Tải bản đầy đủ (.docx) (122 trang)

Giải pháp tăng cường quản lý thuế giá trị gia tăng trên địa bàn quận thanh xuân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.15 KB, 122 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

TRỊNH NAM SƠN

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN THANH XUÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ

THÁI NGUYÊN - 2014


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH

TRỊNH NAM SƠN

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN THANH XUÂN
Chuyên ngành: QUẢN LÝ KINH TẾ
Mã số: 60.34.04.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN ĐỨC

THÁI NGUYÊN - 2014



3

3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong đề tài là trung thực và

chưa từng được sử dụng, công bố trong bất kì nghiên cứu nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này đã
được cảm ơn và thông tin trích dẫn trong đề tài đều được ghi rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2014
Học viên

Trịnh Nam Sơn


4

4
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, học viên đã nhận được sự giúp đỡ và được

tạo điều kiện thuận lợi từ nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết em xin nói lời cảm ơn chân thành nhất tới TS. Trần Văn Đức, thầy đã
giúp đỡ tận tình và trực tiếp hướng dẫn em trong suốt thời gian em thực hiện đề tài.
Học viên xin chân thành cảm ơn các ý kiến đóng góp và hướng dẫn của các
Thầy, Cô giáo trong khoa Quản lý Kinh tế - Trường Đại học Thái Nguyên trong
suốt thời gian học tập.
Tôi xin chân thành cám ơn lãnh đạo Chi cục Thuế Thanh Xuân, UBND quận
Thanh Xuân, các ban ngành cùng với các DN, hộ cá thế trên địa bàn quận đã giúp

tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn./.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2014
Học viên

Trịnh Nam Sơn


5

5
MỤC LỤC


6

6
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

CBCC
DN
FDI
GTGT
HĐTV
NNT
NSNN
QLNN
SXKD
TNCN

TNDN
TTĐB
UBND
UNT
XHCN

Diễn giải
Cán bộ công chức
Doanh nghiệp
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Giá trị gia tăng
Hội đồng tư vấn
Người nộp thuế
Ngân sách nhà nước
Quản lý nhà nước
Sản xuất kinh doanh
Thu nhập cá nhân
Thu nhập doanh nghiệp
Tiêu thụ đặc biệt
Ủy ban nhân dân
Ủy nhiệm thu
Xã hội chủ nghĩa


7

7
DANH MỤC CÁC BẢNG



8

8
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ


9

9
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tất cả mọi hoạt động của con người đều hướng đến một mục đích nhất định.
Khi xã hội phát triển, sự phân công lao động diễn ra sâu sắc với hàng loạt các
ngành, nghề mới, với rất nhiều các hoạt động kinh tế xã hội thì việc gắn bó giữa các
cá thể với nhau càng được đề cao. Không thể đơn độc từng người có thể giải quyết
một vấn đề nào đó. Lúc đó, sự ràng buộc, liên hệ, phối hợp trở nên tất yếu và đòi
hỏi có cách thức quản lý hơn hẳn hành vi tự phát của cá thể.
Quản lý nhà nước (QLNN) theo nghĩa rộng là tác động của nhà nước với các
hình thức hoạt động của bộ máy nhà nước lên các quan hệ xã hội để đảm bảo cho
các quan hệ xã hội phát triển theo đúng mục tiêu đã định, ngăn ngừa các khuynh
hướng phát triển sai lệch, ngăn chặn kịp thời các biểu hiện sai trái.
Thuế là một biện pháp tài chính bắt buộc (phi hình sự) của Nhà nước nhằm
động viên một bộ phận thu nhập từ lao động, của cải, vốn, từ việc chi tiêu hàng hóa
dịch vụ, từ việc lưu giữ chuyển dịch tài sản của các thể nhân và pháp nhân nhằm
trang trải các nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Việc thu thuế bao giờ cũng được thể
chế bằng hệ thống luật. Trong điều kiện kinh tế thị trường, thuế được hiểu là phần
thu nhập mà dân chúng dành ra không mua hàng hóa dịch vụ cá nhân, nộp cho nhà
nước để nhà nước cung cấp hàng hóa dịch vụ công cộng.
Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập sâu vào nền kinh tế của khu vực và

thế giới. Cùng với sự hội nhập và phát triển về kinh tế, các chính sách Thuế cũng đã
từng bước được bổ sung hoàn thiện, phù hợp hơn với thông lệ quốc tế, thể hiện
được vai trò là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Việc quản lý thuế
có hiệu quả là yêu cầu cấp bách nhằm thực hiện tốt mục tiêu nâng cao hiệu quả
QLNN đối với Thuế, góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Bên cạnh những kết quả đạt được của công tác quản lý Thuế, do sự biến
động nhanh của nền kinh tế nên một số quy định trong Luật Thuế, Luật quản lý
Thuế, trong quá trình quản lý Thuế... đặc biệt là thuế Giá trị gia tăng (GTGT) đã
bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, chưa phù hợp với thực tiễn, một số quy định còn


10

10

phức tạp, phát sinh thủ tục hành chính, chưa tạo thuận lợi cho người nộp thuế
(NNT) và khó khăn cho công tác quản lý thuế. Tính pháp lý của các quy định về
quản lý thuế GTGT chưa cao, dẫn đến hạn chế trong việc tuân thủ pháp luật thuế;
các quy định về quản lý thuế GTGT còn phân tán tại nhiều văn bản pháp luật, một
số nội dung còn chưa thống nhất gây khó khăn cho NNT và cơ quan thuế trong việc
chấp hành pháp luật thuế GTGT. Bên cạnh đó, quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm
của các chủ thể tham gia quản lý thuế GTGT chưa được quy định đầy đủ, rõ ràng,
ảnh hưởng đến hiệu quả của việc thực hiện quản lý thuế GTGT; thủ tục hành chính
thuế GTGT ở nhiều khâu còn rườm rà, nặng tính hình thức gây khó khăn cho NNT;
chưa xây dựng được cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân
khác cũng như quy định trách nhiệm của các cơ quan và cá nhân này với cơ quan
Thuế trong quản lý thu thuế GTGT nhằm tăng cường việc phòng chống, xử lý các
hành vi vi phạm phát luật thuế, chống thất thu thuế GTGT.
Việc nghiên cứu giải pháp quản lý Thuế GTGT là cần thiết để khắc phục một

số hạn chế kể trên có ý nghĩa thiết thực, mang tính thời sự cấp bách cả về lý luận và
thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do thực tiễn trên tôi đã lựa chọn và thực hiện đề
tài: “Giải pháp tăng cường quản lý thuế Giá trị gia tăng trên địa bàn quận
Thanh Xuân” làm luận văn nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu thực trạng và đề xuất biện pháp quản lý thuế GTGT trên địa bàn
quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý thuế GTGT hiện nay.
- Đánh giá thực trạng quản lý thuế GTGT trên địa bàn quận Thanh Xuân giai
đoạn 2009 - 2013.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình quản lý thuế GTGT trên địa
bàn quận Thanh Xuân giai đoạn 2009 - 2013.
- Đề xuất giải pháp tăng cường quản lý thuế GTGT trên địa bàn quận Thanh
Xuân trong thời gian tới.


11

11

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Chi cục thuế quận Thanh Xuân (cơ quan được Cục thuế Thành phố Hà Nội
và Ủy ban nhân dân (UBND) quận Thanh Xuân giao quản lý thuế trên địa bàn quận
Thanh Xuân)
- Các DN, tổ chức, cá nhân là đối tượng nộp thuế GTGT trên địa bàn quận
Thanh Xuân.

3.2. Phạm vi nghiên cứu
3.2.1. Phạm vi về không gian
Tập trung nghiên cứu quản lý thuế GTGT trên địa bàn quận Thanh Xuân
thành phố Hà Nội.
3.2.2. Phạm vi về nội dung nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng quản lý thuế GTGT trên địa bàn quận Thanh Xuân,
giai đoạn 2009 - 2013.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình quản lý thuế GTGT trên địa
bàn quận Thanh Xuân, giai đoạn 2009 - 2013.
- Đề xuất giải pháp tăng cường quản lý thuế GTGT trên địa bàn quận Thanh
Xuân trong thời gian tới.
3.2.3. Phạm vi về thời gian
- Tập trung nghiên cứu quản lý thuế GTGT trên địa bàn quận Thanh Xuân,
giai đoạn 2009 - 2013.
- Định hướng giải pháp cho những năm tiếp theo.
- Thu thập thông tin số liệu điều tra ở thời điểm nghiên cứu năm 2013
4. Ý nghĩa khoa học và đóng góp mới của luận văn
4.1. Ý nghĩa khoa học
- Xác định được cơ sở lý luận và thực tiễn về thuế, quản lý thuế GTGT.
- Góp phần hình thành các quy định cấp quận về thuế, quản lý thuế GTGT
4.2. Đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ hiện trạng quản lý thuế GTGT trên địa bàn quận Thanh Xuân giai
đoạn 2009 -2013.


12

12
- Tìm ra các nguyên nhân làm cho hiệu quả quản lý thuế GTGT trên địa bàn


quận Thanh Xuân trong những năm qua còn hạn chế.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản lý thuế GTGT trên địa bàn
quận Thanh Xuân ngày một hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trước mắt và lâu
dài ở Thanh Xuân, Hà Nội.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thuế giá trị gia tăng, quản lý thuế giá
trị gia tăng.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Kết quả nghiên cứu.
Chương 4: Các giải pháp tăng cường quản lý thuế giá trị gia tăng trên địa bàn
quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.


13

13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG,
QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG

1.1. Cơ sở lý luận về thuế giá trị gia tăng, quản lý thuế giá trị gia tăng
1.1.1. Khái niệm, vai trò, đặc điểm về thuế giá trị gia tăng
Tất cả mọi hoạt động của con người đều hướng đến một mục đích nhất định.
Khi xã hội phát triển, sự phân công lao động diễn ra sâu sắc với hàng loạt các
ngành, nghề mới, với rất nhiều các hoạt động kinh tế xã hội thì việc gắn bó giữa các
cá thể với nhau càng được đề cao. Không thể đơn độc từng người có thể giải quyết
một vấn đề nào đó. Lúc đó, sự giàng buộc, liên hệ, phối hợp trở nên tất yếu và đòi
hỏi có cách thức quản lý hơn hẳn hành vi tự phát của cá thể.

Thuế ra đời và tồn tại cùng với sự xuất hiện và tồn tại của Nhà nước, vì Nhà
nước và do Nhà nước. Dưới bất kỳ một hình thái kinh tế - xã hội nào khi còn Nhà
nước là còn thuế. Thuế là một công cụ quan trọng mà bất kỳ Nhà nước nào cũng sử
dụng để hoàn thành chức năng của mình. Tuy nhiên, cho đến nay có nhiều cách
nhìn nhận khác nhau và người ta vẫn chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm
thuế cũng như nhìn chung chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung của phạm trù thuế.
Chẳng hạn theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản: “Để duy trì
quyền lực công cộng, cần phải có những sự đóng góp của những người công dân
của Nhà nước đó là thuế khóa…” (Mác - Ăng ghen).
Càng về sau, khái niệm về thuế ngày càng được bổ sung và hoàn thiện hơn.
Trong cuốn sách “Economics” của hai nhà kinh tế Mỹ Makkhell và Bruy -M.1993
cho rằng “Thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao
bằng hàng hóa, dịch vụ)”.
Ở Việt Nam, đến nay cũng chưa có một khái niệm thống nhất về thuế mà tùy
theo cách nhìn nhận ở các góc độ khác nhau, người ta có thể hiểu khác nhau về thuế:
Theo từ điển Tiếng Việt (Xuất bản năm 1977) thì thuế là phần tiền hoặc sản
vật mà người dân phải đóng góp để dùng vào việc chi tiêu của Nhà nước.
Góc độ nghiên cứu về Pháp luật thì thuế được quan niệm là khoản đóng góp
theo quy định của Pháp luật mà Nhà nước bắt buộc với tính chất và cá nhân phải
nộp vào GTGT (NSNN).


14

14
Góc độ nghiên cứu về Kinh tế Chính trị học thì khái niệm về thuế là hình thức

phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để hình thành nên các quỹ
tiền tệ tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo chức năng của Nhà nước.
Góc độ người thu thuế thì thường hiểu thuế là khoản đóng góp bắt buộc theo

nghĩa vụ do Pháp luật quy định. Thuế là khoản thu không phải hoàn trả ngang giá
và trực tiếp.
Góc độ NNT thì hiểu thuế là khoản bắt buộc phải nộp cho Nhà nước theo
quy định.
Các quan niệm trên có thể đúng nhưng ở những góc độ khác nhau. Cách hiểu
như vậy chưa đầy đủ và chính xác. Nhưng hiện nay các nhà kinh tế đều nhất trí kết
luận rằng:
Thuế là một khoản thu của Nhà nước đối với các tổ chức và mọi thành viên
trong xã hội. Khoản thu này mang tính bắt buộc, không hoàn trả trực tiếp do Pháp
luật của Nhà nước quy định, nhằm sử dụng cho mục đích chung của toàn xã hội.
Dựa trên các định nghĩa, quan niệm trên, thuế trở thành nguồn thu chủ yếu
của NSNN. NNT là chủ nhân (sở hữu) của đối tượng tính thuế. Đối tượng tính thuế
là mọi sản phẩm hữu hình, vô hình, kết quả của quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ không phân biệt thành phần kinh tế (chung cho cả 4 thành phần kinh tế. Các
thành phần kinh tế theo Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011) đó là: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân),
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài).
Ở nước ta, Quốc hội là cơ quan duy nhất quyết định, ban hành luật thuế. Mỗi
sắc thuế đều được cấu tạo:
Thứ nhất, tên gọi của mỗi sắc thuế
Thứ hai, phạm vi điều chỉnh tức là những đối tượng chịu thuế, đối tượng
nộp, các trường hợp không trong diện phải nộp.
Thứ ba, thuế suất, phương pháp tính thuế. Mỗi sắc thuế đều có thuế suất.
Biểu thuế suất gồm nhiều nhóm, ứng với mỗi loại sản phẩm là một loại thuế suất.
Thường thuế suất (tỷ lệ) phần trăm (%) nhân (x) với căn cứ tính thuế sẽ được số tiền
thuế mà đối tượng phải nộp.


15


15
Các trường hợp biệt lệ: miễn, giảm, ân hạn, dãn, xoá nợ…Quy định này để

luật hoá những diễn biến có thể lường trước khi thi hành luật.
Thứ tư, chế tài xử lý: tranh chấp, khiếu nại, tố cáo phạm vi quyền hạn của
các cấp quản lý.
Thứ năm, thời hạn có hiệu lực của sắc thuế đó, các trường hợp sửa đổi, bổ
sung, thay thế…
1.1.1.1. Khái niệm thuế giá trị gia tăng T
Thuế GTGT là sắc thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch
vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Giá trị gia tăng là giá trị tăng thêm trong mỗi khâu của quá trình sản xuất
kinh doanh (SXKD).
Tổng GTGT ở tất cả các giai đoạn cộng lại thì sẽ bằng giá trị của hàng hóa
đến tay người tiêu dùng.
Tổng số thuế GTGT thu được ở tất cả các giai đoạn sẽ bằng số thuế GTGT
tính trên giá cho người tiêu dùng cuối cùng.
Thuế giá trị gia tăng là thuế gián thu tính trên giá bán chưa có thuế GTGT.
Người sản xuất, cung ứng hàng hóa, dịch vụ có trách nhiệm thu và nộp hộ người
tiêu dùng. Người tiêu dùng mua sản phẩm với giá đã có thuế GTGT, vì vậy người
tiêu dùng mới là người chịu khoản thuế này.
Luật thuế GTGT đã được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 11 (tháng
04/1997) thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1999 thay thế cho
Luật thuế doanh thu. Thuế GTGT có ưu điểm hơn thuế doanh thu là không thu
trùng lắp cho nên nó đã góp phần khuyến khích chuyên môn hóa sản xuất, hợp
tác hóa để nâng cao năng suất, chất lượng hạ giá thành sản phẩm, khuyến khích
phát triển và mở rộng sản xuất, giao lưu hàng hóa. Góp phần khuyến khích đầu
tư và xuất khẩu. Tuy nhiên, theo thời gian do sự biến động của tình hình kinh tế chính trị - xã hội, thuế GTGT, bên cạnh những ưu điểm vốn có, cũng bộc lộ
những hạn chế nhất định. Nên Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của thuế GTGT.



16

16

1.1.1.2. Vai trò của thuế giá trị gia tăng
Thuế GTGT góp phần lành mạnh hóa nền kinh tế, tạo nên sự cạnh tranh bình
đẳng giữa các chủ thể khi nó bắt buộc các chủ thể phải sử dụng hệ thống hóa đơn
chứng từ.
Thuế GTGT giúp nhà nước kiểm soát được hoạt động sản xuất, nhập khẩu,
kinh doanh hàng hóa nhờ kiểm soát được hệ thống hóa đơn, chứng từ, khắc phục
được nhược điểm của thuế doanh thu là trốn thuế. Qua đó còn cung cấp cho công
tác nghiên cứu, thống kê những số liệu quan trọng.
Thuế GTGT góp phần bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hợp lý thông
qua việc đánh thuế GTGT hàng nhập khẩu ngay từ khi nó xuất hiện trên lãnh thổ
Việt Nam. Bên cạnh đó thuế GTGT đánh vào hàng hóa xuất khẩu nhằm tạo ra thuế
GTGT đầu ra để được hoàn thuế GTGT.
Những vai trò nổi bật của thuế GTGT là:
- Xu thế chung của thuế giá trị gia tăng là khuyến khích SXKD, dịch vụ bởi:
Thứ nhất, biểu thuế GTGT liên tục giảm, có trường hợp thuế suất thuế
GTGT = 0%.
Nền sản xuất hàng hoá tạo ra hàng trăm, hàng ngàn nhóm loại hàng. Gộp các
nhóm tương tự để có mức thuế cụ thể. Nhà nước ta đã giảm nhiều lần từ mức bình
quân những năm 90 là 15%, những năm đầu 2000 là 10% đến 12%, nay phổ biến ≤
10%. Một số mặt hàng có thuế suất 0% tức là số tiền thuế GTGT = 0. Thuế suất 0%
khác hoàn toàn trường hợp không đánh thuế. Nếu không đánh thuế thì không được
khấu trừ. Còn thuế suất 0% nghĩa là có thuế nhưng ở thời điểm đó là 0%. Kết quả
như nhau nhưng bản chất, cách giải quyết tiếp theo là hoàn toàn khác nhau.
Thứ hai, thuế GTGT được khấu trừ, giảm, dãn, ân hạn, xoá nợ, khoanh nợ

trong các trường hợp khẩn thiết đã giúp cơ sở SXKD, dịch vụ duy trì hoạt động
(thiên tai, tai nạn bất thường, vực dậy do suy thoái…) hạn chế tối đa việc ngưng trệ,
đình đốn, phá sản, giải thể.
- Thuế GTGT góp phần điều tiết tiêu dùng.
Đây là hệ quả của việc tính thuế. Giảm thuế sẽ kích thích nhà đầu tư bỏ vốn
vào SXKD với mục đích tối đa hoá lợi nhuận, tiền vốn không bị chôn chết mà được


17

17

lưu thông. Với người tiêu dùng được hưởng giá cả thấp với hàng tối cần thiết, với
hàng hoá xa xỉ thì giá cao. Người tiêu dùng tự lựa chọn để đảm bảo cuộc sống của
mình. Mục tiêu điều tiết, điều chỉnh tiêu dùng đem lại lợi thế cho nhân dân được
thực hiện. Đây cũng là biểu hiện nhân văn của chính sách thuế GTGT hiện nay.
- Thuế GTGT tạo sự bình đẳng, công khai, minh bạch, tạo sự cạnh tranh
lành mạnh giữa các thành phần kinh tế
Đã có những giai đoạn thuế ưu đãi cho kinh tế nhà nước hơn tư nhân, dành
cho DN nước ngoài nhiều biệt lệ. Thuế GTGT triệt tiêu những nhược điểm đó.
Không chỉ biểu thuế, thuế suất, xử lý chế tài cũng như nhau. Việc khen thưởng, xử
phạt trong thu, hình sự…tuỳ theo lỗi cụ thể. Vì thế thuế GTGT làm yên lòng NNT,
không còn danh tị, so đọ…
- Thuế GTGT thúc đẩy lành mạnh hoá, văn minh hoá xã hội trong sản xuất
và tiêu dùng
Căn cứ quan trọng để xác định thuế GTGT là hoá đơn chứng từ. Bấy lâu nay
người tiêu dùng chưa quen với việc đòi hoá đơn, thậm chí chủ động không lấy hoá
đơn nhất là các hàng nhỏ, lẻ, những dịch vụ khác để giảm giá, như vậy sẽ rất thiếu
cơ sở để tính thuế GTGT ở từng khâu. Hậu quả là nhà nước thất thu thuế GTGT,
người tiêu dùng được lợi rất ít nhưng quản lý xã hội sẽ gặp khó khăn, công tác dự

báo, thống kê, thăm dò thiếu căn cứ chính xác.
Việc quy định thi hành luật thuế GTGT, quy định căn cứ tính…sẽ thúc đẩy
hình thành thói quen cần thiết về hoá đơn chứng từ. Thực tế đã có trường hợp lợi
dụng những mặt hàng nông sản mua gom của người nông dân trực tiếp tiêu thụ chỉ
cần bảng kê, nhưng một số DN đã biến báo để được hoàn thuế khi xuất khẩu hoặc
tiêu thụ đã bị xử lý nghiêm minh. Vậy là thuế GTGT góp phần lành mạnh hoá xã hội.
- Thuế GTGT góp phần quản lý chặt chẽ đa số các hoạt động SXKD, qua đó
góp phần bảo hộ SXKD trong nước bởi:
Thứ nhất, thuế GTGT đánh vào hàng nhập khẩu cùng với thuế nhập khẩu,
thuế TTĐB sẽ là hình thức sử dụng hàng rào thuế quan để hàng hoá nhập khẩu
không ồ ạt, lấn át hàng hoá trong nước. Một mặt vẫn tôn trọng quy định của Tổ
chức thương mại thế giới. Mặt khác, tạo sự tương thích cho sản xuất trong nước,


18

18

khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng nhập, khuyến khích các cơ sở sản
xuất hỗ trợ cho các DN nước ngoài ở Việt Nam.
Thứ hai, thuế GTGT trải qua rất nhiều khâu, nhưng không trùng, góp phần
quản lý toàn bộ hoạt động SXKD trong nước. Qua đó, nhà nước điều chỉnh được
các biện pháp điều hành kinh tế theo quỹ đạo mong muốn. Thuế GTGT đánh vào
hàng hoá xuất khẩu lại có căn cứ để được hoàn thuế đầu vào, việc này vừa kích
thích xuất khẩu vừa góp phần quản lý SXKD dịch vụ trong kinh tế đối ngoại đồng
nghĩa với kích thích hoặc hạn chế tiêu dùng.
1.1.1.3. Đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
Thuế GTGT có đặc điểm là mang tính lũy thoái, dẫn đến việc áp dụng các
trường hợp không chịu thuế GTGT là điều không tránh khỏi nhằm hạn chế tính lũy
thoái của nó. Đây là điều được xem là hợp lý. Tuy nhiên, đối với các hàng hóa, dịch

vụ không chịu thuế GTGT, thật ra cũng không tránh khỏi tác động của thuế GTGT
hoàn toàn vì giá trị của chúng không được phép khấu trừ khi tính thuế GTGT, từ đó
tạo ra sự chồng chéo và các biến động không dự kiến được về thuế suất đối với thuế
GTGT vốn được thiết kế nhằm khắc phục tình trạng đánh chồng thuế. Điều này cho
thấy rằng việc mở rộng quá mức hàng hóa, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế
GTGT có thể tạo ra những lệch lạc quan trọng.
- Thuế GTGT mang tính trung lập, không phân biệt đối xử, bình đẳng, công
khai, minh bạch. Mọi thành phần kinh tế bình đẳng khi làm nghĩa vụ nộp thuế.
- Thuế GTGT không được nhà nước hoàn lại trực tiếp. Toàn bộ thuế GTGT
tập trung vào NSNN. Nhà nước sử dụng theo dự toán chi hàng năm theo luật và
được cơ quan có thẩm quyền thông qua. Điều này cho thấy thuế GTGT khác với
phí, lệ phí có dành một phần cho việc phục vụ người nộp.
- Thuế GTGT đảm bảo cho việc hoà nhập với hệ thống thuế ở các quốc
gia. Việt Nam đã ký nhiều văn kiện chống đánh thuế trùng trong đó có thuế
GTGT. Biểu thuế suất thuế GTGT của Việt Nam tương đối phù hợp với mức
động viên của các nước.
- Thuế GTGT không trùng lặp, không còn hiện tượng thuế đánh trên thuế
như ví dụ trên đã minh hoạ.


19

19
- Thuế GTGT không bị lệ thuộc kết quả SXKD của NNT.
Trong SXKD dịch vụ có thể có lãi, hoà, lỗ vốn bởi:
Lãi, lỗ = Tổng doanh thu - Tổng chi phí - Thuế phải nộp
Trong đó:
Doanh thu = Lượng sản phẩm bán ra x Giá cả bán mỗi sản phẩm.
Chi phí là toàn bộ chi phí liên quan đến lượng sản phẩm bán ra.
Thuế GTGT được tính = Thuế suất x GTGT.

Khi đã cố định chi phí và thuế thì quyền số quyết định lãi, lỗ là doanh thu, cụ

thể là giá cả. Có 2 cách hình thành giá cả:
+ Giá tòng thu tức là tính theo chiều: chi phí + thuế + lãi kỳ vọng = giá. Điều
này trên lý thuyết thì đúng nhưng vấn đề lại là thị trường chấp nhận thế nào.
+ Thu tòng giá tức là khi thị trường chấp nhận giá cả nào đó thì người bán
không tuỳ tiện thay đổi. Mức giá này trừ ngược để đảm bảo thuế. Phần còn lại: (giá
- thuế) (1) = (Chi phí + lãi, lỗ) (2).
Nếu (1) > (2) thì có lãi, nếu (1) = (2) thì hoà vốn, (1) < (2) lỗ.
Cho dù cách tiếp cận nào thì thuế GTGT luôn ổn định lãi, lỗ do NNT tính
toán, hạch toán để có phương án SXKD thích hợp cho mình.
- Thuế GTGT ổn định nhất, có số thu lớn nhất so với các loại thuế khác. Ví
dụ thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế thu nhập cá nhân (TNCN), tiêu thụ
đặc biệt (TTĐB) chỉ thu khi có thu nhập…Thuế GTGT vì thế quan trọng hơn.
Thuế GTGT không ảnh hưởng bởi chuỗi phân chia tổ chức kinh tế gắn với
việc thực hiện giá trị hàng hoá.
Hàng hoá được gọi đích danh là hàng hoá khi 2 thuộc tính là giá trị (lượng
lao động kết tinh trong hàng hoá) và giá trị sử dụng (công dụng do đặc tính lý, hoá
cấu tạo của thực thể sản phẩm) được thực hiện.
Tức là người tiêu dùng chấp nhận, bán hàng trôi chảy.
Nhà sản xuất không thể trực tiếp đem sản phẩm của mình đi bán mà phải qua
hệ thống bán buôn, bán lẻ, theo đó có siêu thị, tổng đại lý, chi nhánh đại lý, cửa
hàng…Dù thế nào thì thuế GTGT cũng chỉ tính trên GTGT mà thôi. Vì thế càng
giảm bớt trung gian càng tốt.


20

20
- Thuế GTGT không tham gia vào việc ưu đãi thiên lệch, không làm méo


mó, biến dạng giá cả hàng hoá.
Bản thân cách tính thuế GTGT đã nói lên điều đó. Thực tế có phát sinh ý
kiến cho rằng thuế GTGT kích hoạt giá cả là lầm lẫn, không đúng bản chất của loại
thuế này. Trong SXKD, dịch vụ nếu có lãi thì việc điều tiết lãi là do luật thuế TNDN
chi phối.
Thuế GTGT cũng không đặt vấn đề ưu đãi cá biệt. Chính sách khuyến khích
được đặt vấn đề từ khi xác định thuế suất, không phân biệt ai làm ra sản phẩm đó.
Hơn thế, nhà nước dùng hàng loạt biện pháp khác như ưu đãi khi miễn, giảm, ân
đãi, dãn thời hạn, xoá nợ…đặc biệt là trong điều kiện suy thoái kinh tế cần tháo gỡ
khó khăn, kích cầu để ổn định kinh tế vĩ mô, giữ nhịp tăng trưởng và đảm bảo an
sinh xã hội. Mặt khác nhà nước sử dụng chính sách tín dụng, chính sách tiền tệ
đồng thời với chính sách tài khoá để hỗ trợ giúp đỡ SXKD, thuế GTGT không đứng
vào các biện pháp này.
- Thuế GTGT được quyết toán định kỳ, theo đó NNT được thoái thuế, kiểu
khấu trừ giai đoạn trước đó đã nộp thuế GTGT.
Ví dụ: Cơ sở sản xuất A sử dụng bán thành phẩm của đơn vị B để sản xuất
tiếp. Phần thuế GTGT tính theo doanh thu hoặc ấn định của cơ sở A được trừ số
thuế GTGT nằm trong giá bán thành phẩm của đơn vị B đã nộp trước.
Có thể được hoàn thuế nếu số thuế GTGT ở khâu sau thấp hơn số thuế
GTGT đã nộp ở khâu trước. Khi đó NNT không những không phải nộp thêm mà
còn được nhận phần chênh lệch từ nguồn hoàn thuế của nhà nước.
- Thuế GTGT là loại thuế gián thu.
Cụ thể là: Thuế GTGT được đánh vào GTGT ở từng khâu từ sản xuất đến
tiêu dùng. Về hình thức thì thuế GTGT đánh vào giai đoạn đó nhưng bản chất thì
không phải bởi tất cả các khâu chỉ là thay mặt, đại diện cho người tiêu dùng nộp
thuế GTGT. Tổng giá cả hàng hoá, dịch vụ do người tiêu dùng cuối cùng thanh toán
và chính họ mới là người trang trải thuế. Vì vậy, thuế GTGT gián tiếp chứ không
phải là thuế trực thu. Thuế GTGT khác với thuế thu nhập DN hoặc thuế thuế TNCN
chính là ở điểm này. Đây là vấn đề lý luận khẳng định thêm việc không trùng lặp

của thuế GTGT. Việc “kêu ca” của từng công đoạn về thuế GTGT cũng là không
đúng bởi mỗi khâu chỉ là nộp hộ người tiêu dùng mà thôi.
1.1.2. Khái niệm, vai trò của quản lý thuế giá trị gia tăng


21

21

1.1.2.1. Khái niệm quản lý thuế giá trị gia tăng
Quản lý thuế GTGT là hoạt động, tổ chức, điều hành và giám sát của cơ quan
thuế nhằm đảm bảo NNT GTGT chấp hành nghĩa vụ nộp thuế GTGT vào NSNN
theo quy định của Pháp luật.
Hoạt động thuế GTGT kết thúc khi thuế được tính đúng, tính đủ, NNT đúng
hạn, không có tranh chấp, khiếu kiện, công tác quyết toán chính xác. Nghĩa là: quan
hệ giữa người nộp và cơ quan thu thuế hoàn thành nhiệm vụ. Công tác quản lý thuế
GTGT đặt trong nội dung của cơ quan quản lý hành chính nhà nước là hệ thống thuế.
Theo Từ điển Bách khoa - Hà Nội năm 1999 (các trang 382-383):
- Quản lý theo nghĩa rộng là “làm cho hoạt động, tư duy của từng người
riêng lẻ, hoạt động của các tổ chức với những cơ chế khoa học tiến hành phù hợp
với mục đích, lợi ích chung nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất trong thời gian nhanh
nhất”. Quản lý được thực hiện dưới dạng: quản lý của nhà nước, quản lý của tổ
chức chính trị xã hội, quản lý của tổ chức kinh doanh, sản xuất, dịch vụ, quản lý của
tổ chức nghề nghiệp.
- Quản lý được thực hiện bằng 3 loại chủ yếu: biện pháp kinh tế, biện pháp
hành chính, biện pháp giáo dục. Quản lý được thực hiện bằng nhiều hình thức tác
động như: lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy, khen thưởng, xử phạt, kiểm tra, kiểm kê, kiểm
soát, thanh tra giám sát, đúc rút kinh nghiệm phổ biến và nhân rộng mô hình, cách
làm tiên tiến có hiệu quả, kịp thời bãi bỏ những cái đã lạc hậu, lỗi thời. Quản lý là
khoa học, một dạng nghệ thuật và ngày càng được đề cao.

- QLNN theo nghĩa rộng là tác động của nhà nước với các hình thức hoạt
động của bộ máy nhà nước lên các quan hệ xã hội để đảm bảo cho các quan hệ xã
hội phát triển theo đúng các mục tiêu đã định, ngăn ngừa các khuynh hướng phát
triển sai lệch, ngăn chặn kịp thời các biểu hiện sai trái.
Theo nghĩa hẹp: Quản lý là tác động của nhà nước bằng hình thức hoạt động
của một loại cơ quan trong bộ máy nhà nước gọi là cơ quan quản lý nhà nước
(QLNN) mà nhiệm vụ là chấp hành hiến pháp, pháp luật, pháp lệnh và các nghị
quyết của cơ quan quyền lực nhà nước.


22

22
Trong Từ điển Kinh tế chính trị (Nhà xuất bản Sự thật - Hà Nội năm 1987,

trang 328-329):
“Quản lý nền sản xuất xã hội chủ nghĩa là tác động có xu hướng mục tiêu
dưới chủ nghĩa xã hội đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và các khâu của nó
dựa trên cơ sở nhận thức các quy luật khách quan và nhằm nâng cao hiệu quả của
nền sản xuất xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”.
- Trong tác phẩm “An ninh tài chính quốc gia” - Nhà xuất bản Tài chính,
tháng 7/2004, trang 15, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Tào Hiếu Phùng dẫn “Theo giới
tài chính quốc tế, ổn định tài chính (Financial Stability) là cực kỳ quan trọng đối với
tăng trưởng kinh tế…nếu quản lý kinh tế vĩ mô mạnh (Sound management) nhưng
hệ thống tài chính yếu thì có thể làm mất ổn định kinh tế.
- Trong tập luật lệ “Chế độ mới về quản lý tài chính - Nhà xuất bản Tài
chính, Hà Nội tháng 01/2001), trong số 52 văn bản dưới luật đều đề cập tới quản lý,
được xem là cách thể hiện bản chất, chức năng của công cụ tài chính, thuế trong
giai đoạn hiện nay.
- Tại Luật quản lý thuế, trong đó quan trọng là Luật Thuế GTGT - Nhà xuất

bản Lao động, Hà Nội 2007 từ trang 13 đến trang 48 quy định cụ thể nguyên tắc,
nội dung, phương pháp quản lý thuế.
- Điều 12 Hiến pháp năm 1992 của nước ta “Nhà nước quản lý xã hội theo
pháp luật…”.
Như vậy, bản chất của quản lý chứa đựng:
- Căn cứ của quản lý, cơ sở của quản lý là pháp luật, sản phẩm của cơ quan
lập pháp và các chế độ chính sách của nhà nước (cơ quan hành pháp cao nhất).
- Quản lý là khâu nối mọi thành viên trong một tổ chức, giữa các tổ chức với
nhau dựa trên những cơ chế khoa học tiên tiến để đạt mục đích chung.
- Hiệu quả của quản lý là năng suất lao động xã hội được nâng cao, công việc
trôi chảy, chi phí ít nhất thời gian hoàn thành nhiệm vụ nhanh nhất.
Từ sự phân tích trên, khái niệm về quản lý thuế GTGT được xác định như
sau: Quản lý thuế GTGT là hoạt động, tổ chức, điều hành và giám sát của cơ quan
thuế nhằm đảm bảo NNT GTGT chấp hành nghĩa vụ nộp thuế GTGT vào NSNN
theo quy định của Pháp luật.


23

23
Thuế GTGT là một trong nhiều sắc thuế hiện hành ở nước ta.
- Quản lý thuế GTGT là một loại quản lý trong khuôn khổ chức trách nhiệm

vụ nhà nước giao cho ngành thuế, một cơ quan trong hệ thống các cơ quan hành
chính nhà nước.
- Quản lý thuế GTGT là hệ thống các biện pháp nghiệp vụ, biện pháp công tác
của cơ quan thuế và toàn xã hội nhằm vào việc thực hiện tốt nhất Luật thuế GTGT,
đảm bảo nguồn thu ổn định vào NSNN với hiệu quả cao và thuận lợi cho NNT.
- Vai trò chủ thể của quản lý thuế GTGT là hệ thống thuế các cấp: Tổng cục
thuế, Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các Chi cục thuế ở cấp

quận, huyện, các tổ thuế ở các xã, phường, ấp.
- Quản lý thuế GTGT động chạm đến nghĩa vụ, quyền lợi của NNT đồng thời
dễ va đạp, xung đột, mâu thuẫn, khiếu kiện.
- Quản lý thuế GTGT gắn liền với “Tuyên ngôn ngành thuế” và gắn liền với
việc thực hiện hiệu lực của pháp luật, chính sách động viên tài chính của nhà nước
với cách thực hiện minh bạch, công khai, thu đúng, thu đủ, thu kịp thời thuế GTGT
vào ngân sách.
1.1.2.2. Vai trò của quản lý thuế giá trị gia tăng
- Tạo sự phối hợp đồng bộ giữa các thành viên, rút ngắn từng khâu công
việc, từng công đoạn. Phối hợp giữa sức lao động của người với máy móc, công cụ,
phương tiện một cách hài hòa, ăn ý, phát huy cao nhất lực lượng sản xuất, hình
thành quan hệ sản xuất tiên tiến, hiệu quả.
- Tạo sự nổi trội trong cách thức tiến hành sản xuất, quản lý xã hội đề cao
tính ưu việt của nền hành chính XHCN.
- Hạn chế, ngăn ngừa mọi tiêu cực, mọi lực cản quá trình đi lên của xã hội.
1.1.3. Đặc điểm của quản lý thuế giá trị gia tăng
- Có cơ chế, quy ước, quy trình khoa học cho hoạt động quản lý thuế GTGT
- Có thí điểm, làm thử, nhân rộng mô hình tốt đối với hoạt động nộp thuế GTGT.
- Có kiểm tra, giám sát, tổng kết đánh giá và xử lý bao gồm cả khen thưởng, kỷ
luật với đối tượng nộp thuế GTGT và người thực thi nhiệm vụ quản lý thuế GTGT.
- Đánh giá sự thành công của quản lý thuế GTGT dựa trên kết quả hoạt động
thực tiễn.


24

24

1.1.4. Nội dung nghiên cứu của quản lý thuế giá trị gia tăng
1.1.4.1. Quản lý người nộp thuế giá trị gia tăng trên địa bàn

Người nộp thuế GTGT là tổ chức cá nhân SXKD hàng hóa dịch vụ chịu thuế
GTGT và tổ chức cá nhân nhập khẩu hàng hóa chịu thuế GTGT.
NNT GTGT phải có nghĩa vụ nộp đầy đủ, đúng hạn vào NSNN. Hiện nay,
quy định nộp, thời hạn nộp gắn liền với quá trình luân chuyển hàng hoá. Theo thông
lệ, NNT GTGT sẽ tự kê khai, tự nộp và tự chịu trách nhiệm về số nộp. Cơ quan thuế
thực hiện hậu kiểm, kết quả hậu kiểm sẽ thông báo đến NNT và sẽ có 3 khả năng
xẩy ra:
- Khớp đúng luật.
- Số nộp thiếu, thừa.
- Những sơ xuất, sai sót trong việc kê khai.
Biện pháp quản lý thuế GTGT đối với NNT gắn liền với diễn biến thực tế.
1.1.4.2. Quản lý căn cứ tính thuế giá trị gia tăng
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế GTGT và thuế suất.
Do thuế GTGT đánh vào GTGT ở tất cả các khâu SXKD dịch vụ từ khi bắt
đầu sản xuất hàng hoá đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
Vì thuế GTGT không đánh trùng, không tính thuế trên thuế.
Vậy nên, biện pháp quản lý thuế GTGT như thế nào phải bám sát quá trình
xuất xứ, luân chuyển từ khi khai thác, sản xuất, lưu thông, bán ra thì mới có biện
pháp thích hợp.
* Đối với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên
Khi khai thác tài nguyên thiên nhiên như sản xuất than, dầu, sa khoáng, lâm,
ngư sản…vốn là tài nguyên sẵn có thì sản phẩm đã khai thác được sẽ bị đánh thuế tài
nguyên, không có thuế GTGT. Nhưng khi qua chế biến, tuyển chọn, bắt đầu xuất hiện
GTGT nên ở giai đoạn sau có thuế GTGT. Khi đó cần có biện pháp để quản lý thuế.
* Đối với hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài
Luật cho phép từng loại hàng hoá có thể có: thuế nhập khẩu, thuế GTGT,
thuế TTĐB. Căn cứ để có thuế GTGT là những hàng hoá cùng loại tương tự đã có
sản xuất trong nước. Khi đó phải có biện pháp để quản lý thuế GTGT.



25

25
* Đối với hàng hoá gia công
Bản chất của sản xuất gia công là một bên giao nguyên liệu (bên A), có thể là

nguyên liệu thô, bán thành phẩm…cho cơ sở sản xuất khác (bên B) làm những phần
việc nào đó theo yêu cầu của bên A. Khi hoàn thành thì bên nhận gia công (bên B)
trả sản phẩm cho bên A và nhận được khoản thù lao (tiền công). Trường hợp này
bên B không có GTGT nhưng bên A thì xuất hiện GTGT và phải chịu thuế GTGT.
Do vậy, phải có biện pháp quản lý phân biệt, rõ ràng.
* Đối với cơ sở lưu thông nhận bán hàng theo chuỗi bán lẻ được nhận chiết
khấu (số tiền để trang trải chi phí: chọn lọc, đóng gói, bao bì, tiếp thị, đại lý, bán
hàng…) có xuất hiện GTGT.
* Đối với hàng hoá trước khi bán hàng được định giá bằng cách tính cộng
chi phí (gọi là thặng số) cũng xuất hiện GTGT. Cần có biện pháp quản lý thích hợp.
* Đối với hàng hoá đã chịu thuế TTĐB (sản xuất thuốc lá, rượu, bia…) thì cơ
sở sản xuất phải nộp thuế TTĐB nhưng qua các chuỗi bán hàng tiếp theo cho đến
người sử dụng sẽ không phải nộp thuế TTĐB mà có thuế GTGT. Do đó, phải có
biện pháp quản lý tốt ở các khâu sau.
* Đối với trường hợp thanh lý tài sản, bán DN do giải thể sẽ xử lý theo quy
định riêng.
* Đại bộ phận hàng hoá khác có xuất hiện GTGT ở tất cả các khâu. Để
không tính trùng thuế GTGT, luật cho phép thuế GTGT được khấu trừ. Trên các hoá
đơn bán hàng đều có dòng “giá bán”, giá bán chưa có thuế GTGT, dòng “giá thanh
toán” là giá người mua phải trả cho người bán. Giá thanh toán = giá bán + thuế
GTGT. Do đó, phải quản lý tốt hoá đơn làm căn cứ tính thuế GTGT và để khấu trừ
hoặc thoái thuế, hoàn thuế GTGT.
Hàng hoá mua gom từ nông, hải sản, lâm sản chỉ cần lập bảng kê mua có tên
người bán, địa chỉ, số lượng, đơn giá…Người mua không phải nộp thuế GTGT nhưng

giai đoạn tiếp theo thì có thuế GTGT. Do đó, cần quản lý rõ ràng từng giai đoạn.
Từ những nội dung kể trên, nội dung các biện pháp quản lý thuế GTGT cần
tập trung là:
Thứ nhất, phải có biện pháp quản lý bao trùm, không để sót hoặc trùng lặp
các đối tượng chịu thuế và NNT. Ở các địa bàn phức tạp, đan xen, giáp ranh phải có
sổ bộ lên danh bạ đối chiếu với hộ khẩu, quản lý hành chính để quản lý chặt chẽ.


×