Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư: (lợi nhuận; tỷ suất lợi nhuận, các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.63 KB, 7 trang )

2. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư: (lợi nhuận; tỷ suất lợi nhuận, các
nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô)
2.1. Khái niệm giá trị thặng dư
- Khái niệm m: là bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân
làm thuê tạo ra bị nhà TB chiếm đoạt. Quá trình sản xuất m chỉ là quá trình tạo ra giá trị
kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà TB trả được hoàn lại bằng một
vật ngang giá mới.
2.2. Các hình thức:
2.2.1. Lợi nhuận:
- Lợi nhuận (ký hiệu là P): là hình thái chuyển hóa của giá trị thặng dư do lao động
sống tạo ra được quan niệm là do toàn bộ tư bản ứng trước sinh ra. Là chênh lệch giữa giá
trị hàng hóa (Giá trị hàng hóa là lao động XH của con người SX hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa đó) và chi phí sản xuất TBCN (là chi phí nhà TB bỏ ra để mua TLSX và thuê
nhân công)(với giả định là giá cả bằng giá trị, công thức k = c + v).
Nếu nhìn bề ngoài thì m và P giống nhau nhưng đi vào bản chất của vấn đề bên trong
thì m được tạo ra trong quá trình sản xuất còn P là hình thức biểu hiện ra bên ngoài thông
qua trao đổi. Trên thực tế, m có thể lớn hơn bằng hoặc nhỏ hơn P nhưng khi tổng giá cả
bằng tổng giá trị thì tổng P bằng tổng m.
+ So sánh m và P:
* Về lượng: nếu cung bằng cầu thì giá cả hàng hóa bằng giá trị của nó thì số
lượng lợi nhuận thu được bằng số lượng giá trị thặng dư. Nếu cung nhỏ hơn hoặc lớn hơn
cầu, giá cả hàng hóa có thể cao hơn hoặc thấp hơn lượng giá trị của nó, thì từng TB cá biệt
có thể thu được lợi nhuận lớn hơn hoặc nhỏ hơn lượng giá trị thặng dư. Nhưng trong toàn
xã hội, tổng số giá cả ngang bằng với tổng số giá trị của hàng hóa, thì tổng số lợi nhuận
ngang bằng với tổng số giá trị thặng dư.
* Về chất: giá trị thặng dư phản ánh nguồn gốc từ v (TB khả biến: là bộ phận
TB dùng để mua sức lao động, nó ko được tái hiện ra nhưng thông qua lao động trừu
tượng của công nhân mà tăng thêm về số lượng); P thì được xem như do K đẻ ra (K: chi
phí sản xuất TBCN). Về thực chất lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư,
lợi nhuận che giấu bản chất bóc lột của CNTB. Vậy chúng ta khẳng định nguồn gốc của
lợi nhuận chính là giá trị thặng dư do lao động sống của công nhân làm thuê tạo ra, còn lợi


nhuận là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư. Nên C.Mác viết “Giá trị thặng dư, hay là
lợi nhuận, chính là phần giá trị dôi ra ấy của giá trị hàng hóa so với chi phí sản xuất của
nó, nghĩa là phần dôi ra của tổng số lượng lao động chứa đựng trong hàng hóa so với số
lượng lao động được trả công chứa đựng trong hàng hóa” (C.Mác và Ph.Awngghen: Toàn
tập, t.25, ph.I, tr.74).
- Tỉ suất lợi nhuận (P’):


Khi m chuyển hóa thành P thì m’ (tỉ suất giá trị thặng dư, m’=(m/v) x 100%) chuyển
hóa thành P’(tỉ suất lợi nhuận), được biểu hiện bằng công thức:
P = (m/(c+v)) x 100% → P’ = (P/k) x 100%
Vậy, tỉ suất lợi nhuận là tỉ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư trên chi phí sản xuất
TBCN.
Nếu m’ là một chỉ tiêu phản ánh mức độ sinh lời của tiền công thì P’ là một chỉ tiêu
phản ánh hiệu quả của việc đầu tư TB.
+ So sánh m’ và P’: khác nhau về lượng và chất:
Là tỉ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư trên chi phí sản xuất TBCN, được biểu hiện
bằng công thức:
P’ = (m/c+v) x 100%
Về lượng: P’ bao giờ cũng nhỏ hơn m’.
Ví dụ chứng minh: giả sử m’ là 100%, v là 2.000, m là 2.000 và c+v là 10.000 thì P’
được tính như sau:
P’ = (2.000/10.000) x 100% = 20%
Vậy, m’ = 100% > P’ = 20%.
Về chất: m’ biểu hiện mức độ bóc lột của chủ TB đối với lao động, còn P’ chỉ nói lên
mức doanh lợi của việc đầu tư TB.
Nếu m’ là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động sống thì P’ là chỉ tiêu đánh giá
hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn đầu tư hằng năm của một đơn vị sản xuất kinh doanh. Lợi
nhuận và tỉ suất lợi nhuận ko chỉ là động lực của nền sản xuất hàng hóa TBCN mà còn là
động lực của nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường nói chung. Lợi nhuận kích thích các

chủ thể sản xuất kinh doanh hàng hóa cạnh tranh, ra sức đổi mới kĩ thuật và công nghệ,
đổi mới cơ chế quản lý, sử dụng tiết kiệm lao động, vật tư, máy móc nhằm tăng năng suất
lao động để sản xuất ra nhiều hàng hóa có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, giá thành hạ, có
lợi cho họ và người tiêu dùng.
Tuy nhiên, quá trình theo đuổi lợi nhuận mù quáng cũng làm cho kinh tế hàng hóa có
thể phát triển ko lành mạnh, gây nên sự mất cân đối nhiều mặt trong nền kinh tế. Những
hiện tượng như đầu cơ, buôn lậu, trốn thuế, sản xuất và lưu thông hàng giả, hàng cấm, thất
nghiệp, vi phạm đạo đức, lối sống, phá hoại tài nguyên thiên nhiên, làm ô nhiễm môi
trường... là những hiện tượng phổ biến mà người ta thường gọi là những khuyết tật của
nền kinh tế thị trường.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tỉ suất lợi nhuận:
C.Mác đã chỉ ra 5 nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tỉ suất lợi nhuận gồm:
1. Tỉ suất giá trị thặng dư (m’):
Từ công thức: P’ = (m/(c+v)) x 100%, trong đó m’= (m/v) x 100% → m = m’ x v
→ P’ = (m’ x v)/(c+v) (1) (chia tất cả cho v) → p’ = m’/((c+v) + 1) (2)


Từ công thức (1) trên suy ra, P’ tỉ lệ thuận với m’ vì tỉ suất lợi nhuận là hình thức
chuyển hóa của tỉ suất giá trị thặng dư nên giữa chúng có mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau.
Ví dụ chứng minh: Nếu m’ = 100% với một tư bản gồm 8.000c + 2.000v thì ta thu được
2.000m thì p’= 20% (m = m’ x v = 100% x 2.000 → m = 2.000 (*)
Suy ra P’ = trong công thức (1) nếu v/(c+v) là một đại lượng ko đổi thì:
P’ = (100 x 2.000)/(8.000 + 2.000) = 20%
Tương tự, nếu m’ = 200% (cũng tư bản đó) thì ta sẽ thu được 4.000m và 40% P’.
Do vậy, những biện pháp nâng cao tỉ suất giá trị thặng dư cũng là những biện pháp nâng
cao tỉ suất lợi nhuận.
2. Tốc độ chu chuyển tư bản (n): Là quá trình tuần hoàn tư bản xét về mặt định kỳ đổi
mới và lặp đi lặp lại ko ngừng.
Nếu tốc độ chu chuyển của TB tăng nhanh thì càng rút ngắn thời gian chu chuyển (gồm
thời gian sản xuất và thời gian lưu thông). Từ đó, càng đẩy nhanh quá trình chu chuyển,

tạo tiền đề thu được nhiều m hơn, do đó P hằng năm cũng tăng lên.
Ví dụ chứng minh: Với một TB ứng trước là 10.000 ( c = 8.000, v = 2.000) đơn vị tiền
tệ, n = 1, m’ = 100% thì thu được m = 2.000, ta có: 8.000c + 2.000v + (2.000m x 1) và P’
= 20% (công thức như ví dụ ở (*))
Nếu n = 2 thì ta có: 8.000c + 2.000v + (2.000m x 2) và P’ = 40%.
Do vậy, tỉ suất lợi nhuận tỉ lệ thuận với số vòng chu chuyển TB và tỉ lệ nghịch với thời
gian chu chuyển của TB. Để nâng cao P’, các nhà TB phải tìm mọi cách rút ngắn thời gian
sản xuất và thời gian lưu thông hàng hóa của mình.
Phần mở rộng (nếu hỏi): Làm thế nào rút ngắn n
Như ta biết n = CH/Ch (thời gian trong năm (tính bằng tháng)/thời gian một vòng chu
chuyển)
Vì CH là một đại lượng ko đổi nên phải tìm cách giảm Ch. tức là giảm thời gian sản xuất
hoặc thời gian lưu thông hoặc giảm cả hai yếu tố.
C
h = Tsx + Tlt = (tlđ + tgđlđ + tdt) + (tmua + tbán + tvc) (thời gian lao động + thời gian
gián đoạn lao động + thời gian dự trữ) + (thời gian mua + thời gian bán + thời gian vận
chuyển).
Cần nhiều biện pháp: tăng trình độ phát triển khoa học công nghệ, trình độ người lao
động, trình độ tổ chức quản lý, marketting…
- Nâng cao NSLĐ => rút ngắn thời gian lao động
- Hoàn thiện các vật SX => Rút ngắn thời gian gián đoạn SX
- Giảm lượng dự trữ SX => Rút ngắn thời gian dự trữ SX
- Hoàn thiện kết cấu hạ tầng => Rút ngắn thời gian lưu trữ
- Khấu hao nhanh TB cố định => rút ngắn thời gian chu chuyển chung và chu chuyển
thực tế của TB


- Phát triển hệ thống doanh nghiệp nhỏ và vừa, tăng cường độ lao động, tổ chức SX
theo ca-kíp, tiết kiệm chi phí bảo quản và cải thiện điều kiện lao động của người lao động.
Tư bản bất biến (c):

Trong công thức P = m/(c + v), nếu m và v là những đại lượng ko đổi thì P’ sẽ tỉ lệ
nghịch với c, vì thế, để nâng cao P’ cần tiết kiệm c như việc sử dụng máy móc, thiết bị,
nhà xưởng, nhà kho, phương tiện vận tải…; thay nguyên liệu đắt tiền bằng nguyên liệu rẻ
tiền, giảm những chi tiêu để bảo hiểm lao động, bảo vệ môi trường, giảm tiêu hao vật tư
năng lượng và tận dụng phế liệu, phế phẩm, phế thải trong tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng
cá nhân của xã hội để sản xuất hàng hóa.
Các nhân tố ảnh hưởng đến P’ nói trên được các nhà TB khai thác triệt để. Song., vì
điều kiện cụ thể của mỗi ngành sản xuất khác nhau nên cùng một lượng TB như nhau đầu
tư vào các ngành sản xuất khác nhau, lại thu được P’ khác nhau. Từ đó dẫn đến sự cạnh
tranh hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân.
- Lợi nhuận thương nghiệp: TB thương nghiệp là loại TB ra đời sớm nhất trong lịch
sử vì tiền đề cho sự ra đời của nó là lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ phát triển tới
một mức nhất định.
+ Nguồn gốc: Dưới chế độ TBCN, TB thương nghiệp là một bộ phận của TB công
nghiệp tách rời ra. Trong thuở ban đẩu manh nha của TBCN, khi quy mô các xí nghiệp
còn nhỏ bé, các ông chủ tư bản vừa là người sản xuất, vừa là người môi giới cho chính sản
phẩm của mình, nên hàng hóa bấy giờ ko phải qua khâu lưu thông, tức hàng hóa được bán
xong chỉ sau một hành vi H – T. Sau này, do sự phát triển của sản xuất hàng hóa và phân
công xã hội đã dẫn đến sự tách ra của một loại nhà TB chuyên đảm nhiệm việc mua và
bán hàng hóa, tức TB thương nghiệp. Từ đây thương nhân thay mặt người mua ứng TB
tiền tệ ra để mua hàng hóa của nhà TB công nghiệp, sau hành vi H – T nhà TB công
nghiệp coi như đã bán xong nhưng thực chất hàng hóa chưa đến tay người tiêu dùng,
thương nhân mua hàng hóa là để bán lại, vì vậy phải có hành vi H – T thứ hai, nghĩa là
người tiêu dùng trả tiền cho thương nhân để mua hàng hóa, như vậy hàng hóa mới ra khỏi
lưu thông và đi vào lĩnh vực tiêu dùng. Chính vì phải qua hai hành vi H – T mà TB thương
nhân phải vận động theo công thức T – H – T’. Tương tự, càng có nhiều thương nhân thì
quá trình H – T càng lặp lại nhiều lần, nhưng nếu thương nhân mua chịu và chỉ sau khi
bán xong hàng mới trả tiền cho người sản xuất thì thương nhân chỉ đóng vai trò là người
môi giới hàng hóa và hưởng hoa hồng.
Như vậy, TB thương nghiệp chỉ là một bộ phận của TB hàng hóa (ko phải là toàn bộ TB

hàng hóa), có nhiệm vụ chuyển hóa hàng hóa thành tiền. Vậy, nó vừa phụ thuộc vào TB
công nghiệp, vừa có tính độc lập tương đối. Sự phụ thuộc thể hiện ở chỗ: TB thương
nghiệp chỉ là một bộ phận của TB hàng hóa, với nghĩa đó, sản xuất quyết định lưu thông.
Tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ: hàng hóa cuối cùng trở thành tiền – đây là chức
năng riêng biệt tách khỏi TB công nghiệp, chức năng này thuộc về TB thương nhân, nó ko


mang hình thái TB sản xuất. Tính độc lập này càng tăng lên khi có sự phát triển của hệ
thống tín dụng ngân hàng, thương nhân có thể mua hàng hóa để “gối đầu”, tạo ra nhu cầu
giả tạo, nếu càng có nhiều thương nhân ở khâu trung gian thì nhu cầu giả tạo đó càng tăng
và nếu để thị trường đó tự điều tiết thì đây là một trong những nhân tố làm gay gắt thêm
khủng hoảng thừa.
+ Khái niệm: Lợi nhuận của TB thương nghiệp là một bộ phận giá trị thặng dư do công
nhân trong lĩnh vực công nghiệp tạo ra mà nhà TB công nghiệp nhường lại cho nhà TB
thương nghiệp vì đã thay nhà TB công nghiệp phụ trách khâu lưu thông hàng hóa.
TB công nghiệp nhường cho TB thương nghiệp vì các nguyên nhân: (vai trò của TB
thương nghiệp):
+ TB thương nghiệp chỉ hoạt động trong lưu thông, là 1 giai đoạn của quá trình tái sản
xuất.
+ TB thương nghiệp góp phần mở rộng quy mô tái sản xuất.
+ TB thương nghiệp góp phần mở rộng thị trường, tạo điều kiện cho công nghiệp phát
triển.
+ TB thương nghiệp đảm nhận khâu lưu thông, từ đó TB công nghiệp có thể rảnh tay
trong lưu thông mà tập trung đẩy mạnh sản xuất.
+ TB thương nghiệp ko trực tiếp tạo ra m nhưng góp phần tăng năng suất lao động, tăng
lợi nhuận, góp phần tích lũy cho TBCN.
Ngoài TB mua hàng hóa, TB thương nghiệp còn phải ứng chi phí cho lưu thông, có 2
laoij chi phí lưu thông gồm:
+ Chi phí lưu thông thuần túy: là chi phí liên quan đến việc mua và bán hàng hóa, tức là
những chi phí để thực hiện giá trị hàng hóa (nhưng ko tính vào giá trị của hàng hóa như

trả lương cho nhân viên bán hàng, sổ sách, kế toán…).
+ Chi phí lưu thông bổ sung: là chi phí mang tính sản xuất, liên quan đến việc bảo tồn
và di chuyển của hàng hóa (được tính vào giá trị của hàng hóa như chi phí bảo quản, đóng
gói..).
+ Ý nghĩa: Lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng
hóa, hình thành theo quy luật tỉ suất lợi nhuận bình quân. Vì TB thương nghiệp tham gia
phân chia m nên hình thành 2 loại giá cả sản xuất: giá cả sản xuất công nghiệp và giá cả
sản xuất thực tế (giá cả sản xuất sau cùng), do đó che giấu thêm một bước quan hệ bóc lột
của CNTB.
- Lợi tức:
+ Nguồn gốc: TB tiền tệ tạm thời để rỗi trong quá trình chu chuyển của TB như tiền dự
trữ để mua nguyên, nhiên liệu… mà chưa mua hoặc quỹ tiền lương của công nhân nhưng
chưa trả… Toàn bộ số vốn đó có thể cho vay để sinh lợi, đáp ứng nhu cầu vốn của các nhà
TB. Tiền là TB ngay từ khi nó được cho vay nhằm mục đích thu lợi nhuận. Nhưng khi
chuyển từ người cho vay sang người đi vay thì tiền chưa đẻ ra lợi nhuận được. Khi người


đi vay sử dụng số tiền đó vào mục đích nào đó (ví dụ sản xuất kinh doanh) thì tiền đó mới
thu được lợi nhuận. Cùng một số tiền trên đã tồn tại với tính cách là TB hai lần đối với 2
người nhưng ko phải vì thế mà lợi nhuận có thể tăng gấp đôi, bởi lẽ nó chỉ thực sự hoạt
động một lần trong tay người đi vay. Lợi tức chỉ là một phần của lợi nhuận trung bình mà
nhà TB hoạt động (TB đi vay) thu được phải trả cho nhà TB cho vay. Điều này là hợp lý vì
nhà TB đi vay đã sử dụng TB của người khác, nhờ giá trị sử dụng của TB cho vay này mà
thu được lợi nhuận nên TB cho vay phải trả tiền cho việc sử dụng giá trị sử dụng đó.
(khái quát về TB cho vay: TB cho vay ra đời từ khi có sản xuất hàng hóa và tiền tệ, đó
là TB cho vay nặng lãi. TB cho vay trong CNTB là 1 bộ phận của TB tiền tệ trong tuần
hoàn của TB công nghiệp tách ra và vận động độc lập. Đó là TB tiền tệ mà người chủ sở
hữu của nó cho người khác sử dụng trong 1 thời gian nhất định để được nhận 1 số tiền lời
nào đó gọi là lợi tức. TB cho vay là TB mà quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng, công
thức T – T’. Là một loại hàng hóa đặc biệt vì người bán ko mất quyền sở hữu, người mua

sử dụng thì giá trị sử dụng và giá trị của nó ko mất đi mà còn tăng lên, giá cả của nó ko do
giá trị mà do giá trị sử dụng, do khả năng tạo ra lợi nhuận của nó quyết định, là loại TB
được sùng bái nhất.)
+ Khái niệm, ý nghĩa: Là một bộ phận của giá trị thặng dư mà nhà TB đi vay phải trả
cho nhà TB sở hữu số TB cho vay khi sử dụng số TB của anh ta, coi như giá cả của TB
cho vay. Tức là một phần lợi nhuận trung bình mà các nhà TB công, thương nghiệp thu
được khi sử dụng TB cho vay vào hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi nhuận, trả cho
nhà TB cho vay.
Phần lợi nhuận trung bình còn lại trong tay các nhà TB công, thương nghiệp trực tiếp
kinh doanh gọi là lợi nhuận của chủ xí nghiệp. Sự phân chia lợi nhuận bình quân thành 2
bộ phận như vậy về hình thức là sự phân chia về lượng giữa 2 người cùng có quyền đối
với cùng 1 TB và cùng nhau phân chia một khoản lợi nhuận. Lợi nhuận của chủ xí nghiệp
dường như do công lao hoạt động của nhà TB và biểu hiện ra là tiền công của lao động
quản lý. Biểu hiện bề ngoài này là chỗ dựa cho những quan điểm sai lầm bênh vực sự bóc
lột của CNTB.
* Tỉ suất lợi tức (Z’): là tỉ lệ phần trăm giữa số lợi tức thu được (Z) và số TB tiền tệ cho
vay (k) trong một thời gian nhất định, thường là một năm:
Z’ = (Z/k) x 100%
Tỉ suất lợi tức có xu hướng giảm xuống do phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Tỉ suất lợi nhuận bình quân: do lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận trung bình nên Z’
cũng phụ thuộc vào P’. P’ có xu hướng giảm xuống nên Z’ cũng có xu hướng giảm.
+ Quan hệ cung cầu về TB cho vay: cung về TB cho vay tăng nhanh hơn cầu về TB cho
vay. Vì sự phát triển của CNTB làm tăng nạn “nhân khẩu thừa tương đối” và tình trạng
“TB thừa tương đối” nghĩa là có những TB ko tìm được nơi đầu tư có lợi. Do đó, các tập
đoàn và tầng lớp thực lợi trong GCTS tăng lên nhanh chóng.


+ Hệ thống tín dụng trong CNTB ngày càng phát triển. Hầu như mọi món tiền tạm thời
nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đều được huy động để biến thành TB cho vay.
- Địa tô TBCN (R):

+ Khái niệm: Địa tô là phần lợi nhuận siêu ngạch nằm ngoài lợi nhuận bình quân,
nguồn gốc do công nhân nông nghiệp tạo ra mà nhà TB phải nộp cho địa chủ về tiền thuê
đất.
+ Căn cứ hình thành địa tô chênh lệch:
* Nhóm 1: khẳng định các nhà TB kinh doanh trong công nghiệp có thu lợi nhuận siêu
ngạch dễ biến thành lợi nhuận bình quân (vì dễ di chuyển vốn). Các nhà TB trong nông
nghiệp có thu được lợi nhuận siêu ngạch khó biến thành lợi nhuận bình quân (vì diện tích
đất đai thuê theo hợp đồng).
* Nhóm 2: Trong công nghiệp, giá cả hàng hóa tính bằng điều kiện sản xuất trung bình
(tức bằng thời gian lao động xã hội cần thiết). Trong nông nghiệp, có 3 loại đất: tốt, trung
bình và xấu, giá cả nông sản tính bằng giá cả nông sản kinh doanh trên đất xấu nhất (vì đất
đai có hạn, nếu chỉ kinh doanh trên đất tốt và trung bình sẽ ko đủ cung cấp nông sản cho
xã hội).
Từ đó, suy ra TB kinh doanh trên đất tốt, trung bình so với đất xấu thu được lợi nhuận
siêu ngạch có tính ổn định tương đối hình thành lên địa tô chênh lệch.
Địa tô chênh lệch được chia làm 2 loại:
+ Địa tô chênh lệch 1: là địa tô thu được trên những ruộng đất có điều kiện tự nhiên
thuận lợi gồm độ màu mỡ của đất đai và vị trí gần, xa của đất đai, hai yếu tố này có thể
phát sinh tác dụng ngược chiều nhau: đất tốt nhưng ở xa hoặc ngược lại. Trong thực tế, có
nhiều cách kết hợp hai yếu tố này, độ màu mỡ và vị trí thuận lợi của đất ko phải là cố định
mà phụ thuộc vào sự tiến bộ của sản xuất, khoa học công nghệ, giao thông vận tải…
những yếu tố này tạo nên sự tác động đa dạng đối với địa tô chênh lệch 1.
+ Địa tô chênh lệch 2: gắn liền với việc thâm canh trong nông nghiệp, thâm canh là việc
đầu tư liên tiếp trên cùng 1 diện tích đất canh tác, kết quả của lần đầu tư sau cao hơn lần
đầu tư ban đầu. Trong địa tô chênh lệch 2 này, C.Mác phát hiện ra tính quy luật đó là
người cho thuê muốn ngắn hạn mâu thuẫn với người đi thuê muốn dài hạn.




×