơ cuối bài, với một nét
nghĩa bổ sung: cây tre trung hiếu. Sự lặp lại nh thế đã tạo cho bài thơ có kết cấu đầu
cuối tơng ứng, làm đậm nét hình ảnh gây ấn tợng sâu sắc và dòng cảm xúc đợc trọn
vẹn.
3.Bài thơ có một giọng điệu vừa trang nghiêm, vừa tha thiết, đau xót tự hào, thể
hiện đúng tâm trạng xúc động khi vào lăng viếng Bác. Giọng điệu ấy đợc tạo nên
bởi nhiều yếu tố: thể thơ, nhịp điệu của các câu thơ, từ ngữ và hình ảnh.
- Thể thơ và nhịp điệu: thể thơ tám chữ, nhng có những dòng thơ 7 hoặc 8
chữ. Cách gieo vần trong từng khổ thơ cũng không cố định, có khi liền, có khi
cách. Nhịp của các khổ thơ nhìn chung là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm,
thành kính, lắng đọng trong tâm trạng nhà thơ. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn,
với điệp từ muốn làm đợc lặp lại ba lần, thể hiện mong ớc tha thiết và nỗi lu
luyến của tác giả.

- Hình ảnh thơ trong bài có nhiều sáng tạo, kết hợp cả hình ảnh thực, hình
ảnh ẩn dụ, biểu tợng. Đặc sắc nhất là hình ảnh ẩn dụ-biểu tợng ( mặt trời trong
lăng, tràng hoa, trời xanh, vầng trăng ) vừa quen thuộc gần gũi với hình ảnh thực,
lại vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.

SANG THU
Bng nhn ra hng i
Ph vo trong giú se
Sng chựng chỡnh qua ngừ
Hỡnh nh thu ó v


Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”
Qua bài thơ trên, ta thấy được những rung động tinh tế của tác giả lúc giao
mùa từ cuối hạ sang đầu thu.
Bài thơ trên được viết theo thể thơ năm chữ, cô động về loại mà ý tình súc
tích. Cả bài thơ là giọng điệu nhẹ nhàng, đôi lúc trầm lắng suy tư. “Sang thu” giúp
người đọc nhận ra những cảm nhận tinh tế của tác giả trước sự chuyển biến của đất
trời từ cuối hạ sang thu, đồng thời cũng gợi lên cho ta một bức tranh giao mùa thật
đẹp.
Bắt đầu bài thơ, tác giả đã đưa ta trở về nơi làng quê thanh bình êm ả ở đồng
bằng Bắc Bộ để cảm nhận được cái không khí của đất trời lúc sang thu:
“ Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se ”
Mùa thu – mùa của ổi chín nên có lẽ vì thế mà “hương ổi” toả ra từ khu vườn
cũng là tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu đang về. Cảm giác bất chợt đến
với nhà thơ được thể hiện khá rõ nét qua từ “bỗng”. Chỉ một từ thôi, tác giả đã diễn
tả được sự đột ngột, bất ngờ nhưng nên thơ trước sự thay đổi của thời tiết lúc giao
mùa. Từ “phả” trong câu thơ thứ hai mới thật độc đáo làm sao! Nó giúp người đọc
liên tưởng đến hương ổi đã quyện vào, trộn lẫn với gió bay đi khắp nơi, làm thơm


ngát cả đất trời. “Gío se” là những làn gió nhẹ mang theo hơi lạnh của mùa thu,
còn được gọi là gió heo may. Như thế, chỉ với hai câu thơ trên, nhà thơ Hữu Thỉnh
đã đưa ta đến những không gian, vườn ngõ đầy hương vị ngọt lành của ổi chín cây:
“…Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về ”
Sương thu đã được nhà thơ nhân hoá lên cùng với hai từ “chùng chình” đã
diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Gío thu nhẹ thoảng qua nên làn
sương bay qua ngõ nhà có vẻ chậm chạp hơn mỗi ngày. Bên cạnh từ láy “ chùng
chình”, phép nhân hoá trên còn gợi lên trong tâm trí người đọc về hình ảnh một
người nào đó dường như vẫn còn một chút luyến tiếc nên cố ý đi chậm lại, không
vội qua mau. Tình thái từ “hình như” bộc lộ được cảm giác ngỡ ngàng, ngạc nhiên
của tác giả, còn chút chưa thật rõ ràng vì đó mới chỉ là cảm giác nhẹ nhàng thoảng
qua. Hữu Thỉnh tài tình thật! Ông đã cảm nhận được không khí của mùa thu đang
về qua nhiều giác quan khác nhau như khứu giác, xúc giác và cả thị giác. Đó là
“hương ổi”, sự vận động của gió và cả làn sương qua ngõ. Chắc tác giả phải là
người yêu thiên nhiên, tâm hồn nhạy cảm tinh tế lắm mới cảm nhận được những
hơi thở vẫn còn nhẹ nhàng, yếu ớt và còn khá mơ hồ của mùa thu mới chớm.
Nếu ở khổ một, trạng thái cảm xúc của tác giả chỉ mới “bỗng” hoặc “hình
như” thì trong khổ thơ thứ hai, tác giả đã khẳng định điều đó với những sự vận
động của vạn vật, đất trời mang đầy không khí mùa thu:
“… Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã ”
Bắt đầu mùa thu, sông thì “dềnh dàng” và chim cũng “bắt đầu vội vã”. Bằng
biện pháp sử dụng từ láy cùng phép nhân hoá, ta cảm nhận được cả không khí đất
trời thật rộn rã, hối hả nhưng ở đâu đó thì trở lên trầm lắng, yên ả. Đầu tiên là hình
ảnh những dòng sông vào mùa thu, nước sông đã không còn vẩn đục vì những trận
mưa như trút nước của mùa hạ mà trở nên lặng lẽ, phẳng lì. Ngoài ra, tác giả cũng


đã nhân hoá dòng sông như một người rảnh rỗi, thư thả, không có gì phải vội vã,
gấp gáp. Chỉ cần chuyển tầm nhìn lên cao, tác giả lại thấy một hình ảnh thật trái
ngược. Đó là hình ảnh những chú chim đang vội bay đi kiếm ăn chuẩn bị cho một
cuộc di chuyển dài về phía nam để tránh rét. Hai hình ảnh trái ngược nhau nhưng
cũng bổ sung cho nhau, là hai bộ phận tạo nên cái hấp dẫn của mùa thu. Ngoài ra,
nó còn cho thấy cái tài tình, nhạy bén của Hữu Thỉnh trong quan sát mọi vật chung
quanh.
Dấu hiệu của mùa thu còn được tác giả bắt gặp qua một hình ảnh hết sức độc
đáo:
“…Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Thật đặc biệt làm sao khi đám mây lại mang trên mình không khí của hai mùa.
Qua phép nhân hoá, liên tưởng sáng tạo, câu thơ gợi lên cho ta hình ảnh làn mây
mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài của mùa hạ còn sót lại trên bầu trời đã bắt đầu trong
xanh. Từ “vắt” trong câu thơ đầy tính gợi hình, tạo dáng. Hai câu thơ trên dùng để
miêu tả không gian nhưng lại có nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian. Đó là
thời điểm thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, những đám mâyy trong trời thu trong
vắt thật nên thơ, có hồn. Đây cũng nói lên tâm hồn thi sĩ thật mộng mơ nên mới có
thể vẽ nên bức tranh về bầu trời thu đang dần thay đổi theo tốc độ nhanh, chậm,
nhẹ nhàng mà rõ nét chỉ qua hai câu thơ ngắn ngủi.
Khổ thơ thứ ba diễn tả rất rõ nét sự biến chuyển của không gian và cũng là
một thoáng suy tư của nhà thơ trước cảnh vật, đất trời:

“…Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”


“ Nắng, mưa, sấm” là những từ ngữ tả thật hiện tượng thiên nhiên lúc này nắng
vẫn còn nhưng đã nhạt dần chứ không còn chói chang, gay gắt như nắng hạ, sấm
và mưa đã thưa dần và cũng không còn dữ dội nữa, vì thế những “hàng cây đứng
tuổi” ít bị giật mình, ít bất ngờ vì tiếng sấm nữa. Hai câu thơ đầu của khổ thứ ba,
người đọc còn bắt gặp Hữu Thỉnh đã sử dụng phép đối để làm rõ cảnh vật thời tiết
đã thay đổi và tất cả những dấu hiệu của mùa hạ đã vơi dần về cả mức độ và cả
cường độ để lặng lẽ vào thu. Bên cạnh nghĩa thực nói trên, hình ảnh “nắng, mưa,
sấm” và “hàng cây đứng tuổi còn mang thêm nghĩa ẩn dụ với ý nghĩa: “nắng, mưa,
sấm” tượng trưng cho những vang động bất thường của ngoại cảnh, cuộc đời;
“hàng cây đứng tuổi” tượng trưng cho con người từng trải. Như thế, khổ thơ có ý
nghĩa là những người từng trải sẽ vững vàng hơn trước những tác động của ngoại
cảnh, của cuộc đời.
“Sang thu” là một khúc giao mùa nhẹ nhàng, thơ mộng, bâng khuâng mà cũng
thầm thì triết lí. Chỉ với ba khổ thơ ngắn ngủi nhưng đã để lại cho người đọc biết
bao suy ngẫm và rung động. Vì thế, qua bài thơ “Sang thu”, ta cảm nhận được từ
cuối hạ sang thu, đất trời có những biến chuyển nhẹ nhàng mà rõ rệt, sự biến
chuyển này đã được Hữu Thỉnh gợi lên bằng cảm nhận tinh tế, qua những hình ảnh
giàu sức biểu cảm trong bài thơ.
Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ tinh tế, giọng thơ êm đềm và những rung động man
mác, bâng khuâng của tác giả trong thời gian giao mùa đã tạo nên một dấu ấn
riêng, không thể phai mờ của bài thơ “Sang thu”. Qua đó, nó cũng thể hiện sự tinh
tế của một tâm hồn biết nhìn, biết lắng nghe đồng thời cho thấy tình cảm tha thiết,
quan tâm đến sự sống của thiên nhiên, đất nước của nhà thơ Hữu Thỉnh. Hãy đóng
góp cho đời sống mùa thu của chúng ta sự lạc quan, yên đời, sự say mê thích thú

trong học tập và cuộc sống,…để thật sự mỗi mùa thu đều là biểu hiện của một mùa
thanh bình, êm ả của cuộc đời.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×