Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Những nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà nước về kinh tế liên hệ thực tiễn vấn đề này trong lĩnh vực thương mại ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.71 KB, 21 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi một quốc gia trên thế giới đều có môi trường chính trị, kinh tế và xã hội
khác nhau nên đối với mỗi nền kinh tế, nhà nước lại có các nguyên tắc quản lý cơ bản
khác nhau.
Muốn tìm hiểu mỗi quốc gia có cách quản lý kinh tế ra sao thì chúng ta nên
tìm hiểu qua các nguyên tắc của quản lý nhà nước về kinh tế.
Nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế chính là những đặc trưng riêng của
quyền lực nhà nuớc, các nguyên tắc này phải phù hợp với mục tiêu của quản lý; phải
phản ánh đúng tính chất các quan hệ kinh tế; phải đảm bảo tính hệ thống, tính nhất
quán và phải được đảm bảo bằng pháp luật.
Sau gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước tiến vuợt bậc trong kinh
tế. Sự phát triển vuợt bậc này chính là do sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà
nước trong việc điều hành nền kinh tế một cách linh hoạt, hiệu quả. Việt Nam phát
triển kinh tế thị truờng định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế mà vai trò kinh tế
nhà nuớc là chủ đạo nên các nguyên tắc quản lý nhà nuớc về kinh tế cần phải phù hợp
với mục tiêu của quản lý; phải phản ánh đúng tính chất các quan hệ kinh tế; phải đảm
bảo tính hệ thống, tính nhất quán và phải được đảm bảo bằng pháp luật.
Trong thời kỳ hiện nay, càng tìm hiểu rõ những nguyên tắc cơ bản của quản lý
nhà nước về kinh tế, chúng ta sẽ tìm ra đuợc nhiều phuơng pháp để giúp đất nước phát
triển bền vững, theo đúng con đường mà Đảng và Nhà nuớc đã chọn. Chính vì lý do
đó, nhóm em xin phép được đi sâu vào đề tài: “ Những nguyên tắc cơ bản trong quản
lý nhà nước về kinh tế? Liên hệ thực tiễn vấn đề này trong lĩnh vực thương mại ở
nước ta hiện nay”.
Và để hiểu rõ vấn đề này chúng em đã đi sâu nghiên cứu các nội dung sau:
Chương 1: Cở sở lý thuyết về nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà nước về
kinh tế.
Chương 2: Thực trạng vận dụng những nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà
nước về thương mại ở nước ta hiện nay
Chương 3: Phương hướng, giải pháp vận dụng hiệu quả các nguyên tắc trong


quản lý nhà nước về thương mại ở nước ta.


2

CHƯƠNG 1 : CỞ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGUYÊN TẮC TRONG QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ.
Các nguyên tắc quản lý Nhà nước về kinh tế các quy tắc chỉ đạo, các tiêu
chuẩn hành vi mà các cơ quan quản lý Nhà nước phải tuân thủ trong quá trình quản lý
kinh tế.
Các nguyên tắc quản lý Nhà nước về kinh tế do con người đặt ra nhưng không
phải do ý muốn chủ quan mà phải dựa trên các yêu cầu khách quan của các quy luật
chi phối quá trình quản lý kinh tế. Đồng thời, các nguyên tắc này phải phù hợp với
mục tiêu của quản lý; phải phản ánh đúng tính chất các quan hệ kinh tế; phải đảm bảo
tính hệ thống, tính nhất quán và phải được đảm bảo bằng pháp luật.
Quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta cần vận dụng các nguyên tắc cơ bản sau đây:
-

Nguyên tắc thống nhất chính trị và kinh tế

-

Nguyên tắc tập trung dân chủ.

-

Nguyên tắc kết hợp quản lý ngành với quản lý theo lãnh thổ.
- Nguyên tắc phân định và kết hợp quản lý Nhà nước về kinh tế với quản lý
sản xuất kinh doanh.

- Nguyên tắc hài hòa lợi ích giữa người lao động, doanh nghiệp và xã hội.
- Nguyên tắc tăng cường pháp chế XHCN trong quản lý Nhà nước về kinh tế.
1.1. Nguyên tắc thống nhất chính trị và kinh tế.
Thống nhất lãnh đạo, chính trị và kinh tế, đảm bảo quan hệ đúng đắn giữa
kinh tế và chính trị và tạo được động lực cùng chiều cho mọi người dân trong xã hội
là một trong những nguyên tắc cơ bản của việc quản lý kinh tế có căn cứ khoa học
trong phạm vi quốc gia.
Nội dung của nguyên tắc:
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng.
- Bảo đảm sự quản lý của Nhà nước.


3

- Vừa phát triển kinh tế vừa giữ gìn bảo vệ chủ quyền độc lập đất nước
1.2. Tập trung dân chủ.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc: Phải đảm bảo mối quan hệ kết hợp
chặt chẽ và tối ưu giữa tập trung và dân chủ trong quản lý kinh tế. Tập trung phải trên
cơ sở dân chủ, dân chủ phải thực hiện trong khuôn khổ chung.
Biểu hiện của quản lý tập trung: Có kế hoạch chung phát triển đất nước;
Thống nhất ban hành luật pháp; Thực hiện chế độ một thủ trưởng trong quản lý kinh
tế.
Biểu hiện của quản lý dân chủ: xóa bỏ cơ chế xin – cho; cạnh tranh bình
đẳng; tăng cường phân cấp quản lý kinh tế
1.3. Kết hợp quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ.
1.3.1. Quản lý Nhà nước theo ngành.
a) Khái niệm ngành trong kinh tế (ngành kinh tế kỹ thuật)
Ngành kinh tế kỹ thuật là tổng hợp của nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh, mà
hoạt động của chúng có những đặc trưng kỹ thuật – sản xuất giống nhau, hoặc tương
tự nhau về cùng thực hiện một phương pháp công nghệ hoặc công nghệ tương tự; sản

phẩm sản xuất ra từ một loại nguyên liệu hay nguyên liệu đồng loại; sản phẩm có
công dụng cụ thể giống nhau hoặc tương tự nhau. Chẳng hạn, về công nghệ sản xuất
có ngành công nghiệp khai thác, ngành công nghiệp hóa học, ngành công nghiệp sinh
hóa; về nguyên liệu cho sản xuất có ngành công nghiệp chế biến xen-luy-lo, ngành
công nghiệp chế biến kim loại đen, kim loại màu; về công dụng của sản phẩm có
ngành công nghiệp thực phẩm, ngành chế tạo ô tô, ngành công nghiệp điện tử
b) Khái niệm quản lí theo ngành
Quản lý theo ngành là việc quản lý về mặt kỹ thuật, về nghiệp vụ chuyên môn
của Bộ quản lý ngành ở trung ương đối với tất cả các đơn vị sản xuất kinh doanh
thuộc ngành trong phạm vi cả nước.
c) Sự cần thiết phải quản lý theo ngành


4

Các đơn vị sản xuất trong cùng một ngành có rất nhiều mối liên hệ với nhau.
Chẳng hạn, các mối liên hệ về sản phẩm sản xuất ra ( như các thông số kỹ thuật để
đảm bảo tính lắp lẫn; chất lượng sản phẩm; thị trường tiêu thụ…); các mối liên hệ về
việc hỗ trợ và hợp tác (như hỗ trợ và hợp tác trong việc sử dụng lao động; trang bị
máy móc thiết bị; ứng dụng công nghệ - kỹ thuật; áp dụng kinh nghiệm quản lý…)
d) Nội dung quản lý Nhà nước theo ngành
Quản lý Nhà nước theo ngành bao gồm các nội dung quản lý sau đây:
- Trong việc xây dựng và triển khai thực hiện pháp luật, chủ trương, chính
sách phát triển kinh tế toàn ngành.
- Trong việc xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược, quy hoach, kế
hoạch và các dự án phát triển kinh tế toàn ngành.
- Trong việc xây dựng và triển khai các chính sách, biện pháp nhằm phát triển
nguồn nhân lực, nguồn vốn, nguồn nguyên liệu và khoa học công nghệ….cho toàn
ngành.
- Trong việc xây dựng và triển khai thực hiện các quan hệ tài chính giữa các

đơn vị kinh tế trong ngành với Ngân sách Nhà nước.
- Thống nhất trong toàn ngành và liên ngành về việc tiêu chuẩn hóa quy cách,
chất lượng sản phẩm. Hình thành tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng sản phẩm.
- Trong việc thực hiện các chính sách, biện pháp phát triển và mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm chung cho toàn ngành và thực hiện sự bảo hộ sản xuất của
ngành nội địa trong những trường hợp cần thiết.
- Trong việc áp dụng các hình thức tổ chứ sản xuất khoa học và hợp lý các
đơn vị sản xuất kinh doanh trong toàn ngành.
- Trong việc thanh tra và kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn
vị kinh tế trong ngành. Định hướng đầu tư xây dựng lực lượng của ngành, chống sự
mất cân đối trong cơ cấu ngành và vị trí ngành trong cơ cấu chung cua rnền kinh tế
quốc dân.


5

- Thực hiện các chính sách, các biện pháp phát triển thị trường chung cho
toàn ngành, bảo hộ sản xuất ngành nội địa.
- Thống nhất hóa, tiêu chuẩn hóa quy cách, chất lượng hàng hóa và dịch vụ,
hình thành hệ thống tiêu chuẩn quốc gia về chất lượng sản phẩm để cơ quan có thẩm
quyền ban bố.
- Thực hiện các biện pháp, các chính sách quốc gia trong phát triển nguồn
nhân lực, nguồn nguyên liệu, nguồn trí tuệ khoa học và công nghệ chung cho toàn
ngành.
- Tham gia xây dựng các dự án Luânt, pháp lệnh, pháp quy, thẻ chế kinh tế
theo chuyên môn của mình để cùng các cơ quan nguyên tắc quản lý chuyên môn khác
hình thành hệ thống văn bản pháp luật quản lý ngành.
1.3.2. Quản lí theo lãnh thổ.
a) Khái niệm lãnh thổ
Lãnh thổ của một nước có thê chia ra thành nhiều vùng lãnh thổ khác nhau,

trong đó có lãnh thổ của các đơn vị hành chính với các cấp độ khác nhau. Chẳng hạn:
lãnh thổ Việt Nam dược chia thành 4 cấp: lãnh thổ cả nước, lãnh thổ tỉnh, lãnh thổ
huyện, lãnh thổ xã.
b) Khái niệm quản lý theo lãnh thổ
Quản lý về Nhà nước trên lãnh thổ là việc tổ chức, điều hòa, phối hợp hoạt
động của tất cả các đơn vị kinh tế phân bổ trên địa bàn lãnh thổ (ở nước ta, chủ yếu là
theo lãnh thổ của các đơn vị hành chính)
c) Sự cần thiết phải thực hiện quản lý kinh tế theo lãnh thổ
Các đơn vị kinh tế phân boỏ tren cùng một địa bàn lãnh thổ (có thể cùng một
ngành hoặc không cùng ngành) có nhêìu mối quan hệ. Có thể kể đến các mối quan hệ
chủ yếu sau:
-

Mối quan hệ về việc cung cấp và tiêu thụ sản phẩm của nhau.
- Sự hợp tác và liên kết với nhau trong việc khai thác và sử dụng các nguồn
lực sẵn có trên địa bàn lãnh thổ. Cụ thể: trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên


6

(khoáng sản, lâm sản, hải sản,…), khai thác và sử dụng điều kiện tự nhiên ( như đất
đai, thời tiết, sông hồ, bờ biển, thềm lục địa…); sử dụng nguồn nhân lực và ngành; xử
lí chất thải, bảo vệ môi trường sinh thái; sử dụng kết cấu hạ tầng kỹ thuật (giao thông,
cung ứng điện nước, bưu chính viễn thông…)
Chính vì giữa các đơn vị kinh tế trên địa bàn lãnh thổ có nhiều mối quan hệ
như trên nen đòi hỏi phải có sự tổ chức, điều hòa và phối hợp hoạt động của chúng để
đảm bảo một cơ cấu kinh tế lãnh thổ hợp lí và hoạt động kinh tế có hiệu quả trên địa
bàn lãnh thổ.
d) Nội dung quản lý kinh tế theo lãnh thổ
- Xây dựng quy hoạch, kế hoạch và dự án phát triển kinh tế - xã hội trên lãnh

thổ ( không phân biệt kinh tế trung ương, kinh tế địa phương, các thành phần kinh tế
khác nhau) nhằm xây dựng một cơ cấu kinh tế lãnh thổ hợp lí và có hiệu quả.
- Điều hòa, phối hợp hoạt động sản xuất kinh doanh của tất cả các đơn vị
kinh tế trên lãnh thổ nhằm tận dụng tối đa và sử dụng một cách có hiệu quả nhất
nguồn lực sẵn có tại địa phương.
- Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật của từng vùng lãnh thổ bao
gồm: hệ thống giao thông vận tải; cung ứng điện năng; cấp thoát nước; đường sá, cầu
cống; hệ thống thông tin liên lạc….để phục vụ chung cho cả cộng đồng kinh tế trên
lãnh thổ.
- Thực hiện công tác thăm dò, đánh giá tài nguyên thiên nhiên trên địa bàn
lãnh thổ.
- Thực hiện sự phân bố các cơ sở sản xuất trên địa bàn lãnh thổ một cách hợp
lí và phù hợp với lợi ích quốc gia.
- Quản lý, kiểm soát việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên quốc gia
trên địa bàn lãnh thổ.
- Quản lý, kiểm soát việc xử lí chất thải, bảo vệ môi trường sinh thái trên địa
bàn lãnh thổ.
1.3.3. Kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ.


7

a) Khái niệm
Nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ đòi hỏi phải có sự
phối hợp chặt chẽ giữa quản lý theo ngành và quản lý theo lãnh thổ trên tất cả mọi lĩnh
vực kinh tế. Cả hai chiều quản lý đều phải có trách nhiệm chung trong việc thực hiện
mục tiêu của ngành cũng như của lãnh thổ. Sự kết hợp này sẽ tránh được tư tưởng bản
vị của bộ, ngành, trung ương và tư tưởng cục bộ địa phương của chính quyền địa
phương. Theo đó, Bộ chỉ quan tâm đến lợi ích của các đơn vị kinh tế do mình thành
lập và Ủy ban nhân dân địa phương chỉ quan tâm đến lợi ích của các đơn vị kinh tế

của địa phương. Từ đó, dẫn đến tình trạng tranh chấp, không có sự liên kết giữa các
đơn vị kinh tế trên cùng một địa bàn lãnh thổ, do đó hiệu quả thấp.
b) Nội dung kết hợp
Sự kết hợp quản lý nhà nước theo ngành và theo lãnh thổ được thực hiện như
sau:
- Thực hiện quản lý đồng thời cả hai chiều: Quản lý theo ngành và quản lý
theo lãnh thổ. Có nghĩa là, các đơn vị đó phải chịu sự quản lý của ngành (Bộ) đồng
thời nó cũng phải chịu sự quản lý theo lãnh thổ của chính quyền địa phương trong một
số nội dung theo chế độ quy định.
- Có sự phân công quản lý rành mạch cho các cơ quan quản lý theo ngành và
theo lãnh thổ, không trùng lặp, không bỏ sót về nguyên tắc quản lý, nhiệm vụ, quyền
hạn.
- Các cơ quan quản lý nhà nước theo mỗi chiều thực hiện nguyên tắc quản lý,
nhiệm vụ quản lý theo thẩm quyền của mình trên cơ sở đồng quảnl hiệp quản, tham
quản với cơ quan nhà nước thuộc chiều kia, theo quy định cụ thể của Nhà nước. Đồng
quản là cùng có quyền và cùng nhau ra quyết định quản lý theo thể thức liên tịch.
Hiệp quản là cùng nhau ra quyết định quản lý theo thẩm quyền, theo vấn đề thuộc
tuyến của mình nhưng có sự thương lượng, trao đổi, bàn bạc để hai loại quyết định
của mỗi bên tương đắc với nhau. Tham quản là việc quản lý , ra quyết định của mỗi
bên phải trên cơ sở được lấy ý kiến của bên kia.


8
1.4.

Phân định và kết hợp quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất, kinh
doanh
1.4.1. Sự cần thiết của việc phân biệt quản lý nhà nước về kinh tế với quản
lý sản xuất, kinh doanh
Quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý sản xuất- kinh doanhlà hai phạm trù,

hai mặt khác nhau của quá trình quản lý, cần có sự phân biệt vì những lý do sau đây:
Một là, trong thời kỳ đổi mới, trong cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, đã
từng không có sự phân biệt giữa hai loại quản lý nói trên. Điều này thể hiện ở việc
Nhà nước can thiệp một cách toàn diện, triệt để và sâu rộng vào mọi hoạt động của
sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng thời các doanh nghiệp lại được giao
cho thực hiệnc một số nguyên tắc quản lý vượt quá khả năng và tầm kiểm soát của
chúng. Đó là chế độ quản lý tập trung, quan liêu, can thiệp quá sâu vào nội bộ của
doanh nghiệp. Bên cạnh đó còn là việc giao cho bộ máy quản lý doanh nghiệp một số
nguyên tắc quản lý quản lý mà chỉ có Nhà nước mới có thể đảm nhận được.
Hai là, việc phân biệt quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh cho
phép định rõ được trách nhiệm của cơ quan nhà nước và trách nhiệm của cơ quan sản
xuất kinh doanh tại doanh nghiệp. Chỉ khi đó, mọi sai lầm trong quản lý dẫn đến tổn
thất tài sản quốc gia, lợi ích của nhân dân sẽ được truy tìm nguyên nhân, thủ phạm.
Không ai có thể trốn tránh trách nhiệm.
Ba là, trong điều kiện nền kinh tế tồn tại nhiều hình thức sở hữu, việc không
phân biệt quản lý nhà nước với quản lý sản xuất kinh doanh là vi phạm tính tự do kinh
doanh và sự chịu trách nhiệm cảu các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế thị trường và
trong khuôn khổ pháp luật, làm thui chột tính năng động, sáng tạo của giới kinh doanh
và hạn chế hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
1.4.2. Nội dung cần phân biệt giữa quản lý nhà nước về kinh tế và quản lý
sản xuất, kinh doanh
Có thể phân biệt sự khác nhau trên 5 tiêu chí sau đây:
- Về chủ thể quản lý: chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế là các cơ quan nhà
nước, còn chủ thể quản lý sản xuất kinh doanh là các doanh nhân.


9

- Về phạm vi quản lý: Nhà nước quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quản
lý ttất cả các doanh nhân, doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trên tất cả các

lĩnh vực, thuộc tất cả các ngành, còn doanh nhân thì quản lý doanh nghiệp của mình.
Quản lý nhà nước về kinh tế là quản lý vĩ mô còn quản lý sản xuất, kinh doanh là
quản lý vi mô.
- Về mục tiêu quản lý: quản lý nhà nước theo đuổi lợi ích toàn dân, lợi ích
cộng đồng (phát triển nền kinh tế quốc dân, ổn định sự phát triển kinh tế- chính trị- xã
hội, tăng thu nhập quốc dân, tăng mức tăng trưởng của nền kinh tế, giải quyết việc
làm…). Quản lý sản xuất kinh doanh theo đuổi lợi ích riêng của mình (thu được lợi
nhuận cao, ổn định và phát triển doanh nghiệp, tăng thị phần, tạo uy tín cho sản phẩm
của doanh nghiệp…)
- Về phương pháp quản lý: Nhà nước áp dụng tổng hợp các phương pháp
quản lý (phương pháp hành chính, phương pháp kinh tế, phương pháp giáo dục), trong
đó phương pháp đặc trưng của quản lý nhà nước là cưỡng chế bằng quyền lực nhà
nước. Trong khi đó, doanh nhân chủ yếu áp dụng phương pháp kinh tế và giáo dục
thuyết phục.
- Về công cụ quản lý: Công cụ chủ yếu trong quản lý nhà nước về kinh tế là:
đường lối phát triển kinh tế, chiến lược phát triển kinh tế, kế hoạch phát triển kinh tế,
pháp luật kinh tế, chính sách kinh tế, lực lượng vật chất và tài chính của Nhà nước.
Các doanh nghiệp có công cụ quản lý chủ yếu là: chiến lược kinh doanh, kế hoạch sản
xuât- kỹ thuật – tài chính, dự án đầu tư để phát triển kinh doanh, các hợp đồng kinh tế,
các quy trình công nghệ, quy phạm pháp luật, các phương pháp và phương tiện hạch
toán.
1.5.

Nguyên tắc tăng cưòng pháp chế XHCN trong quản lý nhà nước về kinh tế
1.5.1. Sự cần thiết của việc thực hiện nguyên tắc
Một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay là một nền kinh tế đa sở hữu về tư liệu sản xuất. Chính sự
xuất hiện của nhiều loại hình kinh tế thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau như:
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân tư bản, kinh tế tư nhân…đòi hỏi Nhà



10

nước phải quản lý đối với nền kinh tế bằng những biện pháp, trong đó đặc biệt phải
coi trọng phương pháp quản lý bằng pháp luật, trên cơ sở pháp luật. Thực tiễn quản lý
nhà nước đối với nền kinh tế ở nước ta trong những năm qua cho thấy, tình trạng
buông lỏng kỷ luật, kỷ cương, sự hữu khuynh trong việc thực hiện nguyên tắc quản lý
tổ chức, giáo dục, xem nhẹ pháp chế trong hoạt động kinh tế của nhiều doanh
nghiệp…đã làm cho trật tự kinh tế ở nước ta có nhiều rối loạn, gây ra những tổn thất
không nhỏ cho đât nước, đồng thời làm giảm sút nghiêm trọng uy tín va làm lu mờ
quyền lực của Nhà nước. Vì vậy, việc thực hiện nguyên tác tăng cường pháp chế
XHCN là một yêu cầu khách quan của quá trình quản lý kinh tế của Nhà nước ta.
1.5.2. Yêu cầu của việc thực hiện nguyên tắc
Để thực hiện nguyên tắc trên cần phải tăng cường công tác lập pháp và tư
pháp.
- về lập pháp, phải từng bước đưa mọi quan hệ kinh tế vào khuôn khổ pháp
luật. Các đạo luật phải được xây dựng đầy đủ, đồng bộ, có chế tài rõ ràng, chính xác
và đúng mức.
- Về tư pháp, mọi việc phải được thực hiện nghiêm mimh (từ khâu giám sát,
phát hiện, điều tra, công tó đến khâu xét xử, thi hành án…) không để xảy ra tình trạng
có tội không bị bắt, bắt rồi không xét xử hoặc xét xử quá nhẹ, xử rồi mà không thi
hành án hoặc thi hành án nửa vời v.v …


11

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ
BẢN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY.
2.1.


Thống nhất lãnh đạo chính trị và kinh tế, kinh doanh
Đường lối chính trị của Đảng cầm quyền bao giờ cũng được thể hiện cụ thể
trong lãnh đạo các hoạt động kinh tế, kinh doanh. Trên cơ sở đường lối chính trị, nhà
nước xây dựng chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong từng giai đoạn
cụ thể. Do vậy, Đảng lãnh đạo về đường lối chính trị luôn được thể hiện trong nội
dung các hoạt động kinh tế, kinh doanh, các chính sách quản lý kinh tế cụ thể. Điều
này cũng hoàn toàn phù hợp khi nghiên cứu nguyên tắc quản lý Nhà nước trong
thương mại.
Sự thống nhất lãnh đạo của Đảng trong kinh tế, thương mại được thể hiện rõ ở
chỗ Nhà nước thống nhất quản lý thương mại bằng chính sách, luật pháp và công cụ
kế hoạch hóa (gồm chiến lược, quy hoạch, các chương trình, dự án và kế hoạch) phát
triên thương mại.
Trong thực tiễn, sự thống nhất về chính trị và kinh tế, kinh doanh biểu hiện ở
mức độ cao thấp rất khác nhau, nhưng xu hướng chung là những bất đồng về chính trị
điều gây ra những trở ngại thậm chí là thất bại trong các đàm phán, hợp tác về phát
triển kinh tế, thương mại. Ở đâu và khi nào có sự thống nhất cao giữa chính trị và kinh
tế, thì tình hình phát triển kinh tế, thương mại được thúc đẩy, khả quan hơn hiệu quả
hơn.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế đa dạng, nhiều chiều, nhiều tầng nấc khác
nhau hiện nay, các nước vẫn có thể tìm thấy sự thống nhất cao về kinh tế, về lợi ích
kinh doanh nhờ tìm ra những điểm tương đồng, gạt qua những bất đồng, mặc dù nền

2.2.

tảng chế độ chính trị vẫn có sự khác biệt cơ bản.
Tập trung và dân chủ
Tập trung và dân chủ là hai mặt của một thể thống nhất, đó là nguyên tắc quan
trọng nhất của quản lý Nhà nước về kinh tế nói chung cũng như về thương mại.
Có hai góc độ nghiên cứu nguyên tắc này: (1) tập trung quản lý vào cơ quan

quản lý cấp trên, cơ quan đầu não trung ương đối với những quyết định quan trọng về
thương mại mang tính quốc gia và quốc tế, đồng thời mở rộng quyền tự chủ, tự quyết
định cho các địa phương đối với những vấn đề thương mại mà trung ương không cần,
không thể quản lý hoặc trực tiếp quản lý sẽ kém hiệu quả; (2) tập trung sự quản lý


12

trong tay Nhà nước (có thẩm quyền riêng của cá nhân và thẩm quyền chung của tập
thể) và mở rộng quyền kinh doanh, tham gia vào quyết định quản lý Nhà nước của
mọi người dân, người tiêu dùng và các doanh nhân (tức là dân chủ cho mọi chủ thể
tham gia trao đổi hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, chứ không chỉ dân chủ đối với bộ
máy quản lý thương mại cấp dưới hoặc dân chủ trong tập thể của hệ thống lãnh đạo).
Hoạt động thương mại diễn ra trên phạm vi cả nước và từng địa phương, trong
phạm vi thị trường nội địa và thị trường quốc tế, cần thiết vừa phải có lãnh đạo, chỉ
huy tập trung thống nhất, thể hiện trong các định hướng và chính sách điều tiết vĩ mô,
kiểm soát Nhà nước, vừa phải mở rộng quyền dân chủ, tự quyết và tự chịu trách
nhiệm cho địa phương cho các doanh nghiệp là do mỗi địa phương có những đặc thù
về lợi thế so sánh, những đặc sắc về văn hóa, khác biệt về tập quán tiêu dùng,… hơn
nữa những hoạt động thương mại của các doanh nhân, của những người bán và người
mua, nên họ có tự quyết trong kinh doanh và đầu tư vào những lĩnh vực, sản phẩm mà
pháp luật không cấm, họ có quyền dân chủ trong việc tham gia đóng góp ý kiến vào
các chủ trương, chính sách, hoàn thiện hệ thống luật pháp, họ có quyền đòi hỏi Nhà
nước phải bảo vệ lợi ích chính đáng cho họ và giải quyết hài hòa lợi ích giữa Nhà
nước, cộng đồng doanh nhân và xã hội.
Thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi phải giải quyết tốt vấn đề phân công và
phân cấp trong quản lý Nhà nước về thương mại. Xử lý tốt mối quan hệ phân công và
hợp tác theo “chiều ngang” giữa Bộ Thương Mại và các Bộ ngành ở Trung ương, Sở
Thương Mại với các Sở ngành địa phương (tỉnh, thành phố), quan hệ theo “chiều dọc”
theo ngành giữa Bộ Thương Mại và Sở Thương Mại trong cả nước. Đồng thời phải

tách quản lý Nhà nước về thương mại khỏi quản lý kinh doanh, trao quyền đầy đủ về
quản lý kinh doanh cho các doanh nghiệp Nhà nước
2.3 Kết hợp quản lý thương mại theo ngành và lãnh thổ
Quản lý theo ngành vừa có những đặc điểm chung của thương mại, vừa có nét
đặc thù riêng biệt theo thương mại của từng ngành hàng và ngành dịch vụ. Do vậy,
trong các chính sách và biện pháp quản lý của nhà nước bên cạnh những quy định
chung cần phải có những quy định cụ thể đối với thương mại hàng hóa và thương mại
dịch vụ.


13

Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước theo ngành (Bộ thương mại) là định
hướng phát triển thương mại, thị trường hàng hóa và dịch vụ về quy mô, cơ cấu, phạm
vi; các biện pháp thúc đẩy tự do hóa thương mại, bảo vệ sản xuất và thị trường nôi địa,
tiêu chuẩn hóa dịch vụ và sản phẩm trong trao đổi; phát triển các nguồn lực lao động,
chất xám, tài chính, công nghệ kỹ thuật kinh doanh và hạ tầng thương mại, xây dựng
các văn bản quản lý trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao phối hợp với các
cơ quan chuyên môn khác để hình thành thể chế và khung khổ pháp lý thương mại.
Khái niệm “lãnh thổ kinh tế, thương mại” hàm chứa một nhóm các đơn vị
kinh tế các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ có quan hệ với nhau trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, hoạt động thị trường. “Lãnh thổ kinh tế thương mại” bao gồm
nhiều cấp, nhiều mối quan hệ khác nhau. Mỗi doanh nghiệp có thể tham gia đồng thời
vào “lãnh thổi kinh tế” của địa phương và của vùng hoặc phạm vi cả nước tùy theo
mức độ, phạm vi lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ mà họ lựa chọn. “Lãnh thổ kinh tế
thương mại” không hoàn toàn đồng nhất với “lãnh thổ hành chính”. Bởi người bán và
người mua trong “Lãnh thổ thương mại” không phải luôn cố định như cư dân cư trú
trong “lãnh thổ hành chính”, mặt khác họ có thể khác nhau về quốc tịch, ngày nay
“Lãnh thổ kinh tế thương mại” là một khái niệm mở bao gồm sự tham gia của các địa
phương trong nước với các địa phương ở nước ngoài có chung đường biên giới.

Quản lý theo lãnh thổ có nội dung quy hoạch, xây dựng và phát triển hạ tầng
thương mại hoặc địa phương hoặc vùng cụ thể hóa chính sách thương mại của quốc
gia, đồng thời xây dựng chính sách, quy định đặc thù lãnh thổ nhằm khai thác lợi thế
so sánh trong thương mại. Phối hợp thương mại với các ngành khác trong công tác
quản lý nhà nước từ công tác hoạch định đến tổ chức, điều tiết thị trường và kiểm tra,
kiểm soát các hoạt động trao đổi hàng hóa, cung cấp các dịch vụ, chấp hành luật pháp
…. giữa các chủ thể kinh doanh với người tiêu dung và dân cư trong phạm vi lãnh thổ.
Hoạt động của các doanh nghiệp trên thị trường có thể diễn ra ở phạm vi địa
phương theo lãnh thổ hành chính hoặc theo lãnh thổ thương mại, nhưng suy cho cùng
đều chịu sự quả lý nhà nước đồng thời theo ngành và lãnh thổ. Sự quản lý theo ngành
đặt dưới sự lãnh đạo điều hành của Bộ Thương mại theo sự phân quyền và nhiệm vụ
do Chính phủ giao. Sự quản lý theo lãnh thổ đặt dưới sự lãnh đạo của Ủy ban nhân


14

dân tỉnh hoặc thành phố và trực tiếp là Sở Thương mại theo quyền hạn, tránh nhiệm
do chính quyền lãnh thổ giao cho.
Kết hợp tốt mối quạn hệ quản lý trên sẽ hạn chế hiện tượng chồng chéo hoặc
bỏ trống nhiệm vụ trong quản lý nhàn nước về thương mại. Để thực hiện việc kết hợp
đó, cần có sự phân công rõ rang và quy định trách nhiệm tham gia quản lý song trùng,
quy định về sự hợp tác, bàn bạc trong trường hợp ngành hoặc cấp lãnh thổ ra quyết
định. Bất cứ trường hợp nào ra quyết định bỏ qua ý kiến của phía bên kia đều dẫn đến
những trục trặc, gây khó khăn trở ngại cho sự phát triển thương mại và làm giảm hiệu
quả quản lý nhà nước về kinh tế.
2.4. Kết hợp quản lý bảo vệ, phát triển thị trường nội địa với mở cửa thị
trường và hội nhập quốc tế.
Trong nền kinh tế mở và hội nhập quốc tế, thị trường trong nước và thị trường
nước ngoài ngày càng có sự thống nhất trong sự tương tác qua lại lẫn nhau. Thị trường
trong nước là tiền đề cho mở rộng thị trường xuất nhập khẩu và thị trường ngoài nước

tác động bổ xung, hỗ trợ thúc đẩy thị trường trong nước phát triển.
Bảo vệ sản xuất trong nước và thị trường nội địa là xu hướng của mọi quốc
qua do yêu cầu phát triển các ngành sản xuất mới, quản lý trao đổi các sản phẩm nhạy
cảm, do hoạt động thương mại và cạnh tranh không lành mạnh, do yêu cầu bảo vệ
kinh doanh nhỏ, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng, do những hạn chế khác từ tác động
của môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, bảo vệ thị trường nội địa, sản xuất trong nước
phải hợp lý, có chọn lọc và thời hạn theo đúng cam kết hội nhập đã ký kết. Để bảo vệ
thị trường nội địa, chính sách thương mại thường được sử dụng các công cụ, biện
pháp có ý nghĩa như các rào cản ngăn chặn sự xâm nhập hàng hóa của nước ngoài
hoặc gây trở ngại cho các nhà cung cấp dịch vụ quốc tế đối với thị trường nội địa.
Mức độ mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế không có khuôn mẫu chung
cho mọi quốc gia, nhưng mỗi nước đều phải nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế và xu
hướng phát triển để vận dụng cho phù hợp. Mở cửa thị trường, hội nhập được thể hiện
trong các chính sách thương mại của quốc gia thông qua việc dỡ bỏ hoặc giảm thấp
các rào cản đối với thương mại và đầu tư. Kết quả của việc thực thi chính sách thương


15

mại trong trường hợp này được thể hiện trên tầm vĩ mô ở “độ mở” của nền kinh tế ( so
sánh kinh ngạnh xuất khẩu so với GDP).
Giữa bảo vệ thị trường nội địa với mở cửa thị trường, hội nhập quốc tế vừ có
sự thống nhất, nhưng vừa mâu thuẫn nhau. Do vậy, trong quản lý nhà nước về thương
mại cần phải xử lý đúng tính thống nhất và mâu thuẫn đó, luôn coi kết hợp bảo vệ thị
trường, sản xuất nội địa với mở rộng và phát triển thị trường ngoài nước là nguyên tắc
của hội nhập và “sân chơi” chung khu vực và toàn cầu.
2.5. Đảm bào tính hiệu lực và hiệu quả của quản lý.
Tính hiệu lực của quản lý được thể hiện ở việc ra quyết định quản lý về
thương mại của nhà nước ở các cấp và ngành thương mại có được thực thi và chấp
nhận của đối tượng quản lý hay không? Các quyết định quản lý được thể hiện ở các

văn bản nhà nước ban hành. Nếu quyết định quản lý không được chuyển tới đối tượng
quản lý kịp thời hoặc đối tượng quản lý không chấp nhận, không thực thi hoặc thực thi
rất chậm, điều đó có ý nghĩa quản lý kém hiệu lực.
Tính hiệu quả của quản lý thể hiện ở mức độ thành công hay kết quả mang lại
so với chi phí nguồn lực đã bỏ ra nhờ có các chính sách, biện pháp hoặc công cụ quản
lý của nhà nước tác động tới thương mại, thị trường. Hiệu quả của quản lý được nhận
biết trực tiếp qua hiệu lực thực hiện các công cụ và chính sách quản lý của nhà nước,
mặc khác cũng được đánh giá thông qua kết quả và hiệu quả thương mại nói chung
của quốc gia cũng như của từng lãnh thổ.
Hiệu quả của quản lý nhà nước về thương mại phụ thuộc vào mức độ chuẩn
xác của việc ra quyết định và hiệu suất triển khai thực hiện quyết định đó. Nếu quyết
định quản lý đúng, hiệu suất triển khai cao thì hiệu quả sẽ cao và ngược lại sẽ gây ra
tổn thất lớn hoặc nghiêm trọng cho nền kinh tế và đời sống xã hội. Trường hợp quyết
định đúng, hiệu suất triển khai thực hiện thấp thì hiệu quả thấp, trường hợp quyết định
sai nhưng triển khai có giới hạn thì mức độ tổn thất nhỏ hoặc không đáng kể.
Để quản lý có tính hiệu lực, hiệu quả cao cần chú trọng đến chất lượng của
các quyết định và tính hợp lý của bộ máy tổ chức cũng như năng lực, độ tin cậy của


16

đội ngũ cán bộ công chức trong việc triển khai đưa ra các quyết định quản lý đó vào
đồi sống của cộng đồng kinh doanh và người tiêu dùng, dân cư. Các quyết định quản
lý phải đảm bảo kết hợp các mục tiêu, hài hòa các lợi ích, có tính ưu tiên, ưu đãi trong
những trường hợp, đối tượng, lĩnh vực kinh doanh và phạm vi thị trường cụ thể, phải
cân đối giữa mục đích và phương tiện, các nguồn lực sử dụng.


17


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP VẬN DỤNG HIỆU QUẢ
CÁC NGUYÊN TẮC TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THƯƠNG MẠI Ở
NƯỚC TA
3.1.

Yêu cầu về việc hoàn thiện nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước

3.1.1. Tính tất yếu khách quan phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam.
Sự hình thành tư duy về nền kinh tế thị trường là quá trình tìm tòi thử nghiệm, tổng
kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta hơn 20 năm qua, kết hợp với tham khảo có chọn lọc
kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường quốc tế, sự vận dụng sáng tạo học thuyết
Mác - Lênin, quy luật phát triển chung của kinh tế thị trường vào hoàn cảnh cụ thể
Việt Nam. Vì vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa là vấn đề lý
luận, vừa là vấn đề thực tiễn mới mẻ, gắn bó giữa nhận thức tính quy luật khách quan,
sự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa
với phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Đảng cộng sản, nhà nước xã hội chủ nghĩa
và nhân dân lao động. Tính khách quan trong phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam có đặc trưng quan trọng là định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng đó trong
quá trình phát triển kinh tế đất nước không chỉ dừng lại ở tư tưởng, đường lối chung
của Đảng, mà còn phải thể chế hóa thành những nội dung, chính sách, mục tiêu cụ thể,
xác định không ai ngoài Nhà nước phải đảm đương trách nhiệm ấy.
3.1.2. Xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế

Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang trở thành xu thế khách quan đối với
mọi quốc gia và làm cho nền kinh tế thế giới tiến tới nhất thể hóa thành một chỉnh thể
thống nhất, trong đó mỗi nền kinh tế của quốc gia là một bộ phận không thể tách rời.
Việc hoàn hiện nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước ta hiện nay không nằm ngoài
xu thế đó thể hiện ở quan điểm, chủ trương về mở rộng quan hệ ngoại giao, hợp tác

với các quốc gia và tổ chức quốc tế trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, chế độ chính trị và
cùng nhau phát triển. Yêu cầu đặt ra có tính nguyên tắc và mục tiêu trong việc hoàn
thiện nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước hiện nay thích ứng với điều kiện mới.
Cụ thể là :


18

- Cần phải có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của toàn cầu hóa và vấn đề hội
nhập: Không nóng vội, chủ quan hội nhập bằng mọi giá hoặc chậm trễ mà bỏ lỡ thời
cơ.
- Việc hoàn thiện nguyên tắc quản lý nhà nước về kinh tế hiện nay không thể xuất
phát từ những yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế mà phải trở thành chính sách chủ
động, đồng thời giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tiến hành cải cách toàn diện theo các chuẩn mực quốc tế để bắt kịp với các xu
hướng phát triển của thế giới, đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa tăng trưởng với tiến
bộ và công bằng xã hội, giữa tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững, đồng thời giữ
gìn bản sắc văn hóa của dân tộc.
- Nhà nước xúc tiến xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 để chủ động hơn trong quá trình
hội nhập và hội nhập mới thực sự trở thành phương tiện hữu hiệu thúc đẩy phát triển
mạnh kinh tế - xã hội của đất nước.
3.2.

Phương hướng hoàn thiện nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

3.2.1. Tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức về nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước

trong nền kinh tế thị trường.

- Cần phải nhận thức rằng phát triển kinh tế thị trường vừa là vấn đề khoa học, vừa
là vấn đề chính trị, vấn đề lựa chọn chế độ kinh tế và mô hình phát triển trong thực
tiễn cách mạng, đòi hỏi sự nhất trí cao trong nhận thức tư tưởng, thống nhất trong tổ
chức thực hiện và hành động, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế trong thực hiện
nguyên tắc quản lý điều khiển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
- Cần tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu những quan điểm tiến bộ, vượt qua những rào
cản, định kiến về nền kinh tế thị trường và nhận thức không đúng về vai trò kinh tế
của nhà nước. Điều đó thể hiện ở sự nhạy bén, năng động và kịp thời đề ra những
chính sách quan trọng phù hợp với thực tiễn kinh tế - xã hội đầy biến động.
- Cần đảm bảo nội dung khoa học, tính dân chủ, công khai trong quá trình nghiên
cứu lý luận để xây dựng các mô hình, phương án và ban hành những chính sách quan
trọng trong phát triển kinh tế, trong đó không thể thiếu sự tham mưu, tư vấn của các
nhà khoa học, các chuyên gia, đặc biệt là cần tổ chức rộng rãi việc tham gia ý kiến của


19

các tổ chức và cá nhân. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu kinh nghiệm về kinh
tế thị trường ở một số nước sẽ giúp chúng ta có cách đánh giá, vận dụng và thực hiện
hiệu quả nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
3.2.2. Thực hiện nguyên tắc quản lý kinh tế gắn với đảm bảo bình đẳng xã hội và phát

triển bền vững.
- Cần phải đảm bảo mối quan hệ hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bình đẳng xã
hội trong phát triển kinh tế. Nhà nước điều chỉnh lại chính sách phân phối thu nhập
trên cơ sở mối quan hệ giữa thị trường và Nhà nước, có thể sử dụng nhiều công cụ để
thực hiện vai trò điều tiết trong phân phối thu nhập như thuế, ngân sách, tín dụng nhà
nước và hệ thống an sinh xã hội.
- Kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bình đẳng xã hội còn thể hiện nguyên tắc

quản lý của Nhà nước trong cung cấp các dịch vụ công. Nhà nước cần tăng chi tiêu
cho cả giáo dục, y tế và các dịch vụ xã hội khác, đồng thời đảm bảo cho mọi người
được bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ đó. Nhà nước nên tạo điều kiện để khai
thác tiềm năng của khu vực kinh tế tư nhân trong việc hỗ trợ Nhà nước cung ứng kết
cấu hạ tầng và dịch vụ xã hội.
- Tăng trưởng trong nền kinh tế thị trường cần phải đi đôi với việc phát triển bền
vững. Nhà nước sử dụng có hiệu quả công cụ pháp luật, thuế, điều lệ hoặc chính sách
quyền sở hữu công khai nguồn tài nguyên...để kiểm soát mức độ nguy hiểm đối với
môi trường sinh thái.


20

KẾT LUẬN
Để đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững lâu dài, Đảng và nhà nước ngoài
việc quản lý nhà nước thông qua hệ thống chính trị còn phải quản lý nhà nước thông
qua hệ thống kinh tế mà cụ thể một trong những nhiệm vụ đó là xây dựng các kế
hoạch, chính sách dài hạn, đồng bộ phù hợp với các ngành, các lĩnh vực, các vùng
miền tránh sự trùng lặp, chồng chéo để tạo một môi trường kinh doanh hoàn chỉnh về
mặt pháp lý tạo ra sự bình đẳng trong cạnh tranh nhằm thu hút các nguồn lực vốn, kỹ
thuật, công nghệ, kỹ năng quản lý…Quan trọng từ bên ngoài để tạo các bước nhảy vọt
về tăng trưởng và phát triển thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
Nhà nước có vai trò quan trọng đối với bất cứ cuộc cách mạng nào trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nhà nước của dân, do dân và vì dân, thực
hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo quy chế
thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hi vọng rằng trên cơ sở những phân tích và phương hướng đã thực hiện cùng
với những định hướng và giải pháp mới mà Đảng và Nhà nước ta đang vận dụng sẽ
giúp nền kinh tế của nước ta nhanh chóng thoát khỏi nền sản xuất nhỏ lẻ, thủ công

nghiệp thực hiện tốt quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa để sớm hoàn thành được
mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước phát triển.
Do đề tài nghiên cứu rộng, khả năng lý luận phân tích có hạn chế nên không
tránh khỏi những thiếu sót. Rất kính mong các thầy cô giáo, các bạn tiếp tục giúp đỡ,
đóng góp ý kiến để đề tài của chúng tôi được hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn !


21

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Bài giảng Quản lý nhà nước về kinh tế, Đại học Thương mại

2.

Trường Đại học Kinh tế quốc dân, GS.TS Nguyễn Hoàng Toàn - PGS.TS

Mai Văn Bưu, Giáo trình quản lý Nhà nước về kinh tế.



×