Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Công tác huy động vốn tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải chi nhánh Thái Bình thực trạng và giải pháp”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.51 KB, 67 trang )

Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước ta sau nhiều năm tiến hành đổi mới đã đạt được nhiều thành quả
đáng kể về kinh tế cũng như xã hội, từng bước thu hẹp khoảng cách với các nước
trong khu vực và trên thế giới trên mọi lĩnh vực. Để thực hiện thành công được
các mục tiêu chiến lược đó thì đất nước ta sẽ cần một nguồn vốn rất lớn để phục
vụ nhu cầu kiến thiết. Để đáp ứng các nhu cầu về vốn đó chúng ta đã thực hiện
nhiều biện pháp như đầy mạnh thu hút FDI, vay nợ nước ngoài, vốn hỗ trợ ODA,
cùng với lượng vốn trong nước …..vv. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế
giới, các nước châu âu đang lún sâu vào nợ công khiến cho các nguồn vốn từ bên
ngoài bị hạn chế rất nhiều so với những năm trước, vì thế các nguồn vốn trong
nước ngày càng thể hiện rõ hơn vai trò của nó trong công cuộc dựng xây đất
nước. Nó là cơ sở thực đẩy sự phát triển của quốc gia trong bối cảnh khó khăn
chung của nền kinh tế thế giới.
Để tận dụng được lượng vốn trong nước thì cần sự tham gia của cả hệ thống
ngân hàng trong nước. Và đặc biệt phải quan tâm đến công tác huy động vốn của
các ngân hàng thương mại. Thực hiện đường lối chung của Đảng và Nhà nước,
trong những năm vừa qua, hệ thống ngân hàng của nước ta đã phát huy được vai
trò của mình đó là làm cầu nối trung gian giúp đáp ứng đầy đủ nhất nhu cầu vốn
cho sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế. nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều
bất cập xoay quanh hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn của các ngân hàng
thương mại trong hệ thống. Để phát huy tốt hơn nữa những ưu điểm và khắc
phục bất cập đang còn tồn tại, vào cuối năm 2011 và đầu năm 2012 NHNN đã


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

có những bước cải tổ đột phá cho hệ thống NH. Sự cải tổ sâu rộng này từng


bước nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức tín dụng nói chung và của
công tác huy động vốn nói riêng
Với sự hướng dẫn của Giảng Viên : Trần Thị Thu Hiền và sự giúp đỡ của
các anh chị tại Maritime Bank Thái Bình, em đã lựa chọn đề tài “Công tác huy
động vốn tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải chi nhánh Thái Bình - thực trạng
và giải pháp”


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

CHƯƠNG I
TỔNG QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG
TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ HIỆN NAY.

1.1.1.Khái niệm ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng với nền kinh tế nói
chung và đối với cộng đồng địa phương nói riêng. Để định nghĩa ngân hàng
người ta có thể dựa vào rất nhiều các cở sở khác nhau: tính chất, mục đích hoạt
động, các sản phẩm mà ngân hàng cung cấp….vvv. Vì vậy hình thành nên rất
nhiều các khái niệm khác nhau về NHTM ở mỗi quốc gia khác nhau.
+ Theo luật ngân hàng của nước Mỹ: Bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài
khoản tiền gửi, cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu. Và cho vay các tổ
chức kinh doanh hay cho vay thương mại được xem là các ngân hàng
+ Theo luật ngân hàng Pháp 1941: NHTM là xí nghiệp hay cơ sở hành nghề
thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác
các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay
dịch vụ tài chính.
+ Theo luật các tổ chức tín dụng tại Việt Nam: “Ngân hàng là các tổ chức

tín dụng thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan”


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

Hoạt động ngân hàng là các hoạt động kinh doanh tiền tệ, chủ yếu là nhận
tiền gửi, sử dụng số tiền đó để cho vay và thực hiện các nghiệp vụ thanh toán
chính của ngân hàng.
Khi đi sâu vào xem xét thì các định nghĩa trên đều xuất phát từ những sản
phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Rõ ràng ngân hàng được định nghĩa thông
qua các dịch vụ mà nó thực hiện trong nền kinh tế. Nhưng vấn đề là không chỉ có
ngân hàng thay đổi, mà các tổ chức tài chính không phải là ngân hàng cũng
thường xuyên thay đổi chức năng, sản phẩm dịch vụ trong quá trình hoạt động
của mình. Thực tế là có rất nhiều các tổ chức tài chính – bao gồm các công ty
chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, đều cố gắng cung cấp các dịch vụ
của ngân hàng. Vì vậy để có thể tiếp cận một cách chính xác nhất thì chúng ta
tiếp cận theo phương diện những loại dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch
vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toánvà thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế
Vì sự đa dạng của các chức năng như vậy ngân hàng được gọi là “ bách hóa
tài chính ” trong nền kinh tế, ở đó buôn bán khá đa dạng các sản phẩm tài chính,
đáp ứng nhu cầu đa dạng của các khách hàng.

1.1.2 Chức năng của Ngân Hàng Thương Mại Trong nền kinh tế thị trường
1.1.2.1Chức năng trung gian tài chính.
Đây là chức năng quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Các ngân
hàng thương mại nhận tiền gửi và cho vay chính là đã thực hiện việc chuyển tiền



Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

tiết kiệm thành tiền đầu tư. Những chủ thể thừa vốn trong nền kinh tế cũng có
thể trực tiếp đầu tư bằng cách mua các công cụ tài chính như: cổ phiếu, trái phiếu
của doanh nghiệp hoặc chính phủ trên thị trường tài chính. Nhưng thị trường tài
chính trực tiếp đôi khi không đem lại hiệu quả cao nhất cho người đầu tư vì: khó
tìm kiếm thông tin, chỉ phí tìm kiếm thông tin lớn, chất lượng thông tin không
cao, chi phí dao dịch lớn và phải có cùng nhu cầu giữa người cần vốn, người
thiếu vốn trong nền kinh tế ….vvv. Chính vì thế tư cách là một trung gian tài
chính đứng ra nhận tiền gửi tiết kiệm và cung cấp vốn cho nền kinh tế với số
lượng và thời hạn phong phú, chuyên môn hóa vào từng lĩnh vực NHTM đã thực
sự giải quyết được hạn chế của thị trường tài chính trực tiếp, góp phần nâng cao
hiệu quả luân chuyển vốn trong nền kinh tế thị trường.
1.1.2.2.Chức năng tạo tiền.
Chức năng tạo tiền là một chức năng vô cùng quan trọng của NHTM. Chức
năng này được thể hiện trong quá trình NHTM cấp tín dụng ch nền kinh tế và
hoạt động đầu tư của NHTM, trong mối quan hệ với NHTW đặc biệt là trong
quá trình thực hiện chính sách tiền tệ mà mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn
định giá trị đồng tiền. Từ một lượng tiền phát hành qua hệ thống NHTM sẽ được
tăng lên gấp bội khi NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế. Khối lượng tiền qua hệ
thống NHTM sẽ được tăng lên gấp bội khi NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế.
NHTW có thể điều tiết khối lượng tiền cung ứng bằng cách thay đổi lượng
tiền tỷ lệ dự trữ bắt buộc để tăng hoặc giảm khả năng tạo tiền của NHTM từ đó
ảnh hưởng đến khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế do đó đạt được mục tiêu
chính sách tiền tệ đặt ra.



Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

1.1.2.3.Chức năng cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán.
Thông qua chức năng là trung gian tài chính NHTM làm tăng lượng tiền trong
lưu thông và cung ứng cho những người đầu tư chứng khoán có tính lỏng cao
hơn và có rủi ro thấp hơn do đó sẽ an toàn hơn khi nhà đầu tư nắm giữ những
chứng khoán sơ cấp do doanh nghiệp, côn ty phát hành.
Các NHTM còn cung cấp một danh mục phương tiện thanh toán rất đa dạng
và phong phú: séc chuyển tiền, séc chuyển khoản, thẻ tín dụng…..sự xuất hiện
của các phương tiện thanh toán này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng
giao dịch thương mại, mua bán hàng hóa an toàn nhanh chóng, chi phí thấp.

1.1.2.4.NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính.
Ngoài các dịch vụ truyền thống là cho vay và huy động, NHTM ngày nay
còn cung cấp một danh mục dịch vụ khá đa dạng và phong phú: Dịch vụ thanh
toán, dịch vụ môi giới, bảo lãnh, tư vấn bảo hiểm…..
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các loại dịch vụ ngân hàng
cũng phát triển và mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng. Chưa bao giờ các
dịch vụ tài chính ngân hàng lại phát triển như bây giờ. Đồng thời với việc phát
triển các dịch vụ này cũng làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng chu chuyển vốn
trong nền kinh tế, làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông do đó tiết kiệm được
chi phí in ấn kiểm đếm tiền.
Ngày nay trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng việc đưa
ra các dịch vụ mới làm tăng tiện ích cho khách hàng là một yếu tố để cạnh tranh.
Chính vì vậy mà các ngân hàng ngày nay rất tích cực đầu tư của trang thiết bị cơ
sở vật chất, áp dụng công nghệ tin học, khoa học kĩ thuật vào hoạt động của
mình. Nếu các NHTM có thể đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng về dịch vụ, tạo



Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

được uy tín với khách hàng thì đây là một biện pháp để tăng khả năng huy động
vốn.
1.1.3.Vai trò của ngân hàng thương mại.
Từ khái niệm về NHTM nêu trên áp dụng vào thực tế nước ta, một nước
nông nghiệp, đang trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước,
đang rất cần đến các NHTM với vai trò to lớn của nó. Nhất là trong giai đoạn
hiện nay khi quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đang đi vào chiều
sâu, yêu cầu cần một lượng vốn lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng tốc đầu tư,
từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, thì
vai trò của NHTM càng được chú trọng.

1.1.3.1.Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Vốn được tạo ra trong quá trình tích lũy, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh
nghiệp và các tổ chức trong nền kinh tế. Vì vậy, muốn có nhiều vốn thì phải tăng
cường thu nhập quốc dân, có mức độ tiêu dùng hợp lý. Tăng thu nhạp quốc dân
đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hóa, đẩy mạnh sự phát
triển của các ngành trong nền kinh tế. Điều đó muốn làm được thì lại cần có vốn.
Vốn là nguồn sinh lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Khi nguồn sinh lực bị hạn chế thì sức khỏe của doanh nghiệp sẽ gặp vấn đề trong
quá trình hoạt động kinh doanh. NHTM chính là người đứng ra khơi nguồn vốn
nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế…..Thông qua hình thức
cấp tín dụng, NHTM đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có khả năng mở
rộng sản xuất, cải tiến may móc, thiết bị, đổi mới quy trình công nghệ, nâng cao
năng suất lao động đem lại nhiều hiệu quả kinh tế, cũng có nghĩa là sức cạnh


Khoa: Ngân Hàng- Bảo

Hiểm

tranh của doanh nghiệp được đưa lên một mức cao hơn. Như vậy với khả năng
cung cấp vốn, NHTM đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát
triển kinh tế của một quốc gia.
1.1.3.2.Ngân Hàng thương mại là cầu nối giữa doanh nghiệp và thị trường.
Thị trường ở đây được hiểu trên hai phía, thị trường đầu vào và thị trường
đầu ra của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành bất kỳ một hoạt động kinh doanh
nào, doanh nghiệp cần phải tham gia vào thị trường đầu vào nhằm thực hiện
thành công chiến lược riêng của mình. Và trên cở sở đó tiếp cận với thị trường
đầu ra, tìm kiếm lợi nhuận. Quy trình đó được bắt đầu khi doanh nghiệp có đầy
đủ nguồn sinh lực, đó chính là lượng vốn cần thiết. Nhưng không phải doanh
nghiệp nào cũng có khả năng về tài chính. Do vậy, buộc họ phải tìm kiếm vốn
phục vụ chính nhu cầu của mình. Nguồn vốn tín dụng là một giải pháp hữu hiệu
giúp giải quyết những khó khăn đó, tạo cho doanh nghiệp có đủ khả năng thỏa
mãn tối đa nhu cầu của thị trường, tạo cho doanh nghiệp có đủ khả năng thỏa
mãn tối đa nhu cầu của thị trường trên nhiều phương diện: giá cả, chủng loại,
chất lượng, thời gian, địa điểm…..NHTM sẽ là cầu nối giúp doanh nghiệp và thị
trường gần nhau hơn cả về không gian và thời gian.

1.1.3.3. Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài
chính quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa như hiện nay thì vai trò này ngày
càng thể hiện được tầm quan trọng. Sức ép cạnh tranh từ bên ngoài, khiến cho
nền kinh tế của mỗi quốc gia khi mở cửa hộ nhập phải có tiềm lực lớn mạnh về
các mặt, đặc biệt là sức mạnh tài chính. Trên những điểm mạnh này mà phát huy


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm


được lợi thế cạnh tranh của quốc gia mình, qua đó thúc đẩy kinh tế trong nước.
Câu hỏi được đặt ra làm sao có thể hòa nhập nền tài chính quốc gia và phần còn
lại của thế giới? Câu hỏi này được giải đáp nhờ vào hệ thống các NHTM vì hệ
thống này có khả năng cung cấp nhiều loại hình dịch vụ khác nhau hỗ trợ cho
việc đầu tư nước ngoài vào trong nước theo các hình thức: Thanh toán quốc tế,
nghiệp vụ hối đoái, cho vay ủy thác đầu tư….giúp cho luồng vốn ra vào nền kinh
tế quốc gia một cách hợp lý, đư nền tài chính nước nhà bắt kịp với nền tài chính
quốc tế. Đây là điều kiên tiên quyết cho tiến trình hội nhập kinh tế ở các quốc gia
trên thế giới.

1.1.3.4.Ngân hàng thương mại là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế.
Hệ thống NHTM hoạt động có hiệu quả sẽ thực sự là công cụ để nhà nước
điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua hoạt động thanh toán giữa các ngân hàng
trong hệ thống, NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng cho lưu
thông. Thông qua công tác tín dụng cho nền kinh tế, NHTM thục hiện việc dẫn
dắt các nguồn tiền, tập hợp và phân phối trên thị trường, điều tiết chúng hiệu quả
và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp kinh tế vĩ mô.
Khi nhà nước muốn phát triển một ngành hay một vùng kinh tế nào đó thì
cùng với việc sử dụng các công cụ khác để khuyến khích thì các ngân hàng
thương mại luôn được sử dụng. NHNN yêu cầu các NHTM thực hiện các chính
sách ưu đãi trong đầu tư, sử dụng vốn như: Giảm lãi suất, kéo dài thời gian vay
vốn, giảm điều kiện cho vay. Hoặc thông qua các ngân hàng thương mại, chính
phủ cấp vốn ưu đãi cho các lĩnh vực nhất định…..vvv.


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm


Một trong những con đường dẫn tới lạm phát của nền kinh tế là lạm phát
qua con đường tín dụng ngân hàng. Khi lạm phát tăng cao NH Nhà Nước nâng
cao tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu hoặc thăm gia vào thị trường mở để
thông qua các ngân hàng thương mại thay đổi lại lượng tiền trong lưu thông. Các
Ngân Hàng Thương Mại thay đổi lại lượng tiền trong dữ trữ của mình, tác động
tới lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế, làm cho quá trình tái sản xuất diễn ra
liên tục, góp phần điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua của đồng tiền,
kiềm chế lạm phát.
1.2.VỐN VÀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.

1.2.1 Khái niệm vốn, kết cấu, vai trò của vốn trong hoạt động của ngân hàng
thương mại.
A) Khái niệm vốn.
Vốn trong hoạt động của ngân hàng thương mại là giá trị tiền tệ mà ngân
hàng thương mại tạo lập hoặc huy động được dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực
hiện các dịch vụ kinh doanh khách. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của ngân hàng
thương mại, quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
B) Kết cấu vốn của ngân hàng thương mại.
Vốn tự có
Vốn tự có là giá trị thực có của vốn điều lệ và các quỹ dự trữ và một số tài
sản nợ khác của ngân hàng theo quy định của NHNN, vốn tự có chiếm tỷ trọng


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

rất nhỏ nhưng có vai trò quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng thương
mại. Vốn tự có gồm:
- Vốn điều lệ: là số vốn do pháp luật quy định khi ngân hàng mới thành lập

và đi vào hoạt động.
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: được trích lập hàng năm theo tỷ lệ phần
trăm trên lợi nhuận sau thuế và không được vượt qua vốn điều lệ.
- Quỹ dự phòng tài chính: được trích lập hàng năm theo tỷ lệ phần trăm trên
lợi nhuận sau thuế nhưng không được vượt quá 25% vốn điều lệ.
- Tài sản nợ khác: lợi nhuận chưa phân phối, hao mòn tài sản cố định…..
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ do ngân hàng huy động được từ hai
nguồn chủ yếu là:
- Tiền gửi của cá nhân và hộ gia đình.
- Tiền gửi của tổ chức kinh tế và doanh nghiệp.
Vốn Huy động.
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các
tổ chức kinh tế và cá nhân trong xó hội và được dùng làm vốn để kinh doanh.
Vốn huy động là tài sản thuộc các chủ ngu hữu khác nhau, ngân hàng chỉ có
quyền sử dụng và phải hoàn trả đúng gốc và lói khi đến hạn. Nguồn vốn này
luôn biến động
Đây là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng sử dụng để kinh doanh của ngân
hàng. Vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của NHTM.
Để đảm bảo hoạt động có hiệu quả cao, ngân hàng phải huy động vốn đủ
vốn đáp ứng cho nhu cầu sử dụng vốn làm sao để huy động được nguồn vốn phự


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

hợp với chi phí thấp nhất, tỷ trọng các nguồn vốn phải hợp lý từ đó nâng cao
được sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
Vốn đi vay.
b)


Vay TCTD khác

Trong quá trình hoạt động ngân hàng có thể vay TCTD khác thông qua thị
trường tiền tệ liên ngân hàng. Chi phí của nguồn vốn này thường cao và thời
gian sử dụng thường ngắn. Các ngân hàng cho nhau vay dưới các hình thức: vay
qua đêm, vay kỳ hạn, hợp đồng gia hạn.
b) Vay NHTƯ
NHTƯ cho NHTM vay dưới hình thức chiết khấu giấy tờ có giá. Mục đích
cho vay của NHTƯ với NHTM là: thực thi chính sách tiền tệ, đảm bảo an toàn
hệ thống ngân hàng. Chi phí của nguồn vốn này cao hay thấp phụ thuộc vào
chính sách tiền tệ của NHTƯ: giả sử khi NHTƯ muốn tăng mức cung ứng tiền
thì NHTƯ sẽ giảm mức lãi suất chiết khấu từ đó sẽ kích thích các NHTM vay
NHTƯ nhiều hơn do đó tăng khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế thúc đẩy
kinh tế phát triển và ngược lại.
Các loại vốn khác.
Vốn khác là phần vốn phỏt sinh trong quá trình thực hiện các nghiệp
vụ khác của ngân hàng như : Vốn trong thanh toán, nguồn vốn ủy thác đầu tư…
C) Vai trò của vốn
Vai trò của vốn trong hoạt động của ngân hàng thương mại.
* Đối với toàn bộ nền kinh tế.
Tiết kiệm và đầu tư là những cơ sở nền tảng của nền kinh tế. Tiết kiệm và
đầu tư có mối quan hệ nhân quả, tiết kiệm góp phần thúc đẩy, mở rộng phát triển


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

sản xuất kinh doanh, tăng cường đầu tư và đầu tư cũng góp phần khuyến khích
tiết kiệm. Nhưng trong nền kinh tế các khoản tiết kiệm thường nhỏ, lẻ và người
tiên phong trong việc tập hợp vốn hiệu quả nhất chính là các ngân hàng thương

mại. Thông qua các kênh huy động vốn, các khoản tiết kiệm chuyển thành đầu tư
góp phần làm tăng hiệu quả của nền kinh tế.
Đối với những người có vốn nhàn rỗi: Việc huy động vốn của ngân hàng
trước hết sẽ giúp cho họ những khoản tiền lãi hay có được các dịch vụ thanh toán
đồng thời các khoản tiền không bị chết, luôn được vận động, quay vòng.
Đối với những người cần vốn: Họ sẽ có cơ hội mở rộng đầu tư, phát triển
sản xuất kinh doanh từ chính nguồn vốn huy động của ngân hàng.
Việc huy động vốn của ngân hàng giúp cho nền kinh tế có được sự cân đối
về vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các cơ hội đầu tư luôn có điều kiện để
thực hiện. Quá trình tái sản xuất mở rộng sẽ được thực hiện dễ dàng hơn với việc
huy động vốn của các ngân hàng thương mại. Tuy việc huy động vốn có thể thực
hiện bằng nhiều kênh: thị trường chứng khoán, ngân sách nhà nước...nhưng
trong điều kiện nước ta hiện nay thì huy động vốn qua các ngân hàng thương mại
vẫn là hình thức chủ yếu và quan trọng nhất.
* Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
a. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh
Để bước vào hoạt động kinh doanh thì đầu tiên ngân hàng phải cần có vốn.
Ngoài lượng vốn bắt buộc phải có, ngân hàng phải huy động từ các nguồn khác.
Ngân hàng đi vay để cho vay. Vậy để có hoạt động cho vay thì phải có thứ để mà
cho vay. Nguồn vốn phản ánh tiềm năng và sức mạnh của ngân hàng. Đối với
những ngân hàng lớn, việc tham gia tài trợ cho những dự án lớn luôn dễ dàng


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

hơn các ngân hàng nhỏ. Vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh mà còn là đối
tượng kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại. Nói cách khác, không có
vốn thì ngân hàng không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh của mình.
b. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác

của ngân hàng.
Hoạt động tín dụng của ngân hàng phụ thuộc vào vốn của ngân hàng. Ngân
hàng có nhiều vốn sẽ có ưu thế cạnh tranh hơn so với ngân hàng ít vốn. Có được
nhiều vốn ngân hàng sẽ có điều kiện để đưa ra các hình thức tín dụng linh hoạt,
có điều kiện để hạ lãi suất từ đó sẽ làm tăng quy mô tín dụng. Các ngân hàng
lớn, nhiều vốn thường có rất nhiều các dịch vụ ngân hàng. Phạm vi hoạt động
kinh doanh của họ sẽ rộng hơn nhiều các ngân hàng nhỏ. Chính vì vậy càng
khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.
c. Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân
hàng trên thương trường
Các ngân hàng lớn trên thế giới là các ngân hàng có uy tín, luôn được ca
ngợi và nể trọng. Điều kiện đầu tiên để xây dựng được uy tín của ngân hàng
chính là vốn của ngân hàng. Có nhiều vốn, khả năng thanh toán của ngân hàng
luôn được đảm bảo, các khách hàng luôn cảm thấy yên tâm khi giao thiệp với
ngân hàng. Trong nên kinh tế bất ổn hiện nay, khả năng thanh toán luôn được
các ngân hàng ưu tiên hàng đầu và để được như vậy thì các ngân hàng luôn tìm
cách huy động được nhiều vốn hơn.
d. Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng
Trong thời đại kinh tế cạnh tranh khốc liệt như hiện nay, vốn là điều kiện để
các ngân hàng tham gia cạnh tranh. Nó giúp cho ngân hàng mở rộng quy mô


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

hoạt động, tăng cường quan hệ với các đối tác. Đồng thời nó lôi kéo khách hàng
mới, giữ chân các khách hàng truyền thống. Doanh số của ngân hàng tăng lên
đồng thời làm tăng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn của ngân hàng lớn giúp cho
ngân hàng có khả năng tài chính dồi dào để cạnh tranh với các ngân hàng khác:

hạ lãi suất, linh hoạt về thời hạn tín dụng, hình thức trả lãi...Các dịch vụ ngân
hàng sẽ ngày càng được cải tiến, phát triển và được thực hiện tốt hơn.

1.2.2 Hoạt động huy động vốn của NHTM.

1.2.2.1 các hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
a. Tiền gửi của khách hàng.
Tiền gửi của khách hàng đó là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, doanh
nghiệp cơ quan Nhà nước và các định chế tài chính trung gian cùng cá nhân
trong và ngoài nước có quan hệ gửi tiền tại ngân hàng.
Tiền gửi của khách hàng được chia làm hai bộ phận: Tiền gửi của doanh
nghiệp, tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
*Tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế bao gồm:
-Tiền gửi không kỳ hạn.
Đây là khoản tiền gửi mà khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào và ngân
hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng, thực chất đó là khoản tiền gửi
dùng để đảm bảo trong thanh toán.
Tiền gửi đảm bảo thanh toán được ký thác vào ngân hàng để thực hiện các
khoản chi trả khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của khách
hàng một cách thuận tiện và tiết kiệm. Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi chờ


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

thanh toán mà không phải để dành. Bởi vậy đối với khách hàng đây là một tài
sản mà họ ký thác uỷ nhiệm cho ngân hàng bảo quản và thực hiện các nghiệp vụ
liên quan theo yêu cầu của khách hàng. Do vậy khách hàng không mất quyền sở
hữu, cũng như quyền sử dụng số tiền đó. Họ có quyền lấy ra hoặc chuyển
nhượng cho bất kỳ ai và bất kỳ thời gian nào. Khách hàng được sử dụng số tiền

của mình bằng các phương tiện thanh toán dùng để chi trả như séc, uỷ nhiệm chi,
thư chuyển tiền…
Đối với ngân hàng đây là một khoản nợ mà ngân hàng có nghĩa vụ thực
hiện lệnh thanh toán chi trả cho người thụ hưởng loại tiền gửi này, lãi suất
thường thấp hơn lãi suất trả cho các khoản tiền gửi có lãi khác.Nhưng khi khách
hàng mở và sử dụng các loại tài khoản này thì được ngân hàng cung ứng các loại
dịch vụ miễn phí hoặc thu với tỷ lệ thấp, lượng tiền vốn ở tài khoản thanh toán
thường chiếm gần 1/3 tiền gửi ngân hàng.
Như vậy các tài khoản này đã đem lại cho khách hàng sự an toàn trong việc
bảo quản vốn và trong qúa trình thanh toán trả tiền hàng hoá dịch vụ, ngoài ra
khách hàng còn được hưởng một khoản tiền lãi nhỏ và một số dịch vụ miễn phí.
Còn đối với ngân hàng phải bỏ ra một số chi phí cho bộ máy kế toán theo dõi và
nghi chép các nghiệp vụ phát sinh, chi phí phát hành séc và một số dịch vụ kèm
theo. Chi phí này khá lớn, nhưng nó được bù đắp lại bởi vì trên thực tế do lượng
tiền gửi vào và số lượng tiền rút ra không cùng một lúc và chủ tài khoản thường
không sử dụng hết số tiền của mình trên tài khoản. Do đó luôn tồn tại một số tiền
trên tài khoản trong một thời gian dài số dư ấy được ngân hàng dùng để đầu tư
cho vay đối với một số doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn sản xuất, kinh doanh để
thu lợi nhuận. Như vậy đối với tài khoản tiền gửi thanh toán số dư trên tài khoản


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

giao dịch không những bù đắp được chi phí mà còn có thể mang lại lợi nhuận
cho ngân hàng.
Ngày nay do điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều công nghệ mới
được ứng dụng vào hoạt động ngân hàng. Vì vậy đã có nhiều doanh nghiệp, cá
nhân mở tài khoản giao dịch tại ngân hàng, làm cho lượng tiền gửi này ngày
càng gia tăng. Đó là những nguồn vốn dùng để cho vay hết sức quan trọng của

ngân hàng, đồng thời lợi nhuận thu về từ nguồn vốn này cũng ngày càng tăng.
- Tiền gửi có kỳ hạn.
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của doanh nghiệp, chưa
sử dụng đến trong một thời gian nhất định, mà khoảng thời gian này được xác
định trước. Do đó cá doanh nghiệp thường gửi vào ngân hàng dưới hình thức tiền
gửi có kỳ hạn. Phần lớn các nguồn tiền gửi này xuất phát từ nguồn tích luỹ của
các doanh nghiệp mà có. Về nguyên tắc khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến
hạn và được hưởng số tiền lãi trên số tiền gửi đó. Nhưng hiện nay để thu hút vốn
nhằm khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, các NHTM cho phép
khách hàng rút tiền ra trước thời hạn. Trong trường hợp này khách hàng không
được hưởng lãi hoặc chỉ được hưởng theo lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn.
Do tính chất của loại tiền vốn tương đối ổn định, ngân hàng có thể sử dụng
phần lớn số dư loại nguồn vốn này để cho vay trung và dài hạn. Nếu nguồn vốn
này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động sẽ tạo điều kiện thuận lợi,
chủ động của ngân hàng trong quá trình kinh doanh, các NHTM thường đưa ra
nhiều loại kỳ hạn nhằm đáp ứng nhu cầu tiền gửi của khách hàng. Hiện tại các
NHTM có các loại tiền gửi có kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng 9 tháng,
1 năm, 2 năm. Với mỗi một kỳ hạn khác nhau thì ngân hànng áp dụng một loại
lãi suất khác nhau. Thông thường thì thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Các


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

NHTM thường khuyến khích khách hàng gửi tiền với thời hạn dài, vì loại tiền
này tương đối ổn định, ngân hàng sẽ chủ động trong kinh doanh. Để thu hút
được nhiều nguồn vốn dài hạn thì tốc độ phát triển nền kinh tế phải ổn định, giá
trị đồng tiền được đảm bảo, lạm phát vừa phải (thường là một con số một năm)
và tình hình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng có hiệu quả.
*Tiền gửi tiết kiệm dân cư:

Tiển gửi tiết kiệm là khoản tiền để dành của mỗi các nhân được gửi vào
Ngân hàng, nhằm hưởng lãi suất theo qui định. Tiền gửi tiết kiệm là bộ phận thu
nhập bằng tiền gửi của cá nhân chưa sử dụng được gửi vào tổ chức tín dụng. Nó
là một dạng đặc biệt của tích luỹ tiền tệ trong tiêu dùng cá nhân. Khi gửi tiền
người gửi tiền được giao một sổ tiết kiệm coi như một giấy chứng nhận tiền gửi
vào Ngân hàng. Đến thời hạn khách hàng rút tiền ra được nhận một khoản tiền
lãi trên tổng số tiền gửi tích kiệm.
Có hai loại tiền gửi tiết kiệm là:
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Loại tiền gửi này người gửi tiền có thể rút ra một phần hoặc toàn bộ số tiền
gửi bất kỳ lúc nào. Nhưng khác với loại tiền gửi thanh toán, người gửi tiền
không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác, lãi suất
tiền gửi tiết kiệm thường cao hơn và phần lớn những người gửi tiền tiết kiệm là
do chưa xác định được nhu cầu chi tiêu cụ thể trong tương lai, nhưng lại hưởng
mức lãi trong thời gian khoản tiền nhàn rỗi.
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Khi cá nhân gửi tiền vào ngân hàng loại tiền gửi tích kiệm có kỳ hạn trên cơ
sở thoả thuận giữa khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi, lãi suất theo qui


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

định và khách hàng chỉ được rút tiền ra khi đến hạn. Nhưng trong thực tế ở nước
ta hiện nay để khuyến khích người gửi tiền các NHTM vẫn cho khách hàng rút ra
trước thời hạn và được hưởng lãi suất thấp hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn (thông
thường bằng lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn).
Do nguồn vốn huy động từ loại tiền gửi này mang tính ổn định, cho nên các
NHTM thường đưa ra nhiều loại kỳ hạn khác nhau như loại 3 tháng, 6 tháng, 12
tháng, 24 tháng… nhằm thu hút càng nhiều nguồn vốn với lãi suất của các kỳ

hạn khác nhau. Thông thường kỳ hạn ngày càng dài thì lãi suất huy động ngày
càng cao (lãi suất tiền gửi có kỳ hạn lớn hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn và
tiền gửi thanh toán).
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư có số lượng lớn thứ
hai trong tổng số các loại tiền gửi vào ngân hàng và nó phục thuộc rất lớn vào
thu nhập bình quân theo đầu người, tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu nhập của dân cư,
chất lượng phục vụ của NHTM, sự ổn định đồng tiền và nền kinh tế tăng trưởng
vững chắc.
b. Tạo vốn qua phát hành công cụ nợ.
Vốn phát hành của ngân hàng, đây là hình thức huy động vốn thông qua
phát hành kỳ phiếu, trái phiếu…Đó là các công cụ nợ của ngân hàng.
Đặc điểm của loại vốn này là lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm.
Mục đích huy động dùng để đáp ứng cho các dự án đầu tư lớn. Nguồn vốn này
được huy động theo nhiều thời hạn khác nhau như ngắn hạn, trung hạn, dài hạn.
Thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Hiện nay ở Việt nam các NHTM thường
huy động nguồn vốn này dưới hình thức phát hành kỳ phiếu có mục đích và trái
phiếu trung, dài hạn.
* Phát hành kỳ phiếu có mục đích.


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

Khi các NHTM có nguồn vốn tài chính dồi dào để tài trợ cho các nguồn vốn
có qui mô lớn, nhằm phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
hoặc liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế mà các nguồn vốn tự có chưa
đáp ứng được, NHTM trình ngân hàng Nhà nước xin phép phát hành kỳ phiếu để
tạo nguồn vốn tín dụng tương đối lâu dài cho các hoạt động này.
Như vậy kỳ phiếu là một chứng chỉ huy động vốn có mục đích, có thời hạn,
người sở hữu có thể chuyển nhượng cho người khác qua chứng nhận của ngân

hàng, vì trên sổ kỳ phiếu có ghi tên người hưởng. Kỳ phiếu ngân hàng được phát
hành nhằm huy động vốn trong dân cư một cách linh hoạt có tác dụng thu hút
các nguồn tiền nhàn rỗi vào ngân hàng, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá
trị của đồng tiền, tạo nguồn vốn trung dài hạn để đầu tư cho các dự án phát triển
kinh tế.
* Phát hành trái phiếu.
Trái phiếu ngân hàng thực chất là giấy nhận nợ có kỳ hạn của ngân hàng
đối với những người mua trái phiếu (nhà đầu tư). Trái phiếu được các NHTM
hay các tổ chức tín dụng phát hành nhằm huy động vốn cho chính bản thân ngân
hàng hoặc các tổ chức tín dụng có liên quan. Thời hạn của trái phiếu thường lớn
hơn một năm. Lãi suất của trái phiếu thường cao hơn lãi suất của tiền gửi tiết
kiệm, kỳ phiếu. Các NHTM phát hành trái phiếu trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn
thông qua các dự án đầu tư của các doanh nghiệp mà ngân hàng cam kết cho vay.
Huy động vốn thông qua việc phát hành các công cụ nợ của các NHTM như
kỳ phiếu, trái phiếu là một hình thức mới trong công tác huy động vốn của
NHTM ở cá nước đang phát triển. Vốn được huy động từ hình thức này dùng để
đầu tư cho các dự án trung và dài hạn.


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

Ở nước ta hình thức này được Ngân hàng sử dụng từ năm 1992. Nhưng cho
đến nay khối lượng vốn huy động của NHTM qua hình thức này vẫn còn thấp so
với các hình thức huy động vốn truyền thống khác. Để phát huy được thế mạnh
của công cụ huy động vốn này đòi hỏi phải có thị trưòng vốn hoàn chỉnh (thị tr
chứng khoán). Ở nước ta thị trường này mới được thành lập cho nên hoạt động
của nó chưa ảnh hưởng nhiều đến hoạt động huy động vốn của ngân hàng.
c. Vốn vay từ các tổ chức tín dụng khác và ngân hàng Trung ương.
Khi các NHTM có sự mất cân đối giữa nguồn vốn huy động và sử dụng

vốn, xảy ra hiện tượng thiếu vốn đột xuất.
Để đảm bảo khả năng thanh toán của mình, các tổ chức tín dụng vay vốn
của nhau qua thị trường liên ngân hàng. Thị trường này giúp cho NHTM bổ sung
nguồn vốn cho nhau, nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt vốn trong thanh toán.
Hoạt động của thị trường này nhằm tận dụng đến mức cao nhất các khả năng sẵn
có một cách triệt để của các tổ chức tín dụng, trước khi có nhu cầu vay vốn của
ngân hàng Trung ương.
Việc thực hiện quan hệ tín dụng giữa các NHTM phải được tiến hành theo
nguyên tắc đi vay cho vay và phải được thoả thuận trên cơ sở hợp đồng tín dụng,
vốn vay phải đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố (tiền mặt tại quĩ và các chứng từ có
giá trị), hay NHTM đi vay có thể xin ngân hàng Nhà nước bảo lãnh để vay vốn
các ngân hàng khác. Các ngân hàng đi vay phải chấp hành đầy đủ các quy chế dự
trữ bắt buộc và an toàn vốn, phải có tài khoản tiền gửi thanh toán hoạt động
thường xuyên tại NHTW.
Khi các NHTM đã hết khả năng vay mượn của nhau mà vẫn thiếu vốn hoặc
mất khả năng thanh toán, các NHTM thực hiện vay vốn tại ngân hàng Trung ưng
để tạo thêm nguồn vốn bổ sung cho hoạt động kinh doanh của mình. Việc ngân


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

hàng Trung ương cho các NHTM vay đã làm tăng khả năng thanh toán cho các
NHTM. Nguồn vốn của ngân hàng Trung ương là nguồn vốn cuối cùng, làm cho
khả năng thanh toán của nền kinh tế được bình thường. Nếu như thiếu nguồn vốn
này thì sẽ xuất hiện các cuộc khủng hoảng tài chính khi các NHTM mất khả
năng thanh toán.
Các nguồn vốn đi vay từ các tổ chức tín dụng khác, từ ngân hàng Trung
ương để đảm bảo khả năng thanh toán trong những trường hợp cần thiết. Cho
nên thời hạn vay thường ngắn, lãi suất thường cao hơn các hình thức huy động

vốn khác của NHTM.
d. Tạo vốn từ nguồn vốn khác.
Ngoài các nguồn vốn huy động trên các NHTM cũng có thể khai thác
nguồn vốn từ các tổ chức tài chính quốc tế, đây là nguồn vốn lớn, có thời hạn
tương đối dài. Khi các NHTM nhận các nguồn vốn này thường có các điều kiện
kèm theo rất chặt chẽ và việc cấp phát phải đúng nội dung chương trình của các
dự án tài trợ.
Ở nước ta khi thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, Đảng và Nhà nuớc
ta đã sáng suốt lựa chọn các đường lối ngoại giao đúng đắn, trên tinh thần mở
cửa của nền kinh tế, làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, thu hút các nguồn
vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt nam. Các nguồn vốn này có đóng góp rất
quan trọng vào công cuộc đổi mới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi
hỏi Ngân hàng Nhà nước và NHTM phải tăng cường mở rộng các mối quan hệ
hợp tác quốc tế, từ đó tranh thủ và tiếp nhận các nguồn vốn này.
Trên đây là các hình thức huy động vốn chủ yếu của NHTM, tuy nhiên chất
lượng, hiệu quả của hoạt động huy động vốn chịu ảnh hưởng tác động rất nhiều


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

yếu tố, từ các yếu tố mang tính chất vĩ mô, đến các yếu tố mang tính chất vi mô
của nền kinh tế, cũng như các yếu tố liên quan tới chính NHTM.

1.2.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại trong nền kinh tế thị trường.
a. Các nhân tố khách quan.
+ Môi trường pháp lý
Nghiệp vụ huy động vốn của các NHTM chịu sự điều chỉnh rất lớn của môi
trường pháp lý. Có những Bộ Luật tác động trực tiếp mà chúng ta thường thấy

như: Luật các TCTD, Luật NHNN... Những Luật này qui định tỉ lệ huy động vốn
của ngân hàng so với vốn tự có, qui định về việc gửi và sử dụng tài khoản tiền
gửi... Có những Bộ Luật tác động gián tiếp đến hoạt động ngân hàng như Luật
đầu tư nước ngoài hoặc các NHTM không được nhận tiền gửi hoặc cho vay bằng
cách tăng giảm lãi suất, mà phải dựa vào lãi suất do NHNN đưa ra và chỉ được
xê dịch trong biên độ nhất định mà NHNN cho phép... Bên cạnh những bộ luật
đó thì chính sách tài chính tiền tệ của một quốc gia cũng ảnh hưởng rất lớn tới
nghiệp vụ tạo vốn của NHTM. Nó được thể hiện ở mục tiêu của chính sách tiền
tệ, chẳng hạn khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà nước có chính sách thắt chặt
tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó
NHTM huy động vốn dễ dàng hơn. Như vậy, môi trường pháp lí là nhân tố
khách quan có tác động rất lớn tới quá trình huy động vốn của NHTM. Mục tiêu
hoạt động của NHTM được xây dựng vào các qui định, qui chế của Nhà nước để
đảm bảo an toàn và nâng cao niềm tin từ khách hàng.
+ Môi trường kinh tế xã hội:


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

Tình hình kinh tế - xã hội trong và ngoài nước cũng có tác động không nhỏ
đến quá trình huy động vốn của ngân hàng. Khi nền kinh tế tăng trưởng hay suy
thoái thì nó đều ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của NHTM. Mọi biến động của
nền kinh tế bao giờ cũng được biểu hiện rõ trong việc tăng, giảm nguồn vốn huy
động từ bên ngoài của ngân hàng. Nền kinh tế tăng trưởng, sản xuất phát triển, từ
đó tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn, do đó tạo môi trường cho việc thu hút vốn
của NHTM thuận lợi. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng, người
dân không gửi tiền vào ngân hàng mà giữ tiền để mua hàng hoá, việc thu hút vốn
gặp khó khăn.
+ Tâm lý, thói quen khách hàng

Khách hàng của ngân hàng bao gồm những người có vốn gửi tại ngân hàng
và những đối tượng sử dụng vốn đó. Về môi trường xã hội ở các nước phát triển,
khách hàng luôn có tài khoản cá nhân và thu nhập được chuyển vào tài khoản
của họ. Nhưng ở các nước kém phát triển, nhu cầu dùng tiền mặt thường lớn
hơn. Ở khoản mục tiền gửi tiết kiệm có hai yếu tố quan trọng tác động vào là thu
nhập và tâm lý của người gửi tiền. Thu nhập ảnh hưởng đến nguồn vốn tiềm tàng
mà Ngân hàng có thể huy động trong tương lai. Còn yếu tố tâm lý ảnh hưởng
đến sự biến động ra vào của các nguồn tiền. Tâm lý tin tưởng vào tương lai của
khách hàng có tác dụng làm ổn định lượng 1tiền gửi vào, rút ra và ngược lại nếu
niềm tin của khách hàng về đồng tiền trong tương lai sẽ mất giá gây ra hiện
tượng rút tiền hàng loạt vốn là mối lo ngại lớn của mọi ngân hàng. Một đặc điểm
quan trọng của đối tượng khách hàng là mức độ thường xuyên của việc sử dụng
các dịch vụ ngân hàng. Mức độ sử dụng càng cao, ngân hàng càng có điều kiện
mở rộng việc huy động vốn.
b. Các nhân tố chủ quan


Khoa: Ngân Hàng- Bảo
Hiểm

+ Các hình thức huy động vốn
Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa dạng
hình thức huy động vốn. Hình thức huy động vốn của ngân hàng ngày càng
phong phú, linh hoạt bao nhiêu thì khả năng thu hút vốn từ nền kinh tế càng lớn
bấy nhiêu. Điều này xuất phát từ sự khác nhau trong nhu cầu và tâm lí của các
tầng lớp dân cư. Mức độ đa dạng các hình thức huy động càng cao thì dễ dàng
đáp ứng một cách tối đa nhu cầu của dân cư, vì họ đều tìm thấy cho mình một
hình thức gửi tiền phù hợp mà lại an toàn. Do vậy các NHTM thường cân nhắc
rất kĩ lưỡng trươc khi đưa vào áp dụng một hình thức mới.
+ Chính sách lãi suất cạnh tranh:

Việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau đã trở
nên cực kỳ quan trọng trong việc thu hút các khoản tiền gửi mới và duy trì tiền
gửi hiện có. Điều này đặc biệt đúng khi lãi suất thị trường đã ở vào mức tương
đối cao. Các ngân hàng cạnh tranh giành vốn không chỉ với các ngân hàng khác
mà còn với các tổ chức tiết kiệm khác, các thị trường tiền tệ và với những người
phát hành các công cụ tài chính khác nhau trong thị trường tiền tệ. Khi lãi suất
tối đa bị loại bỏ trong quá trình nới lỏng các quy định, việc duy trì mức lãi suất
cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, đủ
cho những khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng sẽ thúc đẩy người gửi tiền
tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn từ ngân hàng này sang ngân hàng khác hay
từ công cụ này sang công cụ khác.
+ Năng lực và trình độ cán bộ ngân hàng
Về phương diện quản lí, nếu ngân hàng có trình độ quản lí tốt sẽ có khả
năng tư vấn phù hợp cho khách hàng đem lại hiệu quả cao thì sẽ thu hút được


×