Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

tình hình Nhật bản từ năm 1945 nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.04 KB, 16 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
KHOA LỊCH SỬ


ĐỀ TÀI
NHẬT BẢN TỪ NĂM 1945- NAY

GVHD: TS. HOÀNG THỊ NHƯ Ý
SVTH: Lê Hoàng Dung
MSSV : 1210928
Lớp

: LSK36


2

Đà lạt ngày 27, tháng 11 năm 2015

Mở Đầu
1.Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.Đóng góp của đề tài
6.Bố cục của đề tài
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lý do chon đề tài


Nhật Bản là một đảo quốc nằm ở khu vực Đông Bắc Á, là một nước được biết
đến với nhiều tên gọi: đất nước mặt trời mọc, xứ sở hoa anh đào, đất nước phù
tang..v.v. đặc biệt Nhật Bản là nước được ví như con rồng của Châu Á với lịch sử
hình thành và phát triển trải qua rất nhiều giai đoạn thăng trầm của chính trị -xã hội,
kinh tế ,khoa - học kỹ thuật, ngoại giao..v.v. Vốn nổi tiếng là một nước khan hiếm về
tài nguyên thiên nhiên, lại thường xảy ra những thiên tai, động đất, sóng thần. Nhưng
cho đến nay nhờ biết điều hành nền kinh tế, áp dụng các phương tiện khoa học-kỹ
thuật hiện đại mà Nhật Bản đã vươn lên thành một cường quốc đứng thứ hai trên thế
giới.
Điểm lại quá trình phát triển của Nhật Bản, trong bài tiểu luận này đi sâu vào
nghiên cứu lịch sử Nhật Bản giai đoạn 1945-nay.
2. sử nghiên cứu vấn đề


3

Nghiên cứu về lịch sử Nhật Bản đã được các học giả trong và ngoài nước nghiên cứu
rất nhiều cụ thể:
Trong cuốn “Lịch sử Thế giới hiện đại” của tác giả Nguyễn Anh Thái , NXB giáo dục
Việt Nam (2011) nói về Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2 đến năm 2000 nhưng
chỉ ở mức khái quát chưa đi vào cụ thể.
Giáo trình lịch sử Nhật Bản của tác giả Nguyễn Nam Trâm nói về Nhật Bản trải qua
các thời kỳ trong đó có giai đoạn thời Tai sô cho đến hiện nay.
Trong tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á cũng có phần nghiên cứu về Nhật Bản đặc biệt
là quan hệ Việt Nam Nhật Bản từ năm 1973 đến năm 2000.
4.

Phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận

Dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề “ngoại
giao” .
Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành bài tiểu luận này, phương pháp nghiên cứu đã sử dụng là
phương pháp lịch sử. Ngoài ra, bài tiểu luận được thực hiện trên cơ sở vận dụng một
cách tổng hợp các phương pháp nghiên cứu giữa phương pháp lịch sử kết hợp với
phương pháp lôgic, phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh.
5. Đóng góp của đề tài:
Dựa vào nguồn tài liệu thu thập được, qua đó, có thể thấy được nguyên nhân,
thay đổi trong chính trị, kinh tế, đối ngoại Nhật Bản và đối ngoại Nhật Bản đối với
Việt Nam. Ngoài ra, bài tiểu luận này có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc
học tập của sinh viên chuyên ngành lịch sử thế giới, quan hệ quốc tế, chính trị học, là
tài liệu chuyên khảo cho những người quan tâm đến các vấn đề lịch sử quan hệ quốc
tế, tìm hiểu tình hình Nhật Bản từ năm 1945- nay.
6. Bố cục đề tài
Bài tiểu luận này gồm 2 chương:
CHƯƠNG 1 NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH THẾ GiỚI THỨ 2 (1945-1953)


4

Chương này trình bày về vị trí địa lý Nhật Bản, những thiệt hại Nhật Bản sau chiến
tranh thế giới thứ 2, đồng thời trình bày những cải cách Nhật Bản đưa ra nhằm khắc
phục kinh tế sau chiến tranh.
CHƯƠNG 2 NHẬT BẢN 1953 –NAY
Chương này trình bày về tình hình kinh tế - khoa học kỹ thuật, chính trị, đối ngoại của
Nhật Bản từ năm 1953 đến này.


5


CHƯƠNG1
NHẬT BẢN SAU CHIẾN TRANH THẾ GiỚI THỨ 2 (1945-1953)
1.1.Vị trí địa lý Nhật Bản:
Nhật Bản là một đảo quốc ở Đông Bắc Á. Các đảo Nhật Bản là một phần của
dải núi ngầm trải dài từ Đông Nam Á tới Alaska. Nhật Bản có bờ biển dài 37.000 km.
Nhật Bản nằm ở phía Đông của châu Á, phía Tây của Thái Bình Dương, do
bốn quần đảo độc lập hợp thành. Bốn quần đảo đó là: quần đảo Kuril (Nhật Bản gọi
là quần đảo Chishima), quần đảo Nhật Bản, quần đảo Ryukyu, và quần đảo IzuOgasawara. Những quốc gia và lãnh thổ lân cận ở vùng biển Nhật Bản là Nga, Bắc
Triều Tiên, Hàn Quốc; ở vùng biển Đông Hải là Trung Quốc, Đài Loan; đi xa hơn
về phía Nam là Philippines và quần đảo Bắc Mariana. Xung quanh Nhật Bản là một
loạt các biển thông nhau.
1.2. Tình hình Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ 2 :(1945-1953)


Chính trị:

Là nước thua trận trong chiến tranh thế giới thứ 2, Nhật Bản bị mất hết thuộc
địa, và bản thân nước Nhật bị quân đội Mĩ chiếm đóng theo chế độ quân quản.
Người giữ trách nhiệm “ chỉ huy tối cao của Bộ tổng tư lệnh quân đội đồng minh
chiếm đóng tại Nhật Bản” ( SCAP) là tướng Mác Áctơ, trước đó là chỉ huy quân
đội Mĩ ở Thái Bình Dương.
Tuy chính phủ Nhật vẫn cai trị đất nước mình, nhưng lực lượng chiếm đóng
SCAP là người thực sự thảo ra những chính sách cơ bản đối với nước Nhật thời kỳ
đầu chiến tranh.
Ngày 3-11-1946, hiến pháp mới của Nhật Bản được công bố, thay cho hiến
pháp Minh Trị (1889). Hiến pháp này do lực lượng chiếm đóng SCAP soạn thảo
và sau đó được Quốc hội Nhật thông qua. Theo hiến pháp mới, Quốc hội là cơ
quan quyền lực tối cao, nội các chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Thiên hoàng chỉ
là người đứng đầu nhà nước có tính chất tượng trưng.



6

Hiến pháp mới công nhận và đảm bảo quyền tự do dân chủ của mọi công dân,
quyền nam nữ bình đẳng, quyền đình công..v..v Một đặc điểm của hiến pháp mới
là “ tuyên ngôn hòa bình”, tuyên bố Nhật không dùng chiến tranh để giải quyết
những tranh chấp quốc tế và không xây dựng lực lượng vũ trang (điều 9). Nhà
nước Nhật Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ 2 về hình thức vẫn là chế độ quân
chủ lập hiến, nhưng thực chất là một nhà nước theo chế độ dân chủ đại nghị, mọi
quyền lực trong tay 6 tập đoàn tài phiệt khổng lồ: Mitsubisi, Mitxui, Sumitômô,
Phugi, Đaichi, Sanma.
Ở Nhật Bản có 5 đảng chính trị lớn đều có đại biểu tham gia Quốc hội: Đảng dân
chủ tự do, Đảng dân chủ xã hội Nhật Bản (trước gọi là Đảng XHCN Nhật Bản), Đảng
Komeito, Đảng Cộng sản Nhật Bản và Đảng XHCN dân chủ.


KINH TẾ

Về kinh tế, SCAP thực hiện đồng thời 3 cuộc cải cách lớn”
Thứ nhất thủ tiêu sự tập trung kinh tế mà trọng tâm là giải thể các Daibatx xư,
nguồn gốc thúc đẩy Nhật thực hiện chiến tranh xâm lược. 83 công ti cổ phẩn và 57 gia
đình Daibat xư phải giao nộp tài sản. Các cổ phần được bán cho các cá nhân và hiệp
hội.
Thứ 2: cải cách ruộng đất được tiến hành với nội dung chuyển quyền sở hữu
ruộng phát canh đất cho tá điền. Các địa chủ được giữ chi ô ruộng đất (1 chi ô = 0,99
ha), số ruộng đất còn lại chính phủ mua và bán lại cho nông dân. Ruộng đất phần lớn
lọt vào tay bọn phú nông. Cuộc cải cách ruộng đất đã tạo điều kiện cho sự phát triển
các quan hệ TBCN ở nông thôn.
Thứ ba: dân chủ hóa lao động được thực hiện thông qua các đạo luật về lao

động, đảm bảo cho công nhân các quyền tổ chức công đoàn, bãi công.
Như vậy trong thời gian đầu của chiến tranh , quân đội Đồng minh chiếm đóng Nhật
đã thực hiện nghị quyết của hội nghị Poxdam về việc “phi quân sự hóa nền kinh tế
Nhật ”, “khuyến khích các lực lượng dân chủ”, “thủ tiêu sự tập trung” trong sản xuất
và chiếm hữu tài sản, trong đó có cả việc thanh trừ những tên quân phiệt và tài phiệt.
Từ năm 1947, do sự bùng nổ của “chiến tranh lạnh”, giữa hai phe. Nhật Bản được
coi là “bức tường chống cộng” ở Châu Á – Thái Bình Dương Mĩ đã thi hành chính
sách đảo ngược” đối với Nhật. Nhiều tên tội phạm chiến tranh được giảm tội. Mĩ


7

tuyên bố giảm tiền bồi thường chiến tranh của Nhật xuống còn 1/4 . Mĩ “viện trợ kinh
tế” cho Nhật dưới hình thức cho vay để phục hồi nền kinh tế ( 1945-1950), Nhật nhận
viện trợ, đầu tư của Mĩ và nước ngoài khoảng 14 tỉ đô la).
Nhờ vậy, nền kinh tế Nhật được phục hồi nhanh chóng, năm 1951 đã đạt được
mức trước chiến tranh. Sau khi phục hồi, kinh tế Nhật liên tục phát triển nhanh từ
giữa những năm 50 đến 60.
Về công nghiệp, Nhật đã đạt được những bước phát triển mạnh nhất và nhanh
nhất. Trong những năm 50-60, tốc độ tăng trưởng cổng nghiệp trung bình hàng năm
Nhật là 15,9% gấp 6 lần Mĩ (2,6%) hơn 5 lần Anh (2,9%), 3 lần Pháp và 2 lần Tây
Đức.
Về nông nghiệp, Nhật Bản phát triển theo hướng thâm canh, với trình độ cơ giới
hóa, thủy lợi hóa và điện khí hóa cao. Nên mặc dù thiếu đất canh tác, năm 1967san
lượng lương thực vẫn đủ cung cấp hơn 80% nhu cầu trong nước.
Về ngoại thương, trong vòng 21 năm (từ 1950-1971) tổng ngạch ngoại thương đã
tăng lên 25 lần ( từ 1,7 tỉ đô la năm 1950 lên 43,6 tỉ đô la năm 1971), xuất khẩu tăng
30 lần.
Do đó, tổng sản phảm quốc dân (GNP) của Nhật tăng rất nhanh. Năm 1950 giá trị
tuyệt đối GNP của Nhật mới đạt 20 tỉ đô la, nhỏ hơn bất kì một nước phương Tây nào

và chỉ băng 1/17 của Mĩ (349,5 tỷ đô la). Nhưng Nhật đã nhanh chóng vượt qua
Canada năm 1960, vượt Anh, Pháp vào những năm 60 , vượt Tây Đức năm 1968 và
trở thành cường quốc kinh tế thứ hai trong thế giới tư bản, sau Mĩ, với 183 tỉ đô la. Sự
tăng trưởng này được dư luận phương Tây suy tôn là “thần kì Nhật Bản”. Sự thần kì
của kinh tế Nhật Bản do nhiều nguyên nhân bên trong, bên ngoài tác động.
Trước hết là do điều kiện quốc tế thuận lợi. Sự tiến bộ khoa học –kĩ thuật vào
những năm đầu sau chiến tranh đã tạo ra những khả năng thuận lợi cho sự tăng trưởng
kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Nhật là nước đã tận dụng được những thuận lợi
này rất tốt. Cuộc chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam cũng là hai “ngọn
gió thần” thổi vào nền kinh tế Nhật Bản, vì Nhật kiếm được lợi nhuận khổng lồ do
thực hiện những đơn đặt hàng của Mĩ, làm căn cứ hậu cần cho Mĩ trong chiến tranh.
Nhật lại tranh thủ được viện trợ to lớn của Mĩ và quỹ tiền tệ quốc tế. Tóm lại, Nhật đã
biết tận dụng thời cơ do hoàn cảnh quốc tế bên ngoài đem đến.


8

Nhưng cái quyết định nhất là ở chỗ Nhật đã tạo ra được “một xã hội có năng lực
cao” để tận dụng đến mức tối đa những thuận lợi về chính trị và kinh tế, tận dụng
được tiến bộ khoa học kỹ thuật cảu thế giới. Có thể thấy rõ điều đó qua 5 điểm sau:
Một là, sự kết hợp giữa hiện đại và truyền thống: người Nhật trong khi mau chóng
tiếp thu nền văn hóa giáo dục và khoa học kĩ thuật tiên tiến của thế giới vẫn giữ được
bản sắc dân tộc của mình. Nhật bản thực hiện khẩu hiệu “học bên ngoài để biến thành
của Nhật”. Thời gian đầu, Nhật Bản các bằng phát minh sáng chế của nước ngoài để
đỡ tốn kém và rút ngắn được thời gian rồi sau đó cải tiến hoàn thiện cho phù hợp với
đất nước của mình.
Hai là, hệ thống tổ chức, quản lí hữu hiệu của các xí nghiệp công ti tư nhân Nhật
Bản: tầm nhìn xa, tính năng động, táo bạo của giới quản lí ở Nhật (phần lớn là các
giám đốc trẻ có năng lực, thay thế các giám đốc già của các Dai bát xư cũ); chế độ
làm việc suốt đời, lương tăng theo thâm niên, kết hợp với một hệ thống những kích

thích về vật chất và động viên về tinh thần rất đa dạng, tinh tế của công ti đã làm cho
công nhân gắn bó suốt đời và làm việc hết mình vào nhà máy.
Ba là, cơ cấu hai tầng là đặc điểm nổi bật của nền kinh tế Nhật. Nét phát triển độc
đáo của Nhật Bản là sự tồn tại rất phổ biến của loại hình sản xuất, kinh doanh nhỏ và
sự đóng góp to lớn của nó vào quá trình hiện đại hóa nước Nhật. Khu vực sản xuất
nhỏ thu hút lao động “thừa” của xã hội Nhật Bản vào guồng máy sản xuất, góp phần
ổn định xã hội, hạn chế nạn thất nghiệp “công khai”. Khi kinh doanh phát triển, khu
vực sản xuất nhỏ là địa bàn rộng lớn cho xí nghiệp độc quyền mở rộng nhanh chóng
sản xuất bằng chế độ gia công đặt hàng. Chính phủ và các công ti lớn giúp đỡ các đơn
vị kinh doanh nhỏ ứng dụng kĩ thuật hiện đại, cải tiến công nghệ, giúp sắp xếp việc
liên doanh, liên kết với nhau..v..v
Bốn là, vai trò của nhà nước: chính phủ tham gia vào việc phát triển kinh tế một
cách tích cực và sâu rộng hơn nhiều các chính phủ ở các nước phương Tây bằng việc
sử dụng hệ thống các kế hoạch và các chính sách. Theo nhận định của một số chuyên
gia, nền kinh tế Nhật Bản là “một hệ thống kinh tế chỉ huy thông minh nhất trên thế
giới”.
Năm là, con người Nhật Bản- là nhân tố quyết định cho sự phát triển kinh tế.
Người lao động Nhật được đào tạo nghề nghiệp rộng rãi, có trình độ văn hóa –kĩ thuật
cao, kĩ năng đổi mới và được bổ sung tri thức nhanh chóng, đồng thời lại hết sức cần
cù và chăm chỉ, tiết kiệm và kỉ luật. Ở Nhật, con người được coi là “công nghệ cao


9

nhất” và được sử dụng đến mức tối đa tiềm năng sáng tạo mà họ có. Nhật Bản hết sức
coi trọng việc phát triển khoa học kĩ thuật và cải cách nền giáo dục quốc dân một cách
năng động để thích nghi với những biến đổi của thế giới.
Đối ngoại
Ngày 8-9-1951, Nhật Bản kí với Mĩ “Hiệp ước an ninh Mĩ –Nhật”, chấp nhận
đặt quân đội Nhật dưới “ô bảo vệ hạt nhân” của Mĩ và để quân đội Mĩ xây dựng các

căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nhật. Hiệp ước này đã được gia hạn hai lần 1960 và năm
1970, sau đó kéo dài vô hạn. Giới cầm quyền Nhật cho thỏa thuận an ninh tay đôi Mĩ
– Nhật này là “Hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản”. Các quan hệ
Mĩ- Nhật được tăng cường liên tục suốt thời kì sau chiến tranh, bất chấp những xung
đột gay gắt về kinh tế.
1.3. Sự chiếm đóng của lực lượng Đồng minh (Mĩ):
Ngày 14-8-1945, Nhật Bản chịu sự chiếm đóng của lực lượng Đồng minh.
Nhiệm vụ chủ yếu của nhà cầm quyền Nhật Bản lúc này là phải thực hiện
nghiêm túc các sắc lệnh của Bộ chỉ huy các lực lượng chiếm đóng đưa ra. Chính phủ
Nhật Bản giữ vai trò là chính quyền thứ 2 sau Bộ chỉ huy Đồng minh.
Mục tiêu chủ yếu của lực lượng chiếm đóng là thủ tiêu chủ nghĩa quân phiệt và
“dân chủ hóa nước Nhật”.
Bước đầu của cải cách chính trị, lực lượng Đồng minh tiến hành những biện
pháp triệt để nhằmloại bỏ chủ nghĩa quân phiệt, xóa bỏ guồng máy chiến tranh Nhật
Bản trong một thời gian ngắn.
Đến ngày 16-9-1945 lực lượng vũ trang Nhật Bản đã bị giải trừ hoàn toàn.
Trong giai đoạn 1948- 1951 quân chiếm đóng Mĩ đã thực hiện đường lối thỏa
hiệp nới lỏng chính sách chiếm đóng, đẩy mạnh phục hồi kinh tế, cấu kết với Nhật,
thực hiện mưu đồ biến Nhật thành một Đồng minh của Mĩ và là một bức tường ngăn
chặn “làn sóng Cộng sản” ở Châu Á”.
Trong giai đoạn 1948- 1951 quân chiếm đóng Mĩ đã thực hiện đường lối thỏa
hiệp nới lỏng chính sách chiếm đóng, đẩy mạnh phục hồi kinh tế, cấu kết với Nhật,
thực hiện mưu đồ biến Nhật thành một Đồng minh của Mĩ và là một bức tường ngăn
chặn “làn sóng Cộng sản” ở Châu Á”.


10

CHƯƠNG 2
NHẬT BẢN 1953 – NAY

2.1. Chính trị
Suốt từ năm 1955 đến 1973, Đảng dân chủ tự do, chính đảng của tư bản tài
chính độc quyền liên tiếp cầm quyền ở Nhật Bản. Dựa vào sự giúp đỡ của Mĩ và câu
kết chặt chẽ với Mĩ, giai cấp cầm quyền của Nhật Bản đã thi hành một số chính sách
đối nội, đối ngoại làm tổn hại đến lợi ích của nhân dân Nhật Bản.
Trong chính sách đối ngoại giới cầm quyền Nhật Bản tìm mọi cách thủ tiêu
hoặc thu hẹp các quyền tự do dân chủ mà nhân dân Nhật Bản đã giành được trước
đây, tăng cường đàn áp phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân tiến
bộ Nhật Bản, nhất là định sửa đổi điều của hiến pháp. Cùng với việc ráo riết phục hồi
chủ nghĩa quân phiệt, chúng ra sức tái vũ trang Nhật Bản, bất chấp hiến pháp và sự
phản đối của nhân dân Nhật.
Đến kế hoạch phát triển quân sự lần thứ 4, giới cầm quyền Nhật Bản đã
tăngcường lực lượng vũ trang lên tới 280.000 người, bao gồm đầy đủ các quân chủng
hải, lục, không quân và các loại vũ khí hiện đại. Sau đó, Nhật Bản thực hiện kế hoạch
phát triển quân sự 5 năm lần thứ 6, trọng tâm hướng vào hải quân, không quân, mở
rộng binh chủng tên lửa và vũ khí tấn công
Tháng 8-1993 sau bốn thập niên cầm quyền và lãnh đạo, Đảng dân chủ tự do
phải nhường quyền lãnh đạo cho lực lượng đối lập.
Cuối tháng 9-1996, thủ tướng Nhật Bản Ryutarô giải tán quốc hội và quyết
định tổng tuyển cử trước thời hạn 20-10-1996.


11

Ngày 12/7/1998 được coi là một ngày "Chủ nhật đen" đối với đảng Dân chủ Tự
do (DCTD) ở Nhật Bản nói chung và nội các của Thủ tướng Ryutaro Hashimoto nói
riêng.
Thực tế cho thấy nội các Hashimoto đã tồn tại được 30 tháng, khoảng thời gian
tồn tại dài nhất của một chính phủ kể từ biến cố tháng 7/1993 khi đảng DCTD lần đầu
tiên mất vị trí đảng cầm quyền sau 38 năm nắm giữ vai trò này. Đây cũng là thời kỳ

tương đối bình yên trong nền chính trị Nhật Bản.
Các nhân vật chính trị hậu trường Jimintô đã chọn Thủ tướng Mori Yoshirô
tạm thời thế vào chỗ Obuchi, người đột ngột qua đời vào tháng 4 năm 2000.
Mori hai lần lập nội các trong thời gian ngắn ngủi là một năm (2000-2001).
Vẫn là một chính quyền liên hiệp giữa Jimintô và Kômei nhưng có thêm sự có mặt
của Đảng Bảo thủ (Hoshutô). Ông tiếp tục kế thừa chính sách của người tiền nhiệm
nhưng đáng tiếc là tình hình tài chánh nhà nước vẫn không chút cải thiện, bản thân
ông lại đánh mất sự ủng hộ của dư luận nên đã phải từ chức.
Koizumi giữ được chính quyền khá lâu (2001-2006).
Fukuda tại chức (2007-2008), rồi đột ngột ra đi, có lẽ vì từ bên trong nội bộ
Jimintô, đã có những triệu chứng phân rẽ và mệt mỏi.
Sau đó, thủ tướng Asô Tarô - cháu ngoại của Thủ tướng Yoshida Shigeru và
anh em họ với Abe Shinzô - cũng chỉ giữ chức vụ được mỗi một năm
Thủ tướng Kan Naoto, một nhà vận động xã hội dân sự có tên tuổi, lên thay thế
Hatoyama. Ông ở lại địa vị này lâu hơn một chút (6/2010-9/2011) nhưng xui cho ông,
vì không khéo xử lý việc đối phó với trận động đất lớn ở vùng Đông Bắc và vụ rò rĩ
phóng xạ lò nguyên tử Fukushima, mức tín nhiệm của quần chúng đối với ông và
đảng ông rơi xuống rất thấp.
Tiếp tục việc làm của ông, thủ tướng Noda Yoshihiko cũng chỉ tại chức được
hơn một năm (9/2011-12/2012) trước khi đảng Dân chủ bị đại bại trong cuộc tuyển cử
hạ viện (rồi cả thượng viện sau này vào tháng 7/2013).
Hiện thủ tướng đương nhiệm hiện nay của Nhật Bản là ông Abe Shinzô (12/2012).
2.2.Kinh tế-khoa học kỹ thuật


12

Từ năm 1953 đến năm 1960 có bước phát triển nhanh, từ năm 1960 đến năm
1973, kinh tế Nhật Bản bước vào giai đoạn phát triển “thần kì”, tốc độ tăng trưởng cao
liên tục, nhiều năm đạt tới hai con số (1960 – 1969 là 10,8%). Nhật Bản trở thành một

siêu cường kinh tế (sau Mĩ).
Nguyên nhân của sự phát triển kinh tế:
Coi trọng yếu tố con người: được đào tạo chu đáo, có ý thức tổ chức kỉ luật,
được trang bị kiến thức và nghiệp vụ, cần cù và tiết kiệm, ý thức cộng đồng…; được
xem là vốn quí nhất, là “công nghệ cao nhất”, là nhân tố quyết định hàng đầu.
Vai trò lãnh đạo, quản lí có hiệu quả của Nhà nước và các công ty Nhật Bản
(như thông tin và dự báo về tình hình kinh tế thế giới; áp dụng các tiến bộ khoa học,
kĩ thuật vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất và sức cạnh tranh hàng hóa, tín
dụng…).
Các công ty của Nhật Bản năng động, có tầm nhìn xa, quản lý tốt nên có tiềm
lực và sức cạnh tranh cao.
Luôn áp dụng các thành tựu khoa học – kĩ thuật hiện đại, không ngừng nâng cao
năng suất, cải tiến mẫu mã, hạ giá thành sản phẩm.
Chi phí cho quốc phòng ít nên có điều kiện tập trung cho phát triển kinh tế.
Tận dụng tốt các điều kiện bên ngoài như nguồn viện trợ Mĩ, các cuộc Chiến tranh
Việt Nam (1954 – 1975) để làm giàu.
Từ đầu thập kỉ 90, kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái nhưng Nhật Bản
vẫn là một trong ba trung tâm kinh tế-tài chính lớn của thế giới.
Tỉ trọng của Nhật Bản trong nền sản xuất của thế giới là 1/10. GDP của Nhật Bản
năm 2000 là 4 746 tỉ USD và bình quân GDP trên đầu người là 37 408 USD.
Thế kỷ 21 Nhật Bản giải quyết các khoản nợ xấu và đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo
tăng trưởng bền vững. Những cải cách kinh tế của thủ tướng Koizumi đã phát huy tác
dụng. Trong giai đoạn này kinh tế Nhật Bản đã thoát khỏi sự suy thoái và có mức tăng
trưởng dương mặc dù mức độ vẫn còn rất khiêm tốn.
Tuy nhiên sau khi Thủ tướng Koizumi kết thúc nhiệm kỳ vào năm 2006, nền kinh
tế Nhật Bản bước vào giai đoạn suy thoái và mức độ đặc biệt nghiêm trọng trong
những năm 2009 do tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu.


13


Nhờ những giải pháp khắc phục khủng hoảng của chính phủ Nhật Bản, nền kinh
tế Nhật Bản quý II năm 2009 đến nay đã ra khỏi tình trạng suy thoái và bước đâù có
những khả quan. Tuy Nhiên, những nhân tố cho sự phụ hồi này vẫn là những nhân tố
không bền vững với rất nhiều thách thức đáng kể vẫn còn hiện hữu. Đó là tình trạng
giảm phát, thất nghiệp, và tỉ lệ nợ công cao. Từ đó có thể khẳng định nền kinh tế Nhật
Bản trong nhưng năm sắp tới chưa thể đột phá gì. Mặc dù vẫn có tăng trưởng, song
tốc độ không cao và không bền vững.
Tính đến năm 1992, Nhật Bản đã phóng 49 vệ tinh khác nhau và hợp tác có hiệu
quả với Mĩ, Liên Xô (sau là Liên bang Nga), trong các chương trình vũ trụ quốc tế.
Hiện này Khoa học kỹ thuật Nhật Bản rất phát triển đặt biệt là các ngành sản xuất
ô tô, chế tạo Rô Bốt..v..v
2.3.Chính sách đối ngoại
Trong chính sách đối ngoại, Nhật Bản đẩy mạnh việc liên minh với các thế lực
quân phiệt phản động quốc tế nòng cốt là liên minh Mĩ – Nhật, Nhật Bản đã chính
thức biến thành một căn cứ chiến lược của Mĩ (lúc này Mĩ đã xây dựng trên đất Nhật
179 căn cứ quân sự với 61.000 quân, riêng đảo Ôkinaoa có 88 căn cứ quân sự và 35
000 lính Mĩ) và bị đặt dưới “ô bảo vệ hạt nhân” của Mĩ. Bước đi đầu tiên trong chính
sách ngoại giao kinh tế Nhật Bản “ bồi thường chiến tranh” bằng hàng hóa, thiết bị
cho Philippin(1954), Miến Điện (1954), Inđônêsia (1958), chính quyền Sài Gòn
(1959) để xâm nhập kinh tế và mở rộng thị trường xuất khẩu Nhật Bản.
Năm 1956, Nhật Bản bình thường hoá quan hệ với Liên Xô và tham gia Liên
hợp quốc.
Năm 1973, Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam và bình
thường hoá quan hệ với Trung Quốc.
Chính sách đối ngoại của Nhật trong thập kỷ 80 tiếp tục mang tính chủ động
hơn, nhất là dưới thời kỳ Thủ tướng Nakasone nắm quyền. Từ năm 1985, với việc
nâng giá đồng yên, Nhật bản tăng cường ảnh hưởng kinh tế trong khu vực châu Á với
mô hình đàn sếu bay với ý đồ trở thành đầu tầu cho sự phát triển kinh tế ở đây.
Tháng 4 năm 1996 Mĩ và Nhật Bản ra tuyên bố khẳng định lại việc kéo dài

vĩnh viễn hiệp ước an ninh Mỹ- Nhật. Mặt khác, với học thuyết Miyadaoa (1-1993),


14

và học thuyết Hasimôtô (1-1997), Nhật Bản vẫn coi trọng quan hệ với Tây Âu, mở
rộng hoạt động đối ngoại với các nước Đông Nam Á
Chính sách đối ngoại của Nhật trong thập kỷ 90 được đặc trưng bởi việc củng
cố quan hệ với Mỹ qua việc ký Tuyên bố chung về “An ninh Nhật-Mỹ trong thế kỷ
21” năm 1996 và đưa ra Phương châm phòng thủ mới Nhật-Mỹ vào năm 1997.
Bước vào thế kỷ 21, với những diễn biến phức tạp của cuộc chiến tranh chống
khủng bố và tình hình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên, Tranh chấp chủ quyền biển
đảo, Nhật Bản đã định hình lại chính sách đối ngoại của Mình. Tiếp tục chính sách
ủng hộ mạnh mẽ Mỹ và tăng cường khả năng tự vệ của mình.
Từ khi lên nắm quyền tháng 12/2012, Đảng cầm quyền Dân chủ tự do( LDP)
đã triển khai chính sách đối ngoại.
Củng cố đồng minh Nhật-Mỹ, coi trọng quan hệ hợp tác với các nước láng
giềng .
Triển khai ngoại giao kinh tế để khôi phục kinh tế của Nhật Bản và theo
phương châm: Bảo đảm an ninh quốc gia, tạo dựng một môi trường hòa bình và ổn
định của khu vực.
Triển khai thuyết “ngoại giao giá trị” với tầm nhìn toàn cầu, tăng cường liên kết
với các nước có cùng giá trị cơ bản về tự do, dân chủ, sự chi phối của pháp luật đề
hình thành một “vòng cung” bao vây, kiềm chế Trung Quốc; Tạo điều kiện phát triển
đất nước, nhất là đảm bảo an ninh năng lượng.


Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản

Sau năm 1975, Việt Nam và Nhật Bản trao đổi Đại sứ quán; ký thoả thuận về

việc Chính phủ Nhật Bản bồi thường chiến tranh với danh nghĩa viện trợ không hoàn
lại của Chính phủ Nhật Bản đối với Việt Nam 13,5 tỷ Yên (khoảng 49 triệu USD).
Giai đoạn 1979-1990, do vấn đề Campuchia, Nhật Bản đông kết các khoản viện trợ đã
thỏa thuận, lấy vấn đề rút quân Việt Nam khỏi Campuchia làm điều kiện mở lại viện
trợ; phối hợp với Mỹ và Phương Tây ngăn cản các tổ chức tài chính quốc tế (IMF,
WB, ADB…) cung cấp tài chính cho Việt Nam. Quan hệ chính trị rất hạn chế.
Khuôn khổ quan hệ giữa hai nước không ngừng được nâng cấp với nội dung
hợp tác ngày càng sâu rộng. Từ quan hệ “Đối tác tin cậy, ổn định lâu dài” (4/2002) lên
Đối tác bền vững (7/2004). Tháng 11/2006, nhân chuyến thăm Nhật Bản của Thủ


15

tướng Nguyễn Tấn Dũng hai bên ký Tuyên bố chung về “Hướng tới đối tác chiến lược
vì hòa bình và phồn vinh ở Châu Á”. Năm 2007, Tuyên bố chung về việc “Làm sâu
sắc hơn quan hệ Việt Nam và Nhật Bản” và “Chương trình hợp tác hướng tới quan hệ
đối tác chiến lược” (nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản của Chủ tịch nước
Nguyễn Minh Triết tháng 11/2007).
Nhật Bản là nước G-7 đầu tiên đón Tổng Bí thư ta đi thăm (năm 1995), nước
G-7 đầu tiên thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược với ta (năm 2009), nước G-7 đầu
tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam (năm 2011) và là nước G-7
đầu tiên nguyên thủ gọi điện thoại cho Lãnh đạo cấp cao của ta ngay sau khi lên nắm
quyền (năm 2012). Nhật Bản được coi là một đối tác có vốn đầu tư lớn tại Việt nam
KẾT LUẬN
Sau chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Nhật Bản là nước bại trận và lần đầu
tiên trong lịch sử của mình Nhật Bản bị quân đội nước ngoài chiếm đóng. Sau chiến
tranh, đất nước Nhật Bản mất hết thuộc địa, kinh tế bị tàn phá nặng nề; đồng thời xuất
hiện nhiều khó khăn bao trùm đất nước. Nhưng cũng ngay sau chiến tranh, dưới chế
độ của quân Mĩ, một loạt các cải cách dân chủ được tiến hành như ban hành hiến Pháp
mới ( 1946) có nhiều nội dung tiến bộ; thực hiện cải cách ruộng đất (1946-1949), xoá

bỏ chủ nghĩa quân phiệt và trừng trị các tội phạm chiến tranh; giải giáp các lực lượng
vũ trang; giải thể các công ty độc quyền lớn; thanh lọc các phần tử phát xít ra khỏi các
cơ quan nhà nước; ban hành các quyền tự do dân chủ.
Những cải cách này đã mang lại luồng không khí mới đối với các tầng lớp nhân
dân và là một nhân tố quan trọng giúp Nhật Bản phát triển mạnh mẽ. Tiếp đó, Nhật
bước vào thời kỳ tăng trưởng cao kéo dài cho đến những năm đầu 1970.
Nhật Bản 1953-1975 có sự phát triển thần kì về kinh tế . Nhưng chính sự thần
kỳ của nền kinh tế Nhật cũng làm nẩy sinh nhiều vấn đề lớn: phụ thuộc ngày càng
tăng vào thị trường và nguồn nguyên nhiên liệu bên ngoài; ô nhiễm môi trường nặng
nề. Đặc biệt là mâu thuẫn thương mại với các bạn hàng, nhất là Mỹ, ngày càng gay
gắt.
Từ năm 1970 đến nay mặc dù chính trị, kinh tế, ..v..v Nhật Bản có những biến
động nhưng Nhật Bản vẫn là một nước có trình độ phát triển cao và là một đối tác lớn
và đáng tin cậy với Việt Nam.


16



×