Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Giáo trình kinh tế vĩ mô chương 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.27 MB, 37 trang )

Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

BÀI 2: HẠCH TOÁN THU NHẬP QUỐC DÂN
Nội dung

 Đo lường các chỉ tiêu sản lượng của quốc gia như:
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP), Tổng sản phẩm
quốc nội (GDP)
 Chỉ ra cách xác định các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và
chỉ số điều chỉnh GDP và lạm phát
 Xây dựng các phương pháp xác định GDP
 Phân tích ý nghĩa của các chỉ tiêu GNP và GDP
trong phân tích Kinh tế Vĩ mô
 Phân tích các đồng nhất thức Kinh tế Vĩ mô
cơ bản

Mục tiêu

Hướng dẫn học

 Giúp học viên hiểu và biết được
các phương pháp đo lường sản
lượng quốc gia, phương pháp tính
lạm phát, thất nghiệp…

 Học viên nên đọc kỹ nguồn tài liệu tham khảo để
chọn ra những tài liệu tham khảo hữu ích nhất và
cần xem các nguồn tài liệu và thứ tự tài liệu được
cung cấp cho chương này để học tập tốt hơn

 Chỉ rõ cho học viên phương pháp


tính GDP và nêu được ý nghĩa, vai
trò của các chỉ tiêu GNP, GDP, và
các đồng nhất thức trong phân tích
Kinh tế Vĩ mô

 Trong bài này học viên cần phải học thuộc các
công thức liên quan đến việc xác định sản lượng
của nền kinh tế. Học viên cần có sự cố gắng thực
hành các loại bài tập đã cung cấp, càng làm nhiều
bài tập thì sinh viên càng nhớ lâu và hiểu sâu các
công thức cũng như các khái niệm xác định hạch
toán thu nhập quốc dân

Thời lượng học

 7 tiết học

ECO102_Bai2_v2.0013107216

35


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

2.1.

Các chỉ tiêu đo lường sản lượng quốc gia

2.1.1.


Tổng sản phẩm quốc dân (Gross National Product – GNP)

GNP là chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà
một quốc gia sản xuất trong một thời kỳ (thường lấy là một năm) bằng các yếu tố sản xuất
của mình. GNP đánh giá kết quả của hàng triệu giao dịch và hoạt động kinh tế do công dân
của một đất nước tiến hành trong một thời kỳ nhất định. Đó chính là con số đạt được khi
dùng thước đo tiền tệ để tính toán giá trị của các hàng hoá khác nhau mà các hộ gia đình,
các hãng kinh doanh, Chính phủ mua sắm và tiêu dùng trong một thời gian đã cho. Những
hàng hoá và dịch vụ đó là các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của các hộ gia đình; thiết bị
nhà xưởng mua sắm và xây dựng lần đầu của các hãng kinh doanh; nhà mới xây dựng; hàng
hoá và dịch vụ mà các cơ quan quản lý Nhà nước mua sắm và phần chênh lệch giữa hàng
hoá xuất khẩu và nhập khẩu.

Sản lượng ô tô

Dùng thước đo tiền tệ để đo lường giá trị sản phẩm là thuận lợi vì thông qua giá cả thị
trường chúng ta có thể cộng giá trị của các loại hàng hoá có hình thức và nội dung vật chất
khác nhau như cam, chuối, xe ô tô, tàu du hành vũ trụ, dịch vụ du lịch, y tế, giáo dục,... Nhờ
vậy, có thể đo lường kết quả sản xuất của toàn bộ nền kinh tế chỉ bằng một con số, một tổng
lượng duy nhất. Nhưng giá cả lại là một thước đo co dãn. Lạm phát thường xuyên đưa mức
giá chung lên cao. Do vậy, GNP tính bằng tiền có thể tăng nhanh trong khi giá trị thực của
tổng sản phẩm tính bằng hiện vật có thể không tăng hoặc tăng ít. Để khắc phục được nhược
điểm này, các nhà kinh tế thường sử dụng các khái niệm: GNP danh nghĩa và GNP thực tế.
GNP danh nghĩa (GNPn) đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ,
theo giá cả hiện hành, tức là giá cả của cùng thời kỳ đó.
Ví dụ: GNPn = Pi2009 . Qi2009
GNP thực tế (GNPr) đo lường tổng sản phẩm quốc dân sản xuất ra trong một thời kỳ, theo
giá cả cố định ở một thời kỳ lấy làm gốc.
Ví dụ: GNPr = Pi2008 . Qi2009


36

ECO102_Bai2_v2.0013107216


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

Tỷ lệ giữa GNP danh nghĩa và GNP thực tế là chỉ số giá cả hay còn được gọi là chỉ số điều
chỉnh GNP (ký hiệu: DGNP).
DGNP = GNP danh nghĩa/(GNP thực tế).100
Như vậy, khi biết chỉ số điều chỉnh DGNP chúng ta có thể tính được GNPr từ GNPn. Ngược
lại, khi biết GNPr và chỉ số điều chỉnh DGNP chúng ta có thể tính được GNPn của cùng một
thời kỳ.
Chỉ tiêu GNP danh nghĩa và GNP thực tế thường được dùng cho các mục tiêu phân tích
khác nhau. Chẳng hạn, khi muốn nghiên cứu mối quan hệ tài chính, ngân hàng người ta
thường dùng GNP danh nghĩa; khi cần phân tích tốc độ tăng trưởng kinh tế người ta thường
dùng GNP thực tế.
2.1.2.

Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product – GDP)

GDP là chỉ tiêu đo lường tổng giá trị của các hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất
ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
Chỉ tiêu GNP là kết quả của hàng triệu hoạt động kinh tế xảy ra bên trong lãnh thổ của đất
nước. Những hoạt động này có thể do công ty, doanh nghiệp của công dân nước ngoài sản
xuất tại nước đó. Nhưng GDP không bao gồm kết quả hoạt động của công dân nước sở tại
tiến hành ở nước ngoài. Đây là một dấu hiệu để phân biệt GDP và GNP.
Trong thực tế, một hãng kinh doanh của nước ngoài sở hữu một nhà máy, dưới hình thức bỏ
vốn đầu tư hay liên doanh với các công ty ở nước ta, thì một phần lợi nhuận của họ sẽ
chuyển về nước họ để chi tiêu hay tích luỹ.


Tổng sản phẩm quốc nội GDP

Ngược lại, công dân sinh sống và làm việc ở nước ngoài cũng gửi một phần thu nhập về
nước. Tuy vậy, hầu hết các khoản thu nhập chu chuyển giữa các nước không phải là thu
nhập từ lao động mà là thu nhập từ lãi tiền gửi, lãi cổ phần, lợi nhuận,... Khi hạch toán các
tài khoản quốc dân, người ta thường dùng thuật ngữ “Thu nhập ròng từ tài sản nước ngoài”
để chỉ phần chênh lệch giữa thu nhập của công dân nước ta ở nước ngoài và công dân nước
ngoài ở nước ta. Từ đó, ta có đẳng thức thể hiện mối quan hệ giữa GDP và GNP như sau:
GNP = GDP + Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài hoặc
GNP = GDP + Tổng thu về thu nhập nhân tố sản xuất từ nước ngoài – Tổng chi về thu nhập
nhân tố sản xuất trả nước ngoài.
ECO102_Bai2_v2.0013107216

37


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

2.1.3.

Tổng sản phẩm quốc dân ròng (Net National Product – NNP)

Sản phẩm quốc dân ròng (NNP) là phần GNP còn lại sau khi trừ đi khấu hao. Như đã biết
các tư liệu lao động bị hao mòn dần trong quá trình sản xuất. Sau khi tiêu thụ sản phẩm các
doanh nghiệp phải bù đắp ngay phần hao mòn này. Chúng không trở thành nguồn thu nhập
của cá nhân và xã hội và không tham gia vào quá trình phân phối cho các thành viên trong
xã hội.
Như vậy, suy cho cùng, không phải tổng đầu tư mà đầu tư ròng cùng với các thành phần
khác của GNP mới là những bộ phận quyết định tốc độ tăng trưởng, nâng cao mức sống của

người dân. Những bộ phận này tạo thành sản phẩm quốc dân ròng (NNP). Vậy ta có: NNP =
GNP – khấu hao (TSCĐ).
Tuy nhiên, việc xác định tổng mức khấu hao trong nền kinh tế đòi hỏi nhiều thời gian và rất
phức tạp. Vì vậy, để đáp ứng kịp thời nhu cầu phân tích và tránh phiền phức do việc thu
thập số liệu khác nhau, hay biến động về khấu hao, Nhà nước và các nhà kinh tế thường sử
dụng GNP.
Bảng 2.1: Tổng thu nhập quốc dân theo giá thực tế từ 1990 - 2005

2.1.4.

Thu nhập quốc dân và thu nhập quốc dân có thể sử dụng

Thu nhập quốc dân (Y hoặc NI): Là phần thu được khi lấy tổng sản phẩm quốc dân ròng
(NNP) trừ đi phần thuế gián thu.
Thu nhập quốc dân phản ánh tổng thu nhập từ các yếu tố sản xuất: Lao động, vốn, đất đai,
tài nguyên, khả năng quản lý,... của nền kinh tế hay đồng thời cũng là thu nhập của tất cả
các hộ gia đình (các cá nhân) trong nền kinh tế. Như vậy, khái niệm thu nhập quốc dân
trùng hợp với khái niệm sản phẩm quốc dân ròng theo chi phí cho các yếu tố sản xuất. Ta
có: Y = W + i + r + .
38

ECO102_Bai2_v2.0013107216


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân
Bảng 2.2: Một số chi tiêu chủ yếu về tài khoản quốc gia từ năm 2000 – 2005

Thu nhập quốc dân ròng cũng có thể tính bằng cách lấy tổng sản phẩm quốc dân trừ đi khấu
hao và thuế gián thu.
Y = GNP – Khấu hao (DP) – Thuế gián thu (Te)

Hay Y = NNP – Thuế gián thu (Te)
 Thuế gián thu: Thông thường đây được coi là những loại thuế đánh vào sản xuất kinh
doanh hàng hoá và dịch vụ và do vậy, việc trả thuế chỉ là gián tiếp (người nộp thuế không
phải là người chịu thuế mà thực chất là người tiêu dùng phải gánh chịu). Thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế hải quan và thuế giá trị gia tăng là các ví dụ về thuế gián thu. Sự phân biệt
giữa thuế trực thu và thuế gián thu là một sự phân biệt truyền thống trong tài chính công
cộng. Tuy nhiên, sự phân biệt này không phải là một sự phân biệt hoàn toàn chặt chẽ,
đồng thời cũng không phải là đặc biệt bổ ích theo quan điểm phân tích. Có một số ví dụ
về thuế mà sự phân loại là không dễ dàng và sự phân biệt giữa chúng không phải là rất có
ích theo quan điểm phân tích phạm vi ảnh hưởng.
 Thuế thu nhập doanh nghiệp là loại thuế trực thu đánh vào phần thu nhập sau khi trừ
các chi phí liên quan đến thu nhập của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Tuy thu nhập quốc dân là chỉ tiêu phản ánh thu nhập từ tất cả các yếu tố của nền kinh tế, do
vậy đã phản ánh mức sống của dân cư. Nhưng để dự đoán khả năng tiêu và tích luỹ của dân
cư, Nhà nước phải dựa vào các chỉ tiêu trực tiếp hơn, tác động đến tiêu dùng và tích luỹ. Đó
là thu nhập có thể sử dụng.
Thu nhập có thể sử dụng là phần thu nhập quốc dân còn lại sau khi các hộ gia đình nộp lại
các loại thuế trực thu và nhận được các trợ cấp của Chính phủ hoặc doanh nghiệp.
ECO102_Bai2_v2.0013107216

39


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

YD = Y – Td + TR
Thuế trực thu chủ yếu là các loại thuế đánh vào thu nhập do lao động; thu nhập do thừa kế
tài sản của cha ông để lại, các loại đóng góp của cá nhân như bảo hiểm xã hội, lệ phí giao
thông,... Thu nhập của các hộ gia đình kinh doanh cá thể hay chung vốn cũng là một dạng
thuế trực thu và phải trừ ra từ thu nhập quốc dân. Tương tự các loại thuế lợi tức đánh vào

các công ty cổ phần (công ty do nhiều người sở hữu) và phần lợi nhuận không chia của các
công ty để lại để tích luỹ tái sản xuất mở rộng, cũng không nằm trong thành phần của thu
nhập có thể sử dụng (YD).
Toàn bộ thu nhập có thể sử dụng (YD) chỉ bao gồm thu nhập mà các hộ gia đình có thể tiêu
dùng (C), và để dành hay tiết kiệm (S). Ta có: YD = C + S
Bảng 2.3: Mối quan hệ giữa các chỉ tiêu xét dưới góc độ thuế

40

ECO102_Bai2_v2.0013107216


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân
Bảng 2.4: Phân tích mối quan hệ giữa các chỉ tiêu dựa vào yếu tố chi phí đầu vào

2.1.5.

Ý nghĩa của các chỉ tiêu GNP và GDP trong phân tích kinh tế vĩ mô. Những hạn
chế của chỉ tiêu GNP và GDP

Một quốc gia hay một doanh nghiệp đều luôn tìm cách đo lường kết quả hoạt động của mình
sau mỗi thời kỳ nhất định. Tuy vậy, doanh nghiệp quan tâm nhiều đến lợi nhuận thu được.
Lợi nhuận là thước đo tốt nhất kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong khi đó,
thành tựu kinh tế của một quốc gia phản ánh trong việc quốc gia đó sản xuất ra được bao
nhiêu, nói cách khác, nó đã sử dụng những yếu tố sản xuất của mình đến mức độ nào, để tạo
ra sản phẩm phục vụ cho đời sống nhân dân của đất nước mình.
Chỉ tiêu GNP hay GDP là những thước đo tốt về thành tựu kinh tế của một đất nước. Ngân
hàng thế giới (WB) hay quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cũng như các nhà kinh tế khác thường sử
dụng các chỉ tiêu này để so sánh quy mô sản xuất của các nước khác nhau trên thế giới.
GNP và GDP thường được sử dụng để phân tích những biến đổi về sản lượng của một đất

nước trong thời gian khác nhau. Trường hợp này, người ta thường tính tốc độ tăng trưởng
của GNP hay GDP thực tế nhằm loại trừ sự biến động của giá cả.
Các chỉ tiêu GNP hay GDP còn được sử dụng để phân tích sự thay đổi mức sống của dân
cư. Lúc này người ta tính các chỉ tiêu GNP và GDP bình quân đầu người:
GNP bình quân đầu người = GNP/tổng dân số

ECO102_Bai2_v2.0013107216

41


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

Thu nhập của các hộ gia đình ở Mỹ năm 2000 (USD)

Như vậy, mức sống của dân cư của một nước phụ thuộc vào số lượng hàng hoá và dịch vụ
mà họ sản xuất ra và quy mô dân số của nước đó. Sự thay đổi về GNP hay GDP bình quân
đầu người phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ tăng dân số và năng suất lao động. Nói cách khác,
mức sống của dân cư của một nước phụ thuộc và đất nước đó giải quyết vấn đề dân số trong
mối quan hệ với năng suất lao động như thế nào?

Thu nhập bình quân đầu người trên thế giới

Có sự khác nhau giữa hai chỉ tiêu GNP bình quân đầu người và GDP bình quân đầu người.
GNP bao gồm GDP và phần chênh lệch về tài sản từ nước ngoài, nên GNP bình quân đầu
người là một thước đo tốt hơn, xét theo khía cạnh số lượng hàng hoá và dịch vụ mà mỗi
người dân một nước có thể mua được. Còn GDP bình quân đầu người là thước đo tốt hơn về
số lượng hàng hoá và dịch vụ sản xuất ra tính bình quân cho một người dân. Điều này giải
thích tại sao các thống kê của World Bank thường đưa ra các ước tính về GDP, trong khi
các nước tính bình quân đầu người lại dùng GNP.


42

ECO102_Bai2_v2.0013107216


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

Hiện nay, hầu hết các Chính phủ của các quốc gia trên thế giới đều phải dựa vào số liệu và
các ước tính về GNP và GDP để lập các chiến lược phát triển kinh tế dài hạn và kế hoạch
ngân sách, tiền tệ ngắn hạn. Từ các chỉ tiêu GNP và GDP, các cơ quan hoạch định chính
sách đưa ra các phân tích về tiêu dùng, đầu tư, ngân sách, lượng tiền, xuất nhập khẩu, giá cả,
tỷ giá hối đoái,... Các phân tích này thường được tiến hành trên cơ sở các mô hình toán kinh
tế vĩ mô. Thiếu các thống kê chính xác về GNP và GDP, Nhà nước thiếu một cơ sở tối thiểu
cần thiết cho quá trình quản lý và điều tiết kinh tế. Muốn có số liệu chính xác về GNP và
GDP cần có phương pháp khoa học để tính toán GNP và GDP.
Một câu hỏi đặt ra là: GNP có phải là thước đo hoàn hảo về thành tựu kinh tế cũng như phúc
lợi kinh tế của một đất nước không? Câu trả lời là không.
Qua trình bày ở trên, phương pháp tính GDP và do đó GNP đã bỏ sót nhiều sản phẩm và
dịch vụ mà nhân dân làm hoặc giúp đỡ nhau làm, vì đơn giản là không đưa ra thị trường và
không báo cáo. Nhiều hoạt động kinh tế phi pháp hoặc hợp pháp nhưng không được báo cáo
nhằm trốn thuế, cũng không tính được vào GNP. Những thiệt hại về môi trường như ô
nhiễm nước, không khí, tắc nghẽn giao thông, gây thiệt hại cho sức khoẻ và môi trường,...
cũng không được “điều chỉnh” khi tính GNP. Sau cùng, GNP phản ánh những hàng hoá và
dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế. Nhưng hàng hoá cao cấp nhất cho đời sống con
người là thời gian nghỉ ngơi, để bổ khuyết cho sự thoải mái về tâm lý thì không thể nào ghi
chép và phản ánh được vào GNP.
Nhiều nhà kinh tế đã đề nghị sử dụng một khái niệm mới: Phúc lợi kinh tế ròng (NEW) để
đo lường phúc lợi thay cho GNP hoặc bổ sung cho nó. Nhưng vì phương pháp tính NEW
còn là mới mẻ, chưa theo dõi được, nên chúng ta tiếp tục sử dụng GNP làm thước đo thành

tựu kinh tế của một đất nước.
2.2.

Chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số điều chỉnh GDP

2.2.1.

Chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index – CPI)

Một biến số kinh tế vĩ mô quan trọng tiếp theo là chỉ số giá tiêu dùng. Giống như GDP, CPI
cũng được coi là một hàn thử biểu của nền kinh tế do thay đổi trong CPI có tác động trực
tiếp đến mức sống và phúc lợi kinh tế của mọi người dân trong xã hội. Bởi vậy, CPI thu hút
sự quan tâm theo dõi của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội, từ các nhà kinh tế đến những
người dân thường. Cơ quan chức năng của Chính phủ là Tổng cục Thống kê tiến hành xây
dựng CPI như thế nào và đo lường tỷ lệ lạm phát ra sao và sử dụng chỉ số này như thế nào
để so sánh những con số tính bằng đơn vị đồng (tiền) ở những thời điểm khác nhau là những
nội dung chủ yếu được đề cập trong phần này. Tiếp đó là chỉ ra những sự khác biệt chủ yếu
giữa hai chỉ số giá là chỉ số điều chỉnh GDP và CPI và những hạn chế của việc dùng những
thay đổi trong CPI là các thước đo của lạm phát.

ECO102_Bai2_v2.0013107216

43


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

2.2.1.1. Định nghĩa chỉ số giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng đo lường mức giá trung bình của giỏ hàng hóa và dịch vụ mà một

người tiêu dùng điển hình mua.
Chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ tiêu tương đối
phản ánh xu thế và mức độ biến động của giá
lẻ hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ dùng trong
sinh hoạt của dân cư và các hộ gia đình. Bởi
vậy, nó được dùng để theo dõi sự thay đổi của
phí sinh hoạt theo thời gian.

bán

chi

Khi chỉ số giá tiêu dùng tăng, nghĩa là mức giá
trung bình tăng. Kết quả là người tiêu dùng
Tiêu dùng
phải chi nhiều tiền hơn để có thể mua được một
lượng hàng hóa và dịch vụ như cũ nhằm duy trì mức sống trước đó của họ.
Ở Việt Nam, hàng tháng Tổng cục thống kê tính toán và công bố những số liệu mới về CPI.
Trên cơ sở những con số thống kê này, các nhà phân tích nhanh chóng đưa ra các bình luận
về nguyên nhân thay đổi giá cả và đồng thời dự báo triển vọng thay đổi giá cả trong tương
lai trên các mặt báo hàng ngày hoặc đưa lên Tivi. Chúng ta có thể đọc thấy những con số
thống kê này trên các Niên giám Thống kê do Tổng cục thống kê phát hành hàng năm.
2.2.1.2. Xây dựng chỉ số giá tiêu dùng

Bây giờ, chúng ta tìm hiểu xem các nhà thống kê kinh tế tính CPI như thế nào? Trước hết để
xây dựng chỉ số giá tiêu dùng, các nhà thống kê kinh tế chọn năm cơ sở/kỳ gốc. Tiếp đó, họ
tiến hành các cuộc điều tra tiêu dùng trên khắp các vùng của đất nước để xác định “giỏ”
hàng hóa và dịch vụ điển hình mà dân cư mua trong năm cơ sở. Hiện nay, giỏ hàng đặc
trưng để tính CPI của Việt Nam được hình thành bởi 10 nhóm hàng cấp I; 34 nhóm hàng
cấp II và 86 nhóm hàng cấp 3. CPI và xu thế biến động của mức giá hàng tiêu dùng được

tính toán như thế nào? Để biết được một cách chính xác, chúng ta hãy xét 1 ví dụ đơn giản
với các bước tiến hành cụ thể sau:

qt

 Bước 1: Chọn năm cơ sở và xác định giỏ hàng cho năm cơ sở ( i ) với t biểu thị năm hay
thời kỳ thứ t, với t = 0 ở năm cơ sở; và i là dạng viết gọn của mặt hàng tiêu dùng thứ i
trong giỏ hàng cơ sở. Giả sử năm cơ sở là năm 2002, trong ví dụ chúng ta thì:

qit  qi0
Chúng ta giả định rằng ở năm cơ sở, giỏ hàng của người tiêu dùng điển hình chỉ bao gồm
có 2 mặt hàng là gạo và cá với lượng hàng mua tương ứng là 10 kg và 5 kg cá. Chúng ta
cố định giỏ hàng này cho các năm tiếp theo, vì mục đích của chúng ta là xác định ảnh
hưởng của những thay đổi giá đến chi phí giỏ hàng ở các năm khác nhau.
t

 Bước 2: Xác định giá của từng mặt hàng trong giỏ hàng cố định cho các năm ( pi ) với
giá của mặt hàng gạo và giá cả như đã được ghi chép lại ở bảng 2.5.
Bây giờ chúng ta tiến hành tính CPI cho từng năm và tỷ lệ lạm phát qua các năm.
 Bước 3: Tính chi phí mua giỏ hàng cố định theo giá thay đổi theo các năm. Chi phí cho
giỏ hàng của mỗi năm được tính bằng cách nhân giá của từng mặt hàng của năm tương
44

ECO102_Bai2_v2.0013107216


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

ứng với lượng cố định của các mặt hàng đó ở năm cơ sở và sau đó cộng các giá trị tìm
được với nhau. Do chỉ có giá các mặt hàng thay đổi qua các năm nên chi phí giỏ hàng ở

năm t là

pq .
t 0
i i

 Bước 4: Tính chỉ số giá tiêu dùng cho các năm. Sau khi có số liệu về chi phí cho giỏ
hàng cho từng năm, chúng ta có thể tính CPI, đó là một chỉ số. Cũng giống như ở chỉ số
điều chỉnh GDP để tiện lợi, các nhà thống kê kinh tế thường thể hiện giá trị của chỉ số ở
năm cơ sở là 100 thay vì 1,0.
CPI của một năm/thời kỳ nào đó chính là tỷ số giữa giá trị (chi phí) giỏ hàng của năm đó
và giá trị (chi phí) giỏ hàng của năm cơ sở nhân với 100. Đó là:

CPI t  ( 

pit qi0

p q

0 0
i i

) .100

Bảng 2.5: Ví dụ về cách xác định chỉ số giá tiêu dùng CPI

Chỉ tiêu
Hàng hóa

Năm cơ sở


Số lượng

Giá ($)

Giai đoạn hiện hành

Chi tiêu ($)

Giá ($)

Chi tiêu ($)

Cam

5

0,8

4

1,2

6

Cắt tóc

6

11


66

12,5

75

100

1,4

140

1,5

150

Vé xe buýt

210

Tổng

CPI 0 

231

210
231
.100  100 ; CPI1 

.100  110
210
210

Bảng 2.5 mô tả cách xác định chỉ số giá tiêu dùng CPI trong năm hiện hành và năm cơ sở
đối với 3 loại hàng hóa là lượng cam tiêu thụ, số đầu cắt tóc và số vé xe buýt đi trong 1 năm.
Giá cả hiện tại của 3 loại hàng hóa đều tăng lên, nhưng chúng ta xét số lượng 3 loại hàng
hóa này không đổi ở thời điểm hiện tại và một thời điểm nào đó lấy làm gốc. Khi đó, chỉ số
210
giá tiêu dùng tại năm cơ sở và thời điểm hiện tại là: CPI 0 
.100  100 ;
210

CPI1 

ECO102_Bai2_v2.0013107216

231
.100  110
210

45


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân
Bảng 2.6: Ví dụ về cách xác định giá trị các chỉ số CPI từ năm 2002 – 2004

Năm

Giá gạo


Giá cá

Chi tiêu

(1000đ/kg) (1000đ/kg) (1000đ)

CPI

2002

3

15

105

100

2003

4

17

125 119,0

2004

5


22

160 152,4

Trong ví dụ ở Bảng 2.6, CPI của năm 2003 là 119. Theo định nghĩa thì CPI của năm 2002 là
năm cơ sở là 100. CPI năm 2003 là 119 cho biết rằng mức giá của năm 2003 cao hơn mức
giá của năm cơ sở 2002 là 19%. Tương tự, so với năm cơ sở 2002 thì mức giá của năm 2004
đã tăng lên là 52,4%.
2.2.1.3. Tính toán chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam

Ở Việt Nam, hàng tháng nhân viên Tổng cục Thống kê cùng các Chi cục Thống kê tại các
tỉnh, thành trong cả nước tiến hành quan sát và ghi chép giá cả của các mặt hàng trong từng
nhóm hàng thuộc giỏ hàng đã cố định. Khi đã có đầy đủ số liệu, họ tính CPI thông qua việc
tính chi cho giỏ hàng hóa và dịch vụ theo giá
hiện hành của thời kỳ tính toán. Giá trị tính
được này sau đó được đem so sánh với giá trị
của
giỏ hàng trong thời kỳ cơ sở.
Hiện nay, Tổng cục Thống kê tính chỉ số giá
dùng theo công thức Laspeyres, như sau:
CPI  

tiêu

CPI i .d0i

d

0i


Trong đó:
CPIi là chỉ số giá cả tiêu dùng tính
theo nhóm hàng tiêu dùng i.

Thống kê chỉ số tiêu dùng

d0i là quyền số cố định của nhóm hàng i tính theo năm cơ sở/kỳ gốc.
Chỉ số giá tiêu dùng được tính chung cho tất cả các nhóm hàng và tính riêng cho từng nhóm
hàng. Khi tính toán chỉ số giá tiêu dùng. Tổng cục thống kê cố gắng tính tất cả các loại hàng
hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng điển hình mua. Ngoài ra, họ còn tìm cách gắn quyền số
cho những hàng hóa và dịch vụ này theo số lượng của mỗi loại hàng mà người tiêu dùng
mua. Quyền số dùng trong tính toán chỉ số giá tiêu dùng là tỷ trọng chi tiêu cho từng nhóm
hàng so với tổng chi tiêu trung bình của một người trong một năm, tính bằng tỷ lệ phần
trăm. Quyền số được cố định và sử dụng để tính chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam từ ngày
1/5/2006, được biểu thị ở bảng 2.7.

46

ECO102_Bai2_v2.0013107216


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân
Bảng 2.7: Quyền số tính chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam

STT

Nhóm hàng hóa và dịch vụ
(Chỉ số chung)


Quyền số (%)

1.

Lương thực - thực phẩm

42,85

2.

Đồ uống và thuốc lá

4,56

3.

May mặc, mũ nón, giày dép

7,21

4.

Nhà ở và vật liệu xây dựng

9,99

5.

Thiết bị và đồ dùng gia đình


8,62

6.

Dược phẩm, y tế

5,42

7.

Phương tiện đi lại, bưu điện

9,04

8.

Giáo dục

5,41

9.

Văn hóa, thể thao, giải trí

3,59

10.

Đồ dùng và dịch vụ khác


3,31

Nguồn: Tổng cục Thống kê
Bảng 2.7 phân tích chi tiêu của người tiêu dùng theo các nhóm hàng hóa và dịch vụ chủ yếu
ở Việt Nam. Nhóm hàng được tiêu dùng nhiều nhất là lương thực và thực phẩm, chiếm tới
42,85% ngân sách của người tiêu dùng điển hình. Nhóm này bao gồm chi tiêu về lương thực
chiếm 9,86% và chi tiêu về thực phẩm chiếm 25,2%.
2.2.2.

Chỉ số điều chỉnh GDP (GDP Deflator – DGDP)

Chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP) đo lường mức giá trung bình của tất cả mọi hàng hóa và dịch
vụ được tính vào GDP. Chỉ số điều chỉnh GDP được tính bằng tỷ số giữa GDP danh nghĩa
và GDP thực tế. Nó phản ánh mức giá hiện hành so với mức giá của năm cơ sở. Chỉ số điều
chỉnh GDP ở những năm sau (thời kỳ sau) phản ánh sự gia tăng của GDP danh nghĩa so với
năm gốc, nó chỉ cho biết sự thay đổi sản lượng do giá thay đổi chứ không cho biết sự gia
tăng của GDP thực tế.
Do GDP danh nghĩa phải bằng GDP thực tế ở năm cơ sở theo định nghĩa nên chỉ số điều
chỉnh GDP ở năm cơ sở luôn bằng 1. Tuy nhiên, để tiện lợi, các nhà thống kê kinh tế thường
thể hiện giá trị của chỉ số điều chỉnh GDP hay chỉ số giảm phát ở năm cơ sở là 100 thay vì
là 1. Rõ ràng là đọc chỉ số điều chỉnh GDP của năm 2004 là 196,9 dễ hơn là 1,969 (so với
năm cơ sở là 1994).
Do vậy, tỷ số giữa giá trị của GDP danh nghĩa và GDP thực tế được nhân với 100. Chúng ta
có công thức tính chỉ số điều chỉnh GDP là:
t
GDP

D
ECO102_Bai2_v2.0013107216


GDPnt

 100
GDPrt
47


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân
Bảng 2.8: Ví dụ về cách xác định giá trị chỉ số điều chỉnh GDP

Chỉ tiêu
Hàng
hóa
Cam
Máy tính
Bút
Tổng

Giai đoạn hiện hành

Số lượng

Năm cơ sở

Giá ($)

Chi tiêu ($)

Giá ($) Chi tiêu ($)


4240

1,05

4452

1

4240

5

2100

10500

2000

10000

1060

1

1060

1

1060


16012

15300

DGDP = (16012/15300) X 100 = 104,7
Bảng 2.8 mô tả cách xác định chỉ số điều chỉnh GDP. Chúng ta xác định giá trị GDP danh
nghĩa và GDP thực tế trước, sau đó tính được:
DGDP = (16012/15300) X 100 = 104,7
Chúng ta có thể minh họa những điều đã được đề cập trên bằng một ví dụ đơn giản, đó là
nghiên cứu một nền kinh tế tưởng tượng chỉ sản xuất hai hàng hóa cuối cùng là gạo, nước
mắm. Đối với mặt hàng gạo, đơn vị đo lường về lượng được tính bằng kg và giá được tính
theo đơn vị nghìn đồng một kg. Về mặt hàng nước mắm đơn vị đo lường về lượng được tính
bằng lít và giá được tính theo nghìn đồng một lít. Chúng ta tìm hiểu xem các nhà thống kê
kinh tế tính toán các chỉ tiêu về GDP danh nghĩa (GDPn), GDP thực tế (GDPr) theo cách
tiếp cận chỉ tiêu, chỉ số điều chỉnh GDP (DGDP) và tỷ lệ tăng trưởng GDP hay tốc độ tăng
trưởng kinh tế hàng năm (g) như thế nào. Dựa theo các công thức đã nêu và chọn năm 2002
là năm cơ sở chúng ta tính được các chỉ tiêu trên căn cứ vào số liệu ở bảng 2.9.

48

ECO102_Bai2_v2.0013107216


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân
Bảng 2.9: Xác định GDP danh nghĩa, GDP thực tế, và chỉ số điều chỉnh GDP

Năm

Gạo (kg)
Giá


Lượng

Nước mắm (lít)
Giá

Lượng

Tính các chỉ tiêu
GDPn

GDPr

DGDP

2002

3

1000

7

180

4260

4260

100


2003

4

1200

7,5

190

6225

4930

126,3

2004

5

1350

8

210

8430

5520


152,7

Nhìn vào kết quả tính toán ở bảng 2.9, chúng ta thấy rằng GDP danh nghĩa và GDP thực tế
bằng nhau và bằng 4260 trong năm cơ sở là năm 2002. Vì vậy, chỉ số điều chỉnh GDP bằng
100. Trong năm 2003, GDP danh nghĩa là 6225 trong khi GDP thực tế là 4930, chúng ta có
chỉ số điều chỉnh GDP là 126,3. Điều này có nghĩa là mức giá chung của nền kinh tế trong
năm 2003 đã tăng lên 26,3% so với năm 2002.
2.2.3.

Cách tính tỷ lệ lạm phát

Tính tỷ lệ lạm phát () là công việc cuối cùng, giúp chúng ta hiểu được ứng dụng của CPI
trong phân tích kinh tế. Cụ thể, chúng ta dùng CPI để tính tỷ lệ lạm phát. Lạm phát là sự gia
tăng liên tục của mức giá chung theo thời gian. Do vậy, tỷ lệ lạm phát là phần trăm thay đổi
của mức giá chung so với thời kỳ trước đó. Trong ví dụ này, tỷ lệ lạm phát hay tốc độ tăng
giá của giỏ hàng tiêu dùng của năm sau so với năm trước được tính bằng công thức sau:

CPI t  CPI t 1
 100%
 
CPI t 1
t

Trong đó, t là tỷ lệ lạm phát năm t, và CPIt là chỉ số giá
dùng năm t. Ở ví dụ trên, tỷ lệ lạm phát tính được của
chúng ta là 19% trong năm 2003 và 28% trong năm 2004
mức giá chung của giỏ hàng hóa đã tăng lên 19% trong năm
2003 và 28% trong năm 2004. Điều này cũng có nghĩa là so
năm 2002, chi phí người tiêu dùng điển hình phải bỏ ra để

mua cùng một giỏ hàng đã tăng lên 19% trong năm 2003 và
tục tăng lên thêm 28% trong năm 2004.

ECO102_Bai2_v2.0013107216

tiêu
hay
với
tiếp
Tỷ lệ lạm phát

49


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân
Bảng 2.10: Xác định tỷ lệ lạm phát dựa vào chỉ số điều chỉnh GDP (theo bảng 2.9)

Gạo (kg)
Giá

Lượng

Nước mắm (lít)
Giá

Lượng

Tính các chỉ tiêu
GDPn


GDPr

DGDP

πt

2002

3

1000

7

180

4260

4260

100

-

2003

4

1200


7,5

190

6225

4930

126,3

26,3%

2004

5

1350

8

210

8430

5520

152,7

20,9%


2.3.

Các chỉ tiêu đo lường khác

2.3.1.

Lãi suất và tỷ lệ lãi suất thực tế

Hiệu chỉnh các biến số kinh tế khỏi ảnh hưởng của lạm phát cũng diễn tra trong lĩnh vực
tiền tệ và tín dụng, cụ thể đối với lãi suất tiền gửi và tiền vay. Khi gửi tiền tiết kiệm vào tài
khoản ở ngân hàng người ta nhận được một khoản tiền lãi từ khoản tiền vay. Trái lại, khi
vay tiền của ngân hàng để kinh doanh hoặc mua sắm hàng tiêu dùng người ta phải trả lãi
cho khoản tiền vay đó. Như vậy, lãi suất thể hiện một khoản thanh toán trong tương lai cho
một sự chuyển giao tiền trong quá khứ. Bởi vậy, lãi suất luôn liên quan đến việc so sánh các
khoản tiền tại các thời điểm khác nhau.

Giao dịch tại Ngân hàng

Để dễ hiểu chúng ta xem xét một ví dụ. Giả sử anh A gửi một khoản tiền là 10 triệu đồng
vào ngân hàng Techcombank với lãi suất hàng năm là 10%. Sau một năm, anh A nhận được
1 triệu tiền lãi hay số lượng đồng mà anh A có tăng lên 10%. Rút toàn bộ số tiền cả gốc và
lãi, anh A có 11 triệu đồng. Có đúng anh A được lợi một số tiền là 1 triệu đồng so với số
tiền 10 triệu mà anh A gửi vào một năm trước đây không? Đúng là số lượng tiền anh A nhận
được này tăng lên 10%. Tuy nhiên, giá hàng hóa trong năm đã tăng lên 9,5% nên mỗi đồng
bây giờ mua được ít hàng hóa hơn trước hay sức mua của anh A không tăng lên 10%. Thực
tế, lượng hàng hóa mà anh A mua được chỉ tăng thêm 0,5%. Nếu lạm phát cao hơn 10%, giả
sử là 12%, thì sức mua thực tế của anh A đã giảm 2%.
50

ECO102_Bai2_v2.0013107216



Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

Lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền gọi là lãi suất danh nghĩa (Nominal Interest
Rate – ký hiệu là i) và lãi suất đã trừ tỷ lệ lạm phát gọi là lãi suất thực tế (Real Interest Rate
– ký hiệu là r). Từ đó chúng ta có thể mô tả mối quan hệ
giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế dưới dạng công
thức sau:
r=i–
Như vậy, lãi suất thực tế là khoản chênh lệch giữa lãi suất
danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát. Lãi suất danh nghĩa cho biết
số đồng tiền tăng lên như thế nào qua thời gian trong khi lãi
suất thực tế cho biết sức mua của tài khoản ngân hàng tăng
lên như thế nào qua thời gian. Trên thực tế, lãi suất danh
Sử dụng dịch vụ ngân hàng
nghĩa và lãi suất thực tế không phải luôn biến đổi chiều
theo thời gian. Trong hai năm 2004 và 2005, mặc dù lãi suất danh nghĩa cao và luôn được
điều chỉnh cao hơn nhưng lãi suất thực tế lại rất thấp và thậm chí giảm xuống thành lãi suất
âm. Đó là tình huống lạm phát cao và lạm phát gia tăng đã giảm giá trị của khoản tiền tiết
kiệm nhanh hơn lãi suất danh nghĩa tăng giá trị của khoản tiền này.
2.3.2.

Đo lường tỷ lệ thất nghiệp

Thống kê việc làm và thất nghiệp là một trong những số liệu kinh tế được mọi người quan
tâm nhất. Thứ nhất, một nền kinh tế vận hành tốt sẽ sử dụng hết các nguồn lực hiện có. Thất
nghiệp có thể là tín hiệu cho biết các nguồn lực dư
thừa và do đó chỉ ra nền kinh tế có thể có những vấn
đề

trong sự vận hành. Thứ hai, thất nghiệp được mọi
người đặc biệt quan tâm bởi vì đó là vấn đề kinh tế vĩ

ảnh hưởng đến con người trực tiếp nhất và nghiêm
trọng nhất.
Thước đo thất nghiệp dựa trên cơ sở phân loại dân số
hoạt động kinh tế (từ đủ 15 tuổi trở lên):
Tỷ lệ thất nghiệp

POP = E + U + NL

Trong đó, POP là dân số hoạt động kinh tế, E là số người có việc, U là số người thất nghiệp,
và NL là những người không nằm trong lực lượng lao động. Do đó, chúng ta có:
L=U+E
Trong đó:
L là lực lượng lao động.
L/POP là tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (là phần trăm của dân số hoạt động kinh tế nằm
trong lực lượng lao động).
Tỷ lệ có việc (em) và tỷ lệ thất nghiệp (u) được xác định như sau:

em 

ECO102_Bai2_v2.0013107216

E
L

51



Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

U
2.3.3.

U
 1  em
L

Tiết kiệm tư nhân và tiết kiệm Chính phủ

Tiết kiệm tư nhân là phần còn lại của thu nhập sau khi đã tiêu dùng. Tiết kiệm của Chính
phủ chính là cán cân ngân sách của Chính phủ; nó là phần còn lại của nguồn thu ngân sách
sau khi Chính phủ đã chi tiêu trong năm tài khóa.
Trong nền kinh tế giản đơn, nền kinh tế chỉ có hai tác nhân kinh tế là hộ gia đình và hãng
kinh doanh thì tiết kiệm Chính phủ không tồn tại, chỉ có tiết kiệm tư nhân. Khi đó, giả sử
gọi SP là tiết kiệm của các hộ gia đình thì SP chính bằng đầu tư tư nhân (I) và cũng đúng
bằng tiết kiệm quốc dân.
Trong nền kinh tế có yếu tố Chính phủ (nền kinh tế đóng), nếu gọi tiết kiệm của Chính phủ
là SG thì tiết kiệm quốc dân là SN = SG + SP; trong đó, tiết kiệm khu vực tư nhân (SP) = thu
nhập có thể sử dụng (YD) – chi tiêu hàng hóa và dịch vụ của các hộ gia đình (C); tiết kiệm
của Chính phủ cũng chính là cán cân ngân sách Chính phủ (B = T – G).
2.4.

Các phương pháp xác định GDP

2.4.1.

Sơ đồ dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô


Trong nền kinh tế, các tác nhân đã tạo nên mối quan hệ chằng chịt trong việc tạo ra các hàng
hoá và dịch vụ. Để đơn giản cho việc tính toán, người ta chỉ xem xét mô hình kinh tế giản
đơn có hai tác nhân tham gia là hộ gia đình và hãng kinh doanh. Mô hình đó chính là sơ đồ
luân chuyển Kinh tế Vĩ mô:

Hình 2.1. Sơ đồ dòng luân chuyển Kinh tế Vĩ mô

Dòng bên trong là sự luân chuyển các nguồn lực thật: Hàng hoá và dịch vụ từ các hãng kinh
doanh sang hộ gia đình và dịch vụ về yếu tố sản xuất từ hộ gia đình sang các hãng kinh
doanh. Dòng bên ngoài là các giao dịch thanh toán bằng tiền: Các hãng kinh doanh trả tiền
cho các dịch vụ yếu tố sản xuất tạo nên thu nhập của các hộ gia đình; các hộ gia đình thanh
toán các khoản chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ.
Sơ đồ trên với giả định: Tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ bằng tổng lượng tiền mà các hộ
gia đình trả cho các hãng để mua hàng hoá và dịch vụ, gợi cho ta hai cách tính khối lượng
sản phẩm trong một nền kinh tế, do đó:
 Nửa trên của sơ đồ là cơ sở của phương pháp tính giá trị hàng hoá và dịch vụ theo
luồng sản phẩm.
52

ECO102_Bai2_v2.0013107216


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

 Nửa dưới của sơ đồ là cơ sở của phương pháp tính giá trị hàng hoá và dịch vụ theo
luồng thu nhập.
2.4.2.

Phương pháp xác định GDP theo luồng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng (còn được
gọi là theo luồng sản phẩm)


Sơ đồ vòng luân chuyển kinh tế vĩ mô cho thấy, có thể xác định GDP theo giá trị hàng hoá
và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong nền
kinh tế. Chúng ta gọi tắt là phương pháp xác định
GDP theo luồng sản phẩm. Tuy nhiên, sơ đồ trên
quá
đơn giản. Ở đây chúng ta sẽ mở rộng sơ đồ đó, tính
tới
cả khu vực Chính phủ và xuất nhập khẩu.
Theo phương pháp luồng sản phẩm, GDP bao gồm
toàn bộ giá trị thị trường của các hàng hoá và dịch
cuối cùng, mà các hộ gia đình, các hãng kinh doanh
Tiêu dùng của hộ gia đình
Chính phủ mua; và khoản xuất khẩu ròng được thực
hiện trong một đơn vị thời gian (một năm). Cấu thành của GDP bao gồm:

vụ


Công thức tính: GDP = C + I + G + X – IM
 Tiêu dùng của hộ gia đình (C):
Tiêu dùng của hộ gia đình (C) bao gồm tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ cuối cùng của
các hộ gia đình mua được trên thị trường để chi dùng trong đời sống hàng ngày của họ:
cam chuối, bánh kẹo, thực phẩm, phương tiện giao thông,...
Như vậy, GDP chỉ bao gồm những sản phẩm được bán và bỏ sót nhiều hàng hoá và dịch
vụ mà các hộ gia đình tự sản xuất để tiêu dùng mà không phải để bán, hoặc những hàng
hoá dịch vụ, nhìn chung không được mua bán trên thị trường nhưng rất cần thiết cho đời
sống của gia đình. Chẳng hạn, nông sản cho các gia đình nông dân tự sản xuất, tự chi
tiêu; công việc của các nhà nội trợ, một bữa tiệc do các thành viên trong gia đình tự làm
lấy,...

Tuy nhiên, tổng hợp các khoản chi tiêu cho tiêu dùng của các hộ gia đình ghi chép cũng
đã chiếm vào khoảng 60% – 70% GDP của một đất nước.

ECO102_Bai2_v2.0013107216

53


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

 Đầu tư (I):
Tổng sản phẩm không chỉ bao gồm các hàng hoá tiêu dùng của các hộ giá đình mà còn
bao gồm cả hàng hoá đầu tư mà các hãng kinh doanh mua sắm để tái sản xuất mở rộng.
Hàng hoá đầu tư bao gồm trang thiết bị là các tài sản cố định của doanh nghiệp, nhà ở,
văn phòng mới xây dựng và chênh lệch hàng tồn kho của các hãng kinh doanh.
Như vậy, khái niệm đầu tư ở đây khác với khái niệm đầu tư nói chung. Đầu tư, theo cách
hiểu của các nhà kinh tế, ứng dụng trong tính toán tổng sản phẩm quốc nội là việc mua
sắm các tư liệu lao động mới, tạo ra tư bản dưới dạng hiện vật như nhà máy mới, công cụ
mới,...
Không nên nhầm lẫn khái niệm trên với quan niệm đầu tư của các nhà kinh doanh, như
việc sử dụng vốn để mua cổ phần, cổ phiếu hay mở một tài khoản tiết kiệm ở ngân hàng.
Đó chỉ là hành động thay đổi thành phần tính tài sản của cá nhân hay doanh nghiệp,
không làm cho tổng sản phẩm cố định của đất nước tăng lên.
Tổng đầu tư là giá trị các tư liệu lao động chưa trừ phần đã hao mòn trong quá trình sản
xuất. Còn đầu tư ròng bằng tổng đầu tư trừ đi khấu hao tài sản cố định (còn gọi là tiêu
dùng cơ bản).
Đầu tư ròng = Tổng đầu tư – Hao mòn tài sản cố định
Trong tính toán tổng sản phẩm quốc nội, ta tính tổng đầu tư chứ không phải đầu tư ròng.
Cuối cùng như đã nêu ở trên, trong thành phần của đầu tư còn có khoản chênh lệch về
hàng tồn kho. Vậy hàng tồn kho là gì? Hàng tồn kho hay dự trữ là những hàng hoá được

giữ lại để sản xuất hay tiêu thụ sau này.
Thực chất của hàng tồn kho là một loại tài sản lưu động. Đó là những vật liệu hay các
yếu tố đầu vào của sản xuất sẽ được sử dụng trong chu kỳ sản xuất tới, hoặc các thành
phẩm chờ bán ra trong thời gian tới. Nhưng, theo quy định, chúng được xếp vào hàng
hoá đầu tư, khi tính toán tổng sản phẩm quốc nội.
Tóm lại, khái niệm đầu tư là một khái niệm phức tạp. Khái niệm này chỉ rõ phần tổng
sản phẩm quốc nội – hay một phần của khả năng sản xuất của xã hội – dùng để tạo vốn
cơ bản (vốn cố định) cho nền kinh tế, chứ không phải để tiêu dùng cho hiện đại. Đầu tư
có tác dụng tái sản xuất mở rộng, như vậy cũng có tác dụng tăng tiêu dùng trong tương
lai. Đầu tư là việc giảm tiêu dùng trong tương lai, là kết quả của quá trình tích luỹ: tích
luỹ từ khu vực tư nhân và khu vực Chính phủ.
 Chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ của Chính phủ (G):
Chính phủ cũng là một tác nhân kinh tế – một người tiêu dùng lớn nhất. Hàng năm,
Chính phủ các nước phải chi tiêu những khoản tiền rất lớn vào việc xây dựng đường xá,
trường học, bệnh viện, quốc phòng, an ninh và trả lương cho bộ máy quản lý hành chính
Nhà nước. Toàn bộ chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ đều được tính vào luồng sản phẩm.
Ký hiệu là (G).
Những khoản chi tiêu sau không được tính vào GDP: Những khoản thanh toán chuyển
nhượng, ký hiệu TR, bao gồm: Bảo hiểm xã hội cho người già, tàn tật, những người
thuộc diện chính sách, trợ cấp thất nghiệp,… Những khoản này chi ra nhưng không
54

ECO102_Bai2_v2.0013107216


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

tương ứng với một hàng hoá và dịch vụ nào mới được sản xuất ra trong nền kinh tế, do
đó không làm tăng GDP.
Chi tiêu của Chính phủ được tài trợ chủ yếu bằng thuế (ký hiệu TA). Thuế bao gồm hai

loại: Trực thu và gián thu. Nhưng khi tính GDP theo cung trên tức là tính theo luồng
hàng hoá và dịch vụ, chúng ta chưa cần quan tâm xử lý vấn đề thuế khoá. Vì rằng, bản
thân giá cả thị trường đã bao gồm trong đó các loại thuế gián thu, đánh vào hàng hoá tiêu
dùng.
 Xuất và nhập khẩu (X và IM):
Hàng xuất khẩu là những hàng hoá được sản xuất ở trong nước, nhưng được bán ra cho
người tiêu dùng ở nước ngoài. Hàng nhập khẩu là những hàng được sản xuất ở nước
ngoài, nhưng được mua để phục vụ tiêu dùng nội địa.
Căn cứ vào quan điểm đó, chúng ta thấy hàng xuất khẩu làm tăng tổng sản phẩm quốc
nội (GDP), trái lại hàng nhập khẩu không nằm trong sản lượng nội địa, cần phải được trừ
đi khỏi khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các hộ gia đình, các doanh nghiệp và Chính
phủ đã mua và tiêu dùng.
Ví dụ: Giả sử GDP = 3000, C = 1700, G = 50, thu nhập ròng từ tài sản nước ngoài bằng 0
và NX = 40
1. Mức đầu tư trong nền kinh tế bằng bao nhiêu?
I = GDP – C – G – NX = 2000 – 1790 = 1210
2. Giả sử xuất khẩu bằng 350, nhập khẩu bằng bao nhiêu?
IM = X – NX = 350 – 40 = 310
3. Giả sử mức khấu hao bằng 130, NNP bằng bao nhiêu?
NNP = GDP – DP = 3000 – 130 = 2870
2.4.3.

Phương pháp xác định GDP theo luồng thu nhập (phương pháp chi phí đầu vào)

Khác với phương pháp trên, tính GDP theo giá trị sản phẩm đầu ra, phương pháp này tính
GDP theo chi phí các yếu tố đầu vào của sản xuất, mà các doanh nghiệp phải thanh toán,
như tiền công, tiền trả lãi do vay vốn, tiền thuê nhà, thuê đất và lợi
nhuận – phần thưởng cho sự mạo hiểm trong kinh tế. Tổng chi phí mà doanh nghiệp phải
thanh toán trở thành thu nhập của công chúng.


ECO102_Bai2_v2.0013107216

55


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

Sản xuất trong doanh nghiệp

Gọi:

Chi phí tiền công, tiền lương là W
Chi phí thuê vốn (Lãi suất) là i
Chi phí thuê nhà, thuê đất là r
Lợi nhuận là 

Công thức chung xác định GDP theo yếu tố chi phí trong trường hợp đơn giản nhất, tức là
trường hợp nền kinh tế chỉ bao gồm các hộ gia đình và các doanh nghiệp, chưa tính tới khấu
hao như sau:
GDP theo chi phí cho yếu tố sản xuất = W + i + r + 
Trong nền kinh tế có yếu tố Chính phủ và khu vực nước ngoài, khi tính GDP theo phương
pháp này cần có 2 hai điều chỉnh:
 Một là, vì GDP theo chi phí cho yếu tố sản xuất chưa tính đến khoản thuế mà Chính phủ
đánh vào hàng hoá tiêu dùng thu qua doanh nghiệp. Đó là thuế gián thu (Te).
 Hai là, GDP tính theo yếu tố sản xuất chưa tính đến hao mòn tài sản cố định. Vì rằng hao
mòn TSCĐ không tương ứng với khoản thu nhập nào của hộ gia đình. Chi phí khấu hao
TSCĐ phát sinh, các hãng phải bù đắp các hao mòn bộ phận hay toàn bộ TSCĐ.
Khi tính GDP ta phải thêm vào công thức trên phần thuế gián thu (Te) và khấu hao TSCĐ
(Dp).
GDP = W + i + r +  + Te + Dp

2.4.4.

Phương pháp xác định GDP theo giá trị gia tăng

GDP là tổng giá trị của hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong một nước.
Nhưng để các hàng hoá cuối cùng đến tay người tiêu dùng, chúng ta phải trải qua nhiều
công đoạn sản xuất. Mỗi công đoạn, mỗi doanh nghiệp chuyên môn hoá chỉ đóng góp một
phần giá trị của mình để tạo ra một hàng hoá hoặc dịch vụ hoàn chỉnh.

56

ECO102_Bai2_v2.0013107216


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân

Vì vậy, khi tính GDP theo cung dưới – luồng thu
nhập hoặc chi phí cần rất thận trọng để tránh tính
trùng.
Giá trị gia tăng là khoản chênh lệch giữa giá trị của
sản lượng của một doanh nghiệp với khoản mua vào
về vật liệu và dịch vụ từ các doanh nghiệp khác, mà
đã được dùng hết trong việc sản xuất ra sản lượng
đó.

Xác định GDP theo giá trị
gia tăng

Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu, được
tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất,

lưu thông đến tiêu dùng; khoản thuế này do đối tượng tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ chịu.
Thuế giá trị gia tăng được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng và được viết tắt là VAT
(Value Added Tax).
Giá trị gia tăng của một doanh nghiệp là số đo phần đóng góp của doanh nghiệp đó vào tổng
sản lượng của nền kinh tế. Tổng giá trị gia tăng của mọi đơn vị sản xuất và dịch vụ trong
vòng một năm là tổng sản phẩm quốc nội GDP.
Như vậy, để tránh tính trùng, cần chú ý chỉ đưa vào tổng sản phẩm quốc nội những hàng
hoá cuối cùng, loại bỏ các hàng hoá trung gian dùng để tạo nên hàng hoá cuối cùng đó; hoặc
chỉ cộng giá trị gia tăng ở từng giai đoạn của sản xuất. Cộng giá trị gia tăng của các đơn vị
sản xuất trong cùng một ngành, rồi cộng giá trị gia tăng của các ngành trong nền kinh tế,
chúng ta thu được một con số đúng bằng GDP.
Ví dụ 1: Giả sử trong một nền kinh tế chỉ có 5 doanh nghiệp: nhà máy thép, xí nghiệp cao
su, xí nghiệp cơ khí, xí nghiệp bánh xe và xí nghiệp xe đạp. Nhà sản xuất xe đạp bán xe đạp
của anh ta cho người tiêu dùng cuối cùng với giá 8000. Trong quá trình sản xuất xe đạp, anh
ta đã mua bánh xe với giá 1000, thép với giá 2500 và một số máy móc trị giá 1800 của xí
nghiệp cơ khí. Xí nghiệp bánh xe mua cao su của xí nghiệp thép với giá 1000 để sản xuất
máy móc.
a. Hãy tính GDP của nền kinh tế giả định trên đây bằng phương pháp giá trị gia tăng.
b. Tổng chi tiêu trong nền kinh tế là bao nhiêu?
c. Hai phương pháp tính GDP trong câu 1 và 2 đem lại kết quả như nhau?
Trả lời:
Trước hết để giải bài toán này chúng ta lập bảng:

ECO102_Bai2_v2.0013107216

57


Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân
Bảng 2.11: Xác định GDP theo phương pháp giá trị gia tăng


Hàng hoá

Người bán

Người mua

Giá trị
giao dịch

Giá trị
gia tăng

Thép

Nhà máy thép

Nhà máy cơ khí

1000

1000

Thép

Nhà máy thép

XN xe đạp

2500


2500

Cao su

XN cao su

XN bánh xe

600

600

Máy móc

Nhà máy cơ khí

XN xe đạp

1800

800

Bánh xe

XN bánh xe

XN xe đạp

1000


400

Xe đạp

XN xe đạp

Người tiêu dùng

8000

4500

Tổng

9800

a. Dựa vào bảng, chúng ta dễ dàng tính được GDP bằng cách lấy tổng giá trị gia tăng, tăng
thêm hay mới tạo ra qua mỗi giao dịch: GDP = VA = 9800
b. Tổng chi tiêu trong nền kinh tế:
E = chi tiêu để mua xe đạp + chi tiêu để mua máy móc
E = 8000 + 1800 = 9800
c. Vậy các kết quả tính ở câu 1 và 2 đều bằng nhau.
Ví dụ 2: Về cách tính thuế giá trị gia tăng: Để sản xuất ra sản phẩm may mặc phải qua 3 cơ
sở sản xuất, thuế GTGT phải nộp ở từng cơ sở, tính theo phương pháp khấu trừ thuế như
sau:

58

ECO102_Bai2_v2.0013107216



Bài 2: Hạch toán thu nhập quốc dân
Bảng 2.12: Tính thuế theo phương pháp giá trị gia tăng

Cơ sở kinh doanh

Doanh số

Thuế đầu
vào

Thuế đầu
ra

Thuế phải
nộp

(1)

(2)

(3)

(4)

1. Cơ sở sản xuất sợi
- Bông nhập khẩu, vật tư
mua vào


200

20

-

-

250

-

- Sợi mua vào để sản xuất

250

25

-

-

- Vải sản xuất bán ra

280

-

28


28 - 25 = 3

- Vải mua vào

280

28

-

-

- Quần áo bán ra

320

-

32

32 - 28 = 4

4. Người tiêu dùng mua
quần áo

320

25 25 - 20 = 3

- Sợi sản xuất bán ra

2. Cơ sở dệt vải

3. Cơ sở may mặc

 Ghi chú:

32

(1) Doanh số mua vào, bán ra chưa có thuế.
(2) Thuế đầu vào được tính khấu trừ.
(3) Thuế đầu ra người mua hàng phải trả.
(4) Số thuế cơ sở kinh doanh còn phải nộp NSNN.

Theo ví dụ trên đây, thuế GTGT của các mặt hàng này tính theo mức thuế suất là 10%, số
thuế GTGT phải nộp ở các khâu đầu vào sản xuất sợi là:
Khâu bông nhập khẩu và vật tư mua vào:

20

Sản xuất sợi:

5

Dệt vải:

3

May mặc:

4


Cộng:

32

Giá quần áo người tiêu dùng mua (chưa kể thuế GTGT) là 320, phải trả thuế GTGT là 32.
Như vậy, khi mua quần áo, người tiêu dùng phải thanh toán là 320 + 32 = 352. Số thuế
GTGT là 32 mà người tiêu dùng phải chịu đúng bằng số thuế GTGT đã nộp ở khâu: Bông
nhập khẩu và vật tư của các đơn vị khác, sản xuất sợi, dệt vải, may quần áo bán,....
CHÚ Ý
Nếu quá trình thu thập, tính toán và ghi chép các số liệu thống kê được chính xác, đầy đủ
thì kết quả tính toán theo 3 phương pháp trình bày trên đây đều giống nhau.
ECO102_Bai2_v2.0013107216

59


×