Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Phân tích đoạn trích Kiều ở Lầu Ngưng Bích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.46 KB, 8 trang )

Kiều ở lầu Ngưng Bích
Đề bài : Có ý kiến cho rằng : Đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng ích là bức tranh
tâm tình đầy xúc động” ý kiến của em như thế nào. Hãy phân tích đoạn thơ để làm
rõ ý kiến của mình.
Dàn ý
1.Mở bài: Truyện Kiều của Nguyễn Du là kiệt tác thơ nôm lớn nhất của nền văn
học trung đại. Xét về mặt nghệ thuật, Truyện Kiều thành công trên nhiều phương
diện. Nếu ở đoạn trích “ Mã Giám Sinh mua Kiều”, qua ngôn ngữ miêu tả, nhà thơ
làm nổi bật tính cách thì ở đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nhà thơ rất tinh tế
khi diễn tả tâm trạng nhân vật. Bởi thế khi đọc đoạn thơ có ý kiến cho rằng đoạn “
Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh tâm tình đầy xúc động”
2.Thân bài :
*a. Bày tỏ ý kiến của mình về nội dung, ý nghĩa của lời nhận định.
- Theo em, lời nhận xét đánh giá trên là hoàn toàn đúng. Người viết đã nhận xét
về những điểm thành công về nội dung cũng như nghệ thuật của bài thơ. Bởi lẽ nói
đến chữ tâm tình là nói đến tâm tư, tình cảm, tâm trạng còn nói đến bức tranh là
nói đến những hình ảnh cụ thể chân thực. Bởi vậy ta hiểu ý nghĩa khái quát lời
nhận định là: Đoạn thơ “ Kiều ở lầu Ngưng bích” đã diễn tả hoàn toàn chân thực cụ
thể diễn biến tâm trạng của nàng Kiều khi phải sống ở lầu Ngưng Bích. Đó là tâm
trạng buồn lo, sợ hãi vì Mã Giám Sinh không phải mua nàng về làm vợ thiếp, mà
làm gái lầu xanh cho cửa hàng thanh lâu của Tú Bà. Vốn là con gái của một gia
đình lương thiện, gia giáo, Thúy Kiều đã phản ứng một cách quyết liệt bằng cách
dùng dao tự vẫn nhưng vẫn không thành. Sợ vốn liếng mình bị mất, Tú Bà đã đưa
Thúy Kiều ra lầu Ngưng Bích chăm sóc thuống thang dỗ dành nàng sau này bình
phục sẽ gả chồng cho nàng về nơi tử tế. Nhưng thực chất là giam lỏng nàng để
chuẩn bị một âm mưu mới. Bởi vậy, đây chỉ là những giờ phút, những thời khắc
yên thân tạm thời của Thúy Kiều. Trong hoàn cảnh một mình một bóng ấy, tâm
trạng của Thúy Kiều ngổn ngang trăm mối tơ vò. Nhà thơ Nguyễn Du đã theo sát
nhân vật thân yêu của mình để thấu hiểu và miêu tả những diến biến phức tạp trong
tâm trạng của Thúy Kiều.
b. Phân tích đoạn thơ để thấy rõ tâm trạng Kiều.


- Mở đầu đoạn thơ, ND đã giúp người đọc hiểu được hoàn cảnh của Kiều
“ Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”


“ Khóa xuân” mang nét nghĩa là khóa kín tuổi xuân, những cô gái “ xấp xỉ cập kê”
đang chờ ngày xuất giá. Nhưng ở câu thơ này, ND đã dùng hai chữ “ khóa xuân”
để mỉa mai cảnh ngộ trớ trêu của Kiều. Bởi thực chất là nàng bị giam lỏng, bị cách
biệt với thế giới bên ngoài, bị dập tắt mọi ước mơ và khát vọng.
- Thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích hiện lên trước mắt nàng:
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
- Trước mắt người đọc như hiện lên một khung cảnh thiên nhiên rộng lớn. Phía xa
kia là núi, trên đầu là vầng trăng lạnh lẽo, xung quanh là “ bốn bề bát ngát”. Từ
ghép “ Bốn bề” kết hợp với từ láy “ bát ngát” gợi cho ta hình dung tới không gian
của lầu Ngưng Bích mênh mông rộng lớn, rợn ngợp. Tất cả gợi h/ả lầu Ngưng
Bích đứng đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Những dãy núi xa cùng
vầng trăng trên bầu trời cao rộng như đóng khung qua ô cửa nhỏ. Từ điểm nhìn
trên lầu cao, chỉ thấy thiên nhiên và thiên nhiên, không một bóng người. Cảnh đẹp,
rộng lớn nhưng vắng vẻ, đượm buồn. Dường như cảnh vật bị bao trùm bởi một nỗi
buồn nặng trĩu, u uất. Nỗi buồn đau trong Kiều đang thấm vào cảnh vật, hòa vào
cảnh sắc thiên nhiên. Cảnh như tương phản với con người. Cảnh rộng lớn, mênh
mông, vô hạn, con người thì nhỏ bé, cô đơn, hữu hạn. Cảnh vật tĩnh lặng càng làm
nổi bật nỗi cô đơn của Thúy Kiều.
- Cảnh thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích không chỉ mênh mông mà còn ngổn ngang
cảnh vật với “ cát vàng, cồn nọ, bụi hồng”. Hình ảnh non xa, trăng gần, cát vàng,
bụi hồng ở đoạn thơ này có thể là cảnh thực mà cũng có thể chỉ là hình ảnh mang
tính ước lệ nhằm gợi nên sự mênh mông rợn ngợp, qua đó diễn tả tâm trạng cô
đơn, ngổn ngang của Kiều.
- ND không chỉ gián tiếp miêu tả cảnh ngộ cô đơn của Kiều mà ông còn trực tiếp

bộc lộ tâm trạng đó:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya.
- Nhà thơ đã dùng từ láy “ bẽ bàng” để đặc tả tâm trạng cô đơn, tủi thẹn của Kiều.
Kiều thấy hổ tủi với mây và thẹn với trăng. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” mà
Nguyễn Du đã sử dụng trong câu thơ đã cho ta hiểu rằng thời gian tuần hoàn khép
kín hết sớm rồi lại khuya, khuya rồi lại sớm, đêm rồi lại ngày, hết ngày rồi lại đêm.
Thúy Kiều chỉ một mình thui thủi ở nơi đây. Như vậy không gian thì vắng lặng,
thời gian thì tuần hoàn, khép kín vây hãm Thúy Kiều, cảnh ngộ thì trớ trêu, tình


cảm thì đau đớn tủi hổ. Hai nỗi buồn như cứa như cắt tâm trạng của nàng nên lại
càng đau đớn xót xa :
“Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”
Bốn chữ “như chia tấm lòng” diễn tả nỗi niềm chua xót, nỗi lòng tan nát của
Kiều.
* Tác giả đã diễn tả tâm trạng nhớ thương của nàng Kiều với những người
yêu thương.
- Đó là nỗi nhớ chàng Kim:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
- Để diễn tả niềm thương nhớ người yêu của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng
động từ “tưởng”, đứng ở vị trí đầu câu thơ. Chữ “tưởng” ở đây được hiểu là hồi
tưởng, là nhớ lại những gì tốt đẹp của quá khứ. Đó là những kỉ niệm đẹp của mối
tình đầu trong sáng giữa nàng và chàng Kim, lời hứa hẹn và chén rượu thề nguyền
dưới đêm trăng sáng vằng vặc:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song”
- Nàng còn hình dung thấy ở nơi Liêu Dương cách trở, chàng Kim cũng đang
hướng về phía nàng, ngày đêm đau đáu mong tin.
“Tin sương luống cũng rày trông mai chờ”

- ND đã mượn điển tích “ tin sương” để diễn tả nối trong ngóng, đợi tin của KT.
Đây là tiếng nói trong sâu thẳm trái tim của nàng. Nhà thơ đã sử dụng thành công
ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Bởi thế lời thơ ít, ý thơ nhiều. Trong lời thơ như có
nhịp thổn thức của một trái tim yêu thương đang nhỏ máu, thương nhớ tha thiết
người mình yêu dấu. Càng nghĩ về kỉ niệm nàng lại càng đau đớn xót xa. Chén
rượu thề còn đó mà nay mỗi người mỗi ngả. Bởi thế, nàng càng thấm thía nỗi cô
đơn của mình:
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
- Nàng nhủ thầm với lòng mình không bao giờ quên được hình bóng chàng
Kim. H/ả “ tấm son” là ẩn dụ sâu sắc cho sự thủy chung son sắt của Thúy Kiều với
mối tình đầu trong sáng. Và nàng lại càng đau đớn xót xa vì tấm lòng son của mình
đã bị mã Giám Sinh làm nhục. Do vậy, nỗi day dứt đau xót của nàng lại tăng lên


khi nhớ tới người yêu. Hơn thế nàng còn biết rằng, dù có phải xa nơi chân trời góc
bể thì t/c của nàng với chàng Kim sẽ không bao giờ phai nhạt. Và như vậy thì nàng
càng đau khổ. Trong nỗi nhớ chàng Kim có cả nỗi đau đớn vò xé tâm can. Trong bi
kịch tình yêu của nàng có cả bi kịch về nhân phẩm.
* Sau đó nhà thơ Nguyễn Du đã diễn tả nỗi nhớ của nàng với cha mẹ.
Xót người tựa của hôm mai
Quạt lồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vửa người ôm.
Để gợi tả nỗi nhớ của nàng với cha mẹ ND đã sử dụng từ “ xót. “ Xót” cũng
có nghĩa là nhớ thương nhưng trong nỗi nhớ thương đó có cả sự xót xa của tình cốt
nhục.
Nhà thơ đã dùng hàng loạt các điển cố của văn học TQ kể về lòng hiếu thảo của
con đối với cha mẹ để diễn tả một cách sinh động và đau xót nỗi nhớ cha mẹ của
Thúy Kiều. Hình ảnh sao hôm, sao mai gợi thời gian tuần hoàn khép kín. Nàng lo

lắng xót xa nghĩ đến hình bóng tội nghiệp của cha mẹ, khi sáng sớm, lúc chiều
hôm tựa cửa ngóng tin con nhưng càng mong lại càng bặt vô âm tín.
Nàng đau xót khi đến cha mẹ không có người chăm lo, phụng dưỡng. Điển tích
“gốc tử” kết hợp với cụm từ “ đã vừa người ôm” có nghĩa là cha mẹ nàng đã già
yếu . Vậy mà nàng xa xôi, cách trở nên không chăm sóc được cha mẹ già. Nàng
tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay. Tuy xa nhà chưa lâu nhưng nàng ngỡ
như “ cách mấy nắng mưa”. Đó là thời gian tâm lí khi TK nghĩ về gia đình, về cha
mẹ. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng,
vừa gợi được sự tàn phá của thời gian, của thiên nhiên lên con người và cảnh vật.
Lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình
đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ.
Trong hoàn cảnh trớ trêu nhưng Kiều như quên hẳn nỗi đau hiện tại để sống
trong tâm tưởng với người yêu, với cha mẹ. Nguyễn Du miêu tả rất chân thực, cụ
thể nỗi nhớ của nàng. Mặt khác, ta còn thấy ngòi bút của ông rất tinh tế khi miêu tả
tâm trạng nhân vật. Ông đã thể hiện nỗi nhớ của người yêu của Thúy Kiều lên
trước nỗi nhớ cha mẹ tức là chữ “ tình” đặt trước chữ “hiếu”, đảo ngược trật tự của


lễ giáo phong kiến. Nhưng cách miêu tả này hoàn toàn phù hợp với logic tâm
trạng. Bởi lẽ chữ” hiếu” phần nào nàng đã đền đáp. Nàng đã bán thân mình có tiền
cứu cha và em, cảnh nhà đã tạm yên. Còn chữ “tình” đối với Kim Trọng, nàng
Kiều cứ day dứt, vì mình đã lỡ hẹn với chàng kim, vì mình mà chàng Kim dang dở.
Hơn nữa trước khi bước vào con đường lưu lạc, thúy Kiều chưa từng nói lời từ
biệt. Do vậy, trong hoàn cảnh ở lầu Ngưng Bích cô đơn, nàng nghĩ tới người yêu
trước khi nghĩ tới cha mẹ cũng là hợp lẽ. Điều đó còn thể hiện Nguyễn Du rất hiểu
tình cảm và rất thông cảm với nỗi đau xót xa của Thúy Kiều, như chia sẻ cùng
nàng mối tình đầu tan vỡ.
=> Nỗi nhớ thương của Kiều đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng.
Hoàn cảnh của nàng lúc này thật xót xa, đau đớn. Nhưng quên đi cảnh ngộ bản
thân, nàng đã hướng yêu thương vào những người thân yêu nhất. Trái tim nàng

thật giàu yêu thương giàu đức hi sinh. Nàng thật sự là một người tình thuỷ chung,
một người con hiếu thảo, một người có tấm lòng vị tha cao cả đáng quý.
* Tám câu thơ cuối: - Đây là 8 câu thơ thực cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi
biểu hiện của cảnh đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng của người – mỗi một cảnh
lại khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau, với những lý do buồn khác nhau
trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trạng để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh,
khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn mỗi lúc một ghê gớm, mãnh liệt hơn.
* Bức tranh thứ nhất:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
- Nguyễn Du đã rất tinh tế khi mượn tứ thơ dân gian. “Chiều hôm” là tứ thơ xuất
hiện nhiều trong ca dao xưa. nhiều bài ca dao đã bắt đầu bằng mô típ này:
“Chiều chiều ra đứng bờ sông
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn về quê mẹ mà không có đò”
- Bức tranh thiên nhiên rộng lớn nơi “ cửa bể” được vẽ vào thời điểm “ chiều
hôm”. Hình ảnh chiều hôm và cửa bể không chỉ có tính chất gợi không gian và
thời gian mà còn là những hình chỉ không gian và thời gian nghệ thuật. Bản thân
những hình ảnh đó đã gợi nhớ, gợi buồn, gợi tâm trạng. Từ đó các hình ảnh này đã
góp phần đặc tả tâm trạng của thúy Kiều khi nhìn ra phía ngoài khơi xa. Trong ánh


nắng chiều nhạt nhòa nàng thấy cửa biển mênh mông, chỉ có một cánh buồm thấp
thoáng. Từ láy “xa xa, thấp thoáng” gợi ra hình ảnh cánh buồm lúc ẩn lúc hiện
như một thứ ảo ảnh. Nhìn cảnh đó tâm trạng của Thúy Kiều rất buồn. Phải chăng
cảnh buồm ngoài khơi xa khiến thúy Kiều liên tưởng tới thân phận trôi nổi bấp
bênh của mình. Cũng giống như cánh buồm, nàng cũng lẻ loi đơn côi ở nơi đây.
Cánh buồm kia rồi cũng có ngày cập bến, còn nàng không biết đến bao giờ trở về
quê hương, gặp lại những ngươi thân yêu.Trong lòng nàng dâng lên một nỗi buồn

cô đơn, xa vắng. Đó là nỗi buồn của kẻ tha hương, nỗi nhớ gia đình người thân và
khát khao xum họp, một nỗi khát khao vô vọng.
* Bức tranh thứ 2:
- Đọc tiếp cặp thơ thứ hai ta thấy ánh mắt nàng Kiều gần hơn, nàng thấy trên dòng
nước đang chảy có cánh hoa trôi. Một câu hỏi thiết tha đã được đặt ra trong tâm trí
nàng:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Ở đây, thi hào Nguyễn Du đã cực tả, đặc tả tâm trạng bi thương của Kiều qua
những hình ảnh ẩn dụ giàu giá trị biểu cảm. “Dòng nước mới sa” hay chính là dòng
đời, bể đời vô định; hình ảnh “hoa trôi man mác” phải chăng là thân phận người
con gái đang trôi dạt, đang bị vùi dập trư ớc sóng gió cuộc đời? Câu hỏi tu từ “biết
là về đâu?”cất lên như một tiếng than diễn tả tâm trạng xót xa, hoang mang, lo sợ
của Kiều: không biết cuộc đời sẽ trôi nổi đến đâu, tương lai rồi sẽ thế nào hay lại
tan tác, bị dập vùi như cánh hóa mỏng manh kia. H/ả cánh hoa đã gợi trong lòng
nàng nỗi buồn não nề đến vô vọng.
* Bức tranh thứ 3:
- Sau đó, ánh mắt của nàng hướng ra xung quanh lầu Ngưng Bích.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Lại một cảnh mênh mông hoang vắng… “nội cỏ rầu rầu” dàn trải típ tắp tới
tận chân trời xa. Vẫn không có một bóng cây, chẳng một bóng nhà để phá bớt cái
màu xanh đơn điệu ấy. Màu cỏ không phải là màu xanh tươi tốt mà “rầu rầu” buồn
bã, héo hắt không chút sức sống. Ấy thế mà màu xanh ấy cứ trải rộng ra mãi, nối
tiếp với vùng trời mênh mang mờ mịt. Màu xanh ấy nhợt nhạt, xa xôi làm gợi lên
một nỗi niềm ngao ngán tẻ nhạt vô cùng. Và có lẽ, màu xanh ấy là màu của tâm
trạng được nhìn từ đôi mắt đẫm ướt khổ đau của Thúy Kiều. Màu xanh nhạt nhòa


của chân mây, mặt đất hay là ẩn dụ cho tương lai mịt mờ vô vọng của nàng. Bởi

thế nàng cảm thấy như không cósức sống, không niềm tin, vô vọng và đầy ngao
ngán...
* Bức tranh thứ tư: Trước mắt nàng là biển trời bão tố:
Buồn trông gió cuốn mặt duyềnh
Ầm ầm sóng vỗ kêu quanh ghế ngồi
Dường như đến đây, nỗi buồn đã dâng cao đến đỉnh điểm, đang trào dâng mạnh
mẽ như vỡ ra trong lòng Kiều. Gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi đầy sóng lớn,
trắng xóa một màu. Sóng gào thét “ầm ầm” như chực cuốn phăng đi tất cả mọi thứ
hiện hữu, kể cả Kiều. Từ láy “ầm ầm” được đảo lên câu thơ để nhấn mạnh sự gầm
gào hãi hùng của biển cả. Kiều cảm nhận thấy tiếng sóng đang bủa vây xung
quanh, như bao bọc lấy nàng, xiết chặt, gào thét trong tâm hồn nàng. Thúy Kiều
dường như không còn lối thoát. Từng lớp sóng như muốn nhấn chìm nàng xuống
vực thẳm đáng sợ! Tiếng sóng kêu ấy hay là tiếng kêu sợ hãi của thúy Kiều khi
nghĩ đến chặng đường sắp tới của mình. Cái “gió cuốn mặt dềnh” kia là hình ảnh
ước lệ chỉ những tai họa cuộc đời sắp đổ xuống đầu nàng. Câu thơ dự báo về cuộc
đời của mình sẽ gặp nhiều sóng gió, trắc trở.
- Tám câu thơ được chia đều làm bốn cặp và mở đầu bằng hai chữ” Buồn
trông”.Tác giả đã sử dụng điệp ngữ “buồn trông” tạo âm hưởng trầm buồn cho cả
đoạn thơ và nhấn mạnh, khắc sâu thêm tâm trạng buồn đến đau đớn, tuyệt vọng
của Thúy Kiều. Nỗi buồn ấy dâng lên trùng trùng điệp điệp kéo dài theo thời gian,
lan tỏa khắp không gian kết thành một chuỗi nỗi buồn kế tiếp nhau không dứt.
- Như vậy cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ
tĩnh đến động để diễn đạt nỗi buồn từ man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn
đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tất cả là hình ảnh về
sự vô định, mong manh, sự dạt trôi bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ dữ dội.
Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất. Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa
Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời "thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần".
=> Tóm lại: Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” quả thực là một bức tranh tâm
tình đầy xúc động với cách sử dụng từ ngữ rất chính xác kết hợp với ngôn ngữ độc
thoại nội tâm, cách sử dụng những điển tích văn học cùng với bút pháp tả cảnh

ngụ tình đặc sắc, nhà thơ Nguyễn Du đã diễn tả chân thực cụ thể tinh tế diễn biến
tâm trạng của nàng Kiều khi nàng sống ở lầu Ngưng Bích. Đó là nỗi cô đơn buồn


tủi, thương nhớ người thân da diết, nỗi buồn lo hãi hùng. Có thể thấy đây là bức
tranh không chỉ có cảnh đẹp, tình sâu mà hồn nhà thơ cũng thấm sâu vào nhân vật.
Thấu hiểu và miêu tả tâm trạng nhân vật Kiều cũng có nghĩa là Nguyễn Du cũng
đồng cảm với nhân vật cảm thông chia sẻ nỗi đau của nàng Kiều, đó chính là biểu
hiện của giá trị nhân văn. Đoạn thơ không chỉ được viết lên bằng tài năng văn học
mà còn bằng cả cái tâm của người nghệ sĩ. Chính sự kết hợp giữa cái “ tài” và cái “
tâm đó” khiến cho mỗi khi ta đọc lại TK đều thấy xót xa cho người con gái tài hoa
bạc mệnh.
.....................................................................



×