Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Lý thuyết trật tự phân hạng và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.49 KB, 14 trang )

Đề tài 1

Lý thuyết trật tự phân hạng và
Cấu trúc vốn trong doanh nghiệp
Nhóm Phản biện

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM :

STT
1

Số báo
danh
38

Họ và tên
Nguyễn Trung Lộc

2

15

Nguyễn Thị Thanh Hà

3

16

Phạm Ngọc Hải

4



17

Nguyễn Bích Hạnh

5

36

Đỗ Thăng Long

6

37

Trần Phước Long

7

39

Nguyễn Đại Luân

8

62

Phan Văn Thân

9


77

Bùi Thị Thu Trang

10

88

Trần Thị Thanh Vân

Đề tài 1: Lý thuyết trật tự phân hạng
và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp – Nhóm Phản biện

Chữ ký

Giảng viên :
Ths.Trương Minh Tuấn

1


Mục lục
Lời mở đầu
Nội dung
1. Các luận đề khi phân tích trật tự phân hạng
1.1 Cấu trúc vốn
1.1.1.

Nguồn vốn của doanh nghiệp

1.1.2. Cơ cấu nguồn vốn
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp

1.2 Tấm chắn thuế
1.3 Đòn bẫy tài chính
1.4 Sự ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đối với cấu trúc vốn

2. Lý thuyết trật tự phân hạng
2.1 Khái niệm
2.2 Điều kiện
2.3 Diễn giải

3. Trật tự phân hạng công cụ vốn của doanh nghiệp trong thực tiễn
3.1 Mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp
3.2 Sự tăng trưởng của doanh nghiệp
3.3 Mức thuế suất đặt lên doanh nghiệp
3.4 Cơ cấu tài sản của doanh nghiệp
3.5 Chính sách chia cổ tức của doanh nghiệp
3.6 Quy mô của doanh nghiệp

Kết luận
Tài liệu tham khảo

Đề tài 1: Lý thuyết trật tự phân hạng
và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp – Nhóm Phản biện

Giảng viên :
Ths.Trương Minh Tuấn

2



Lời mở đầu
Cấu trúc vốn là một vấn đề quan trọng trong các quyết định tài trợ của doanh nghiệp
.Đây không phải là vấn đề mới mẻ nhưng luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều nhà
nghiên cứu kinh tế và tài chính trên thế giới. Những tranh luận xung quanh các quan điểm lý
luận và tính hiệu quả của các lý thuyết cấu trúc vốn vẫn chưa bao giờ kết thúc.
Đối với doanh nghiệp, việc quản lý tài chính hiệu quả và những yếu tố ảnh hưởng đến
cấu trúc vốn của họ là rất quan trọng để có được hiệu suất hoạt động tốt hơn. Một quyết định
sai về cấu trúc vốn có thể dẫn công ty đếnkhủng hoảng tài chính và thậm chí phá sản.
Có rất nhiều lý thuyết được phát triển để phân tích vềcơ cấu vốn.Với lập luận cho
rằng có sự tồn tại của bất đối xứng thông tin giữa các nhà quản lý (nội bộ ) và các nhà đầu tư
( bên ngoài ), các nhà quản lý có những thông tin bên trong nhiều hơn các nhà quản trị và các
nhà đầu tư.
Và lý thuyết Trật tự phân hạng ra đời để giải quyết vấn đề trên, cơ bản đưa ra thứ tự
ưu tiên của việc huy động vốn như sau :
1. Sử dụng lợi nhuận giữ lại.
2. Vay ngắn hạn.
3. Vay dài hạn.
4. Phát hành cổ phiếu.
Đây là chủ đề chính cuả bài tiểu luận nhằm làm rõ ý của lý thuyết này.

Đề tài 1: Lý thuyết trật tự phân hạng
và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp – Nhóm Phản biện

Giảng viên :
Ths.Trương Minh Tuấn

3



Nội dung
1. Các luận đề khi phân tích trật tự phân hạng:
1.1 Cấu trúc vốn :
Trong mọi doanh nghiệp, vốn kinh doanh của doanh nghiệp được hình thành từ hai
nguồn: nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay. Mỗi bộ phận này được cấu thành từ nhiều khoản
mục khác nhau tùy theo tính chất của chúng.
1.1.1. Nguồn vốn của doanh nghiệp
a. Nguồn vốn huy động từ nội bộ
Nguồn vốn chủ sở hữu là số vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đang
hoạt động, ngoài vốn điều lệ còn có một số nguồn vốn khác cùng thuộc nguồn vốn chủ sở hữu như:
lợi nhuận không chia, tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu mới, quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự
phòng tài chính…
Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp mới được thành lập thì vốn chủ sở hữu do các thành viên
đóng góp và hình thành vốn điều lệ. Đối với doanh nghiệp Nhà nước thì vốn góp ban đầu chính là vốn
đầu tư của Nhà nước, đối với doanh nghiệp cổ phần thì vốn góp ban đầu là do chủ doanh nghiệp hoặc
những người góp vốn. Chẳng hạn, đối với công ty cổ phần vốn do cổ đông đóng góp là yếu tố quyết
định sự hình thành công ty.
Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: đây là nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận không chia, được
sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Giải pháp tài chính thông thường là chủ đầu tư phải đảm bảo được một phần kinh phí đầu tư
ban đầu bằng vốn tự có của mình, chủ yếu là để đầu tư vào tài sản cố định. Đối với các dự án công
nghiệp, tỷ lệ vốn huy động từ nội bộ không nên quá thấp mà chủ đầu tư nên cố gắng giữ được ở mức
trên dưới 30% so với tổng vốn đầu tư. Để làm được điều này chủ đầu tư thường chuyển một phần vốn
tích luỹ được từ lợi nhuận ròng từ trước đến nay của công ty để đầu tư cho dự án.
Ưu điểm cơ bản của nguồn vốn này là chi phí huy động vốn thấp, vốn thuộc sở hữu của doanh
nghiệp nên chủ đầu tư có toàn quyền chủ động quyết định sử dụng chúng mà không găp phải bất cứ
một sự cản trở nào. Mặt khác, nguồn vốn huy động từ nội bộ thường có chi phí cơ hội thấp do đó an
toàn hơn cho chủ đầu tư trong quá trình đầu tư.
Tuy nhiên nếu gia tăng quá lớn tỷ lệ tài trợ từ nguồn nội bộ thì có thể dẫn đến một số bất lợi

cơ bản sau đây:
- Làm suy giảm khả năng tài chính hiện tại của công ty do đó có thể sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ
các hoạt động của công ty.
- Làm giảm tỷ suất sinh lợi vốn có của doanh nghiệp, điều này trực tiếp ảnh hưởng đến tỷ suất
lợi nhuận trên cổ phần của cổ đông.
b. Nguồn vốn cổ phần
Khi khả năng huy động từ nguồn vốn tích luỹ bị hạn chế, chủ doanh nghiệp thường tìm nguồn
tài trợ mới cách tăng vốn cổ phần. Nhìn chung không có sự khác nhau đáng kể nào giữa việc huy
động vốn từ nội bộ với việc phát hành thêm cổ phần mới về chi phí tăng vốn ngoại trừ việc phát hành
cổ phần thường làm phát sinh thêm một khoản chi phí phát hành.
Đặc điểm cơ bản của việc tài trợ bằng vốn cổ phần là:
- Vốn được tài trợ bởi chủ sở hữu của các doanh nghiệp cụ thể ở đây là của chủ doanh nghiệp.
- Không phải trả lãi cho vốn cổ phần đã huy động được mà sẽ chia lợi tức cổ phần cho các
chủ sở hữu nếu doanh nghiệp là ra được lợi nhuận.
- Lợi tức cổ phần chia cho các cổ đông tuỳ thuộc vào quyết định của hội đồng quản trị và nó
thay đổi theo mức lợi nhuận mà công ty đạt được.
- Doanh nghiệp không phải hoàn trả những khoản tiền vốn đã nhận được cho chủ sở hữu trừ
kho doanh nghiệp đóng cửa và chia tài sản. Trường hợp này không áp dụng cho các cổ phần đặc biệt
có quy định thời hạn đáo hạn trong điều lệ công ty.

Đề tài 1: Lý thuyết trật tự phân hạng
và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp – Nhóm Phản biện

Giảng viên :
Ths.Trương Minh Tuấn

4


- Doanh nghiệp không phải thế chấp tài sản hay nhờ bảo lãnh, bởi vốn huy động là của các

chủ sở hữu.
Trong việc sử dụng tự có và vốn huy động cổ phần, chủ dự án nên tập trung nó cho việc đầu
tư vào tài sản cố định đảm bảo một tỷ lệ hợp lý trong cơ cấu vốn đầu tư, tỷ lệ này thường trên dưới
30% so với tổng kinh phí đầu tư (tuỳ theo từng dự án đầu tư cụ thể mà nhà nước có quy định tỷ lệ tối
thiểu của nguồn vốn này và gọi là vốn pháp định).
Nếu vốn tự có và vốn cổ phần chiếm tỷ lệ quá cao trong tổng kinh phí đầu tư có thể dẫn đến
lợi nhuận trên vốn tự có giảm tuy rằng lúc đó mức độ độc lập của doanh nghiệp cao hơn và doanh
nghiệp có nhiều cơ hội quyết định kinh doanh mạo hiểm hơn.
Nhưng nếu vốn tự có ít, dự án thường phải tìm kiếm các khoản tài trợ tài chính thường là
thông qua các khế ước vay nợ từ ngân hàng, điều này dẫn đến sự bất lợi của doanh nghiệp vì phải chịu
áp lực lớn của gánh nặng nợ nần dẫn đến việc phải hy sinh nhiều lợi ích để thanh toán các khoản lãi
vay đồng thời dễ mất tự chủ trong kinh doanh, khó khăn trong việc ra các quyết định kinh doanh.
c. Nguồn vốn vay
Trong quá trình đầu tư, người ta thường sử dụng các nguồn vốn vay trung và dài hạn để tài trợ
cho các dự án, chủ yếu là để bổ sung vốn đầu tư vào tài sản cố định.
Tài trợ bằng nguồn vốn này có các đặc điểm sau:
- Doanh nghiệp nhận được các khoản tài trợ này từ những thành phần không phải là chủ sở
hữu của nó sau khi nó được chuyển cho doanh nghiệp.
- Phải trả lãi cho các khoản tiền đã vay
- Mức lãi suất được trả cho các khoản nợ vay thường theo một mức ổn định được thoả thuận
khi vay.
- Doanh nghiệp phải hoàn trả lại toàn bộ vốn vay cho các chủ nợ vào một thời điểm nào đó
trong tương lai, ngoại trừ trường hợp nguồn huy động là phiếu tuần hoàn.
- Công ty có thể phải thế chấp bằng các loại tài sản như hàng hoá các loại, tài sản cố định,
quyền sở hữu tài sản, cổ phiếu hay các biện pháp bảo lãnh cho vay.
Trong trường hợp tài trợ bằng vay nợ, rủi ro tài chính sẽ phát sinh do doanh nghiệp phải gánh
chịu một khoản lãi phải trả cố định. Nhìn chung các doanh nghiệp có rủi ro trong kinh doanh cao
thường có xu hướng sử dụng ít vốn vay hơn so với các doanh nghiệp có mức độ rủi ro thấp. Đường
nhiên lúc này, các doanh nghiệp chấp nhận tài trợ bằng vốn vay cao cũng đồng thời đã chấp nhận phải
gánh chịu rủi ro tài chính cao hơn.

Do đó để đảm bảo an toàn cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp cần
cân nhắc thận trọng khi quyết định vay vốn.
1.1.2. Cơ cấu nguồn vốn
Thành phần và tỷ trọng từng nguồn vốn so với tổng nguồn vốn tại một thời điểm gọi là cơ cấu
nguồn vốn. Một cơ cấu nguồn vốn hợp lý phản ánh sự kết hợp hài hoà giữa vốn vay với vốn chủ sở
hữu trong điều kiện nhất định.
Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp là quan hệ về tỷ trọng giữa vốn vay vào vốn chủ sở hữu. Cơ cấu
nguồn vốn của doanh nghiệp thường biến động trong các chu kỳ kinh doanh và có thể ảnh hưởng tích
cực đến lợi ích của chủ sở hữu.
Vì vậy việc xem xét lựa chọn điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn tối ưu luôn là một trong các quyết
định tài chính quan trọng của chủ doanh nghiệp. Các quyết định tài trợ vốn phải phù hợp với cơ cấu
nguồn vốn của doanh nghiệp. Chẳng hạn, tỷ lệ vốn vay thực tế thấp hơn tỷ lệ mục tiêu, việc tăng vốn
sẽ được thực hiện bằng cách phát hành nợ (phát hành trái phiếu).
Chính sách cơ cấu vốn của một doanh nghiệp là sự kết hợp chọn lựa giữa rủi ro và lợi nhuận:
việc sử dụng vốn vay càng lớn sẽ làm tăng mức rủi ro dòng thu nhập của doanh nghiệp, tỷ lệ vốn vay
càng cao thì suất sinh lợi kì vọng càng cao.
Như vậy, vốn vay càng lớn trong cơ cấu vốn thì rủi ro càng cao, một cơ cấu vốn tối ưu là một
cơ cấu có sự cân đối giữa rủi ro và lợi nhuận sao cho doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất.

Đề tài 1: Lý thuyết trật tự phân hạng
và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp – Nhóm Phản biện

Giảng viên :
Ths.Trương Minh Tuấn

5


1.1.3.Các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp
Trong thực tế, các doanh nghiệp ở các ngành khác nhau, thậm chí các doanh nghiệp trong

cùng một ngành cũng có cơ cấu vốn cách biệt rất xa, sự cách biệt này, phản ánh một số điều kiện như:
sự dao động của doanh thu, cơ cấu tài sản, thái độ của người cho vay và mức độ chấp nhận rủi ro của
người lãnh đạo.
- Sự ổn định của doanh thu và lợi nhuận: Có ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô của vốn huy
động. Khi doanh thu ổn định sẽ có nguồn để lập quỹ trả nợ đến hạn, khi kết quả kinh doanh có lãi sẽ
là nguồn để trả lãi vay. Trong trường hợp này tỷ trọng của vốn huy động trong tổng số vốn của doanh
nghiệp sẽ cao và ngược lại.
- Cơ cấu tài sản: Toàn bộ tài sản của doanh nghiệp có thể chi ra tài sản lưu động và tài sản cố
định. Tài sản cố định là loại tài sản có thời gian thu hồi vốn dài, do đó mà nó phải được đầu tư bằng
nguồn vốn dài hạn (vốn chủ sở hữu và vay nợ dài hạn). Ngược lại, tài sản lưu động sẽ được đầu tư
một phần của nguồn vốn dài hạn, còn chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn.
- Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành: những doanh nghiệp nào có chu kỳ sản xuất dài, vòng
quay của vốn chậm thì cơ cấu vốn sẽ nghiêng về vốn chủ sở hữu (hầm mỏ, khai thác, chế biến …).
Ngược lại những ngành nào có mức nhu cầu về loại sản phẩm ổn định, ít thăng trầm vòng quay của
vốn nhanh (dịch vụ, bán buôn…) thì vốn được tài trợ từ các khoản nợ sẽ chiếm tỷ trọng lớn.
- Doanh lợi vốn và lãi suất vốn huy động: Khi doanh lợi vốn lớn hơn lãi suất vốn vay sẽ là cơ
hội tốt nhất để gia tăng lợi nhuận doanh nghiệp, do đó khi có nhu cầu tăng vốn người ta thường chọn
hình thức tài trợ từ vốn vay, từ thị trường vốn. Ngược lại, khi có doanh lợi nhỏ hơn lãi suất vay thì cấu
trúc vốn lại nghiêng về vốn chủ sở hữu.
- Mức độ chấp nhận rủi ro của người lãnh đạo: Trong kinh doanh phải chấp nhận mạo hiểm
có nghĩa là phải chấp nhận sự rủi ro, nhưng điều đó lại đồng nghĩa với cơ hội để gia tăng lợi nhuận
(mạo hiểm càng cao thì rủi ro càng nhiều nhưng lợi nhuận càng lớn). Tăng tỷ trọng của vốn vay nợ, sẽ
tăng mức độ mạo hiểm, bởi lẽ chỉ cần một sự thay đổi nhỏ về doanh thu và lợi nhuận theo chiều
hướng giảm sút sẽ làm cho cán cân thanh toán mất thăng bằng, nguy cơ phá sản sẽ hiện thực.
- Thái độ của người cho vay: Thông thường người cho vay thích các doanh nghiệp có cấu trúc
vốn nghiêng về vốn chủ sở hữu hơn, bởi lẽ với cấu trúc này nó hứa hẹn sự trả nợ đúng hạn, một sự an
toàn của đồng vốn mà họ bỏ ra cho vay. Khi tỷ lệ vốn vay nợ quá cao sẽ làm giảm độ tín nhiệm của
người cho vay, do đó chủ nợ sẽ không chấp nhận cho doanh nghiệp vay thêm.

1.2 Tấm chắn thuế :

Trong thực hành kinh doanh, một lợi thế của việc sử dụng vốn vay là tiết giảm được
thuế thu nhập doanh nghiệp. Người ta nói rằng vốn vay đã tạo ra một “Tấm chắn thuế ” cho doanh
nghiệp, nhờ đó tạo nên hiệu quả kinh doanh nói chung là cao hơn so với chỉ sử dụng vốn của chính
doanh nghiệp, hay còn gọi là vốn chủ sở hữu.
Ví dụ minh họa :
Một doanh nghiệp đầu tư vào một dự án với tổng số vốn là 500triệu đồng. Lợi nhuận
trước thuế, lãi vay là 100 triệu đồng. Với thuế suất thuếThu nhập doanh nghiệp hiện hành là 22%, ta
thấy:
Trường hợp một: Doanh nghiệp không vay tiền để đầu tư mà chỉ sửdụng nguồn vốn nội tại
của mình: lợi nhuận trước thuế là 100 triệu đồng, thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp là 22 triệu
đồng.
Trường hợp hai: Doanh nghiệp đi vay 500 triệu đồng để đầu tư, với lãisuất tiền vay là 10%.
Khi đó lãi tiền vay phải trả là 50 triệu nên thu nhập chịuthuế chỉ còn lại 50 triệu đồng. Thuế thu
nhập doanh nghiệp phải nộp bây giờ chỉ còn 22% x 50 triệu = 11 triệu đồng. Lá chắn thuế trong
trường hợp này có giá trị là: 500 trđ x 10% x 22% =11 triệu đồng.Như vậy, khi sử dụng nguồn vốn
vay, nhờ tấm chắn thuế mà doanh nghiệp đã tiết kiệm được 11 triệu đồng.
Đề tài 1: Lý thuyết trật tự phân hạng
và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp – Nhóm Phản biện

Giảng viên :
Ths.Trương Minh Tuấn

6


1.3 Đòn bẫy tài chính :
a. Định nghĩa:
Đòn bẩy tài chính liên quan đến việc sử dụng các nguồn lực tài trợ (vay nợ) cho chi
phí cố định. Đòn bẩy tài chính thể hiện mức độ các khoản nợ trong cơ cấu nguồn vốn của doanh
nghiệp. Đòn bẩy tài chính xuất hiện khi doanh nghiệp quyết định tài trợ cho phần lớn tài sản của

mình bằng nợ vay.Hiện tượng này chỉ diễn ra khi nhu cầu vốn cho đầu tư của doanh nghiệp tăng
cao trong khi vốn chủ sở hữu không đủ tài trợ.Khoản nợ của doanh nghiệp sẽ trở thành khoản nợ
phải trả và lãi vay được tính dựa trên số nợ gốc này. Thông thường doanh nghiệp chỉ sử dụng
đòn bẩy khi có thể tin tưởng rằng tỷ suất sinh lợi trên tài sản cao hơn lãi suất vay.
Đòn bẩy tài chính đề cập tới việc doanh nghiệp sử dụng nguồn tài trợ từ các khoản
vay thay cho vốn cổ phần. Các phép đo đòn bẩy tài chính là công cụ để xác định xác suất doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán các hợp đồng nợ. Doanh nghiệp càng nợ nhiều thì càng có nguy
cơ cao mất khả năng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ. Nói cách khác, nợ quá nhiều sẽ dẫn tới xác suất
phá sản và kiệt quệ tài chính cao.
Về phía tích cực, nợ là một dạng tài trợ tài chính quan trọng và tạo lợi thế lá chắn
thuế cho doanh nghiệp do lãi suất tiền vay được tính như một khoản chi phí hợp lệ và miễn thuế.
Khi doanh nghiệp vay nợ, chủ nợ và chủ sở hữu cổ phần của doanh nghiệp có thể gặp phải những
xung đột về quyền lợi. Chủ nợ có thể muốn doanh nghiệp thực hiện các khoản đầu tư ít rủi ro
hơn so với mong muốn của những người đầu tư vào cổ phiếu của doanh nghiệp.
b. Các chỉ số đòn bẫy tài chính :
Chỉ số nợ:
Chỉ số nợ được tính bằng việc chia tổng nợ cho tổng tài sản. Cũng có thể sử dụng
một vài cách khác để diễn tả việc sử dụng nợ của doanh nghiệp như chỉ số nợ-vốn cổ phần và số
nhân vốn cổ phần (tính bằng tổng tài sản chia cho tổng vốn cổ phần).
Các chỉ số nợ cung cấp thông tin bảo vệ chủ nợ tình huống mất khả năng thanh toán
của doanh nghiệp và thể hiện năng lực tiếp nhận các nguồn tài chính từ bên ngoài đáp ứng nhu
cầu đầu tư và phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nợ được thể hiện bảng cân đối kế toán chỉ
đơn thuần là một khoản chưa trả. Do vậy, không có bất kỳ sự điều chỉnh nào về mức lãi suất áp
dụng (có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với thời điểm phát sinh khoản nợ) hoặc điều chỉnh do biến
động rủi ro được thể hiện. Trên thực tế, giá trị kế toán của các khoản nợ có thể khác rất nhiều so
với giá trị thị trường. Một số hình thức nợ không được thể hiện trên bảng cân đối kế toán như
nghĩa vụ trả tiền hưu trí hay thuê tài sản.
Bao phủ lãi vay:
Chỉ số bao phủ lãi vay được tính bằng cách chia thu nhập (trước thuế và lãi vay) cho
lãi vay phải trả. Chỉ số này chú trọng khả năng doanh nghiệp tạo ra đủ thu nhập để trang trải lãi

vay.
Đề tài 1: Lý thuyết trật tự phân hạng
và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp – Nhóm Phản biện

Giảng viên :
Ths.Trương Minh Tuấn

7


Lãi vay là khoản chi phí doanh nghiệp buộc phải vượt qua nếu không muốn phá sản.
Chỉ số bao phủ lãi vay liên quan trực tiếp tới khả năng trả lãi vay của doanh nghiệp. Tuy nhiên,
tính toán sẽ chính xác hơn khi cộng thêm khấu hao vào thu nhập và tính tới các khoản chi phí tài
chính khác như trả gốc vay và thanh toán phí thuê tài sản.
Một gánh nặng nợ lớn chỉ trở thành vấn đề nếu dòng tiền của doanh nghiệp không đủ để thực
hiện các nghĩa vụ trả nợ. Điều này liên quan tới dòng tiền trong tương lai vốn rất không ổn định.
Doanh nghiệp với dòng tiền trong tương lai có khả năng dự báo ổn định được đánh giá có năng
lực vay nợ tốt hơn doanh nghiệp có dòng tiền cao nhưng bất ổn. Do vậy, xem xét biến động của
dòng tiền là điều cần thiết và quan trọng. Một biện pháp phổ biến là tính toán độ lệch chuẩn của
dòng tiền so với dòng tiền bình quân.
c. Vai trò của đòn bẫy tài chính:
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp luôn cần có sự phối hợp đồng bộ của nhiều
người, nhiều bộ phận với nhau, đặt trong các mối quan hệ kinh tế. Vì vậy, nếu sử dụng linh hoạt,
sáng tạo các quan hệ của phân phối tài chình để tác động đến các chính sách tiền lương, tiền
thưởng, và các chính sách khuyến khích vật chất khác sẽ có tác động tích cực đến việc tăng năng
suất, kích thích tiêu dùng, tăng vòng quay vốn, và cuối cùng là tăng được lợi nhuận của doanh
nghiệp. Ngược lại, nếu người quản lý phạm phải những sai lầm trong việc sử dụng các đòn bẩy tài
chính và tạo nên cơ chế quản lý tài chính kém hiệu quả, thì chính tài chính doanh nghiệp lại trở
thành "vật cản" gây kìm hãm hoạt động kinh doanh.
Vì vậy cần tạo lập các đòn bẩy tài chính để kích thích điều tiết các hoạt động kinh tế trong

doanh nghiệp.

1.4 Sự ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng đối với cấu trúc vốn:
Thông tin bất cân xứng là tình trạng trong một giao dịch một bên có thông tin nhiều
hơn phía còn lại. Nói cách khác, thông tin bất cân xứng là trạng thái không có sự cân bằng trong
việc nắm giữ các thông tin giữa các bên tham gia giao dịch khiến cho việc đưa ra quyết định không
chính xác.
Tác động của thông tin bất cấn xứng đối với cấu trúc vốn của doanh nghiệp:
a. Tác động của lựa chọn đối nghịch:
Lựa chọn đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra
cuộc giao dịch. Trên các thị trường tín dụng, lựa chọn đối nghịch xảy ra khi những người đi vay có
nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn lại là những người tích cực đi tìm vay nhất và
do vậy trong số những người đi vay họ sẽ là người dễ được lựa chọn nhất. Trên thị trường chứng
khoán, lựa chọn đối nghịch xuất hiện khi nhà đầu tư không biết thông tin về các loại cổ phiếu của
các công ty khác nhau do đó có thể mua cổ phiếu của một công ty hoạt động kém, rủi ro cao. Vấn đề
lựa chọn đối nghịch cũng xuất hiện trong nhiều hoạt động khác của nền kinh tế. Nói một cách tổng
quát, lựa chọn đối nghịch là lựa chọn sai lầm của một bên tham gia giao dịch mà nguyên nhân là do
thông tin không cân xứng.
Lựa chọn nghịch tác động đến hành vi người mua hàng:
Đề tài 1: Lý thuyết trật tự phân hạng
và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp – Nhóm Phản biện

Giảng viên :
Ths.Trương Minh Tuấn

8


Trên thị trường có nhiều loại hàng hóa hữu hình, đặc biệt các thị trường của loại sản
phẩm có mức chất lượng biến thiên rộng, sự xuất hiện của thong tin không cân xứng là một yếu tố

quna trọng kìm hãm giao dịch. Người bán luôn có thông tin tốt hơn người mua nên sự nghi ngờ về
chất lượng sản phẩm của người mua không tránh khỏi. Điều đó đẩy người mua đến hai con đường là
chọn một mặt hàng thay thế hoặc tìm kiếm them thông tin về hàng hóa. Tuy nhiên, việc làm này làm
tăng chi phí giao dịch mà người mua phải trả them. Những yếu tố này làm giảm nhu cầu người mua
và kết quả là trên những thị trường như thế doanh số giao dịch sẽ không cao.
Lựa chọn nghịch tác động đến quyết định đầu tư:
Một hiện tượng tương tự diễn ra trên thị trường tài chính. Sự xuất hiện thông tin
không cân xứng làm nhà đầu tư do dự trước việc lựa chọn chứng khoán giữa công ty A hay công ty B.
Nhà đầu tư không biết được đâu là công ty tốt, có lợi tức dự tính cao, rủi ro thấp. Trong tình trạng
này, nhà đầu tư sẽ chấp nhận một mức giá trung bình của những chứng khoán phát hành nằm giữa giá
trị chứng khoán của những công ty tốt và công ty xấu. Các công ty tốt sẽ không chấp nhận mức giá đó
và họ định giá cao hơn. Trong khi đó, các công ty kém lại sẵn sàng chấp nhận giá. Tuy nhiên, lý
thuyết về những dấu hiệu thị trường đã trình bày ở trên đã gợi ý cho các nhà đầu tư rằng các công ty
chấp nhận giá sẽ có nhiều khả năng là công ty xấu. Kết quả là có ít chứng khoán được giao dịch.
b. Tác động của rủi ro đạo đức:
Rủi ro đạo đức xuất hiện sau khi diễn ra giao dịch, khi một bên thực hiện những hành
động không thể giám sát được nhưng có ảnh hưởng đến lợi ích bên kia. Rủi ro đạo đức là một nguyên
nhân trực tiếp và quan trọng ảnh hưởng đến quyết định phát hành công cụ vốn hay công cụ nợ trong
việc huy động vốn. Thực tế, phần góp vốn của những người lãnh đạo công ty chỉ chiếm một phần nhỏ
so với tổng vốn của công ty.Điều này đồn nghĩa với việc họ đang quản lý phần lớn vốn của những cổ
đông. Sự tách biệt này giữa quyền quản lý và quyền sỡ hữu vốn chính là nguyên nhân xảy ra rủi ro
đạo đức trong các công ty cổ phần. Những người lãnh đạo công ty có thể hành động vì lợi ích cá nhận
mà đi ngược lại lợi ích của các cổ đông. Những hành động như vậy bao gồm việc tăng các chi phí
phục vụ cho lợi ích của người quản lý công ty như trang bị đồ dung văn phòng tố, xe hơi đắt tiền, chi
phí phúc lợi cho nhân viên cao… Ngoài việc theo đuổi những lợi ích cá nhân, người quản lý công ty
có thể theo đuổi những chiến lược công ty nhằm đề cao quyền lực cá nhân mà không làm tăng lợi ích
của công ty.

2. Lý thuyết trật tự phân hạng :
2.1 Khái niệm:

Lý thuyết trật tự phân hạng đưa ra luận điểm là tồn tại thứ tự ưu tiên sử dụng của mỗi
công cụ vốn trong một hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới cấu trúc vốn của doanh
nghiệp và được giải thích thông qua thông tin bất cân xứng.
Lý thuyết trật tự phân hạng chủ yếu dựa trên mối quan tâm về việc bất cân xứng thông tin
ảnh hưởng lên quyết định đầu tư và tài trợ của doanh nghiệp. Bởi vì các nhà quản lý có nhiều thông
tin hơn các nhà đầu tư bên ngoài, đứng ở vị thế của các nhà đầu tư đang hiện hữu thì những nhà đầu
tư mới yêu cầu một mức chiết khấu cao hơn khi doanh nghiệp phát hành chứng khoán và điều này dẫn
đến việc chi phí cho các nguồn tài trợ bên ngoài thì rất đắt đỏ.
Chính vì vậy, khi doanh nghiệp có nhu cầu về vốn, họ thường sử dụng nguồn tài trợ nội
bộ (lợi nhuận giữ lại) đầu tiên, sau đó là chứng khoán nợ và phát hành cổ phần thường mới là lựa
chọn cuối cùng.
Những nền tảng đầu tiên cho lý thuyết trật tự phân hạng là từ những nghiên cứu của
Donaldson. Các nghiên cứu này đưa ra những bằng chứng cho thấy nhà điều hành ưu tiên sử dụng
nguồn tài trợ nội bộ và chỉ ưu tiên cân nhắc đến nguồn tài trợ bên ngoài (nợ và phát hành cổ phần
mới) trong những trường hợp mà nhu cầu về vốn gia tăng bất thường không thể tránh khỏi. Myers và

Đề tài 1: Lý thuyết trật tự phân hạng
và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp – Nhóm Phản biện

Giảng viên :
Ths.Trương Minh Tuấn

9


Majluf đã có những nghiên cứu sâu hơn để chỉ ra rằng những khuynh hướng thiên lệch của tài chính
hành vi bắt nguồn từ sự bất cân xứng thông tin.
Mỗi công cụ vốn sở hữu một mức độ bất cân xứng thông tin khác nhau. Thứ tự ưu tiên sẽ
đi từ công cụ chịu ảnh hưởng nhỏ nhất tới công cụ chịu ảnh hưởng lớn nhất.
2.2 Điều kiện:

Thứ tự ưu tiên xảy ra khi một doanh nghiệp mang những điều kiện cơ bản sau:
Giữa các cá thể tác động lên hoạt động đầu tư của doanh nghiệp (bộ phận quản trị,
quản lý, nhà đầu tư chính), giữa các cá thể có sự tương tác qua lại tồn tại sự phân hóa thông tin.
- Mức độ phân hóa thông tin lớn, ảnh hưởng tới việc đưa ra quyết định sử dụng công
cụ vốn phục vụ đầu tư.
- Công ty đang có nhu cầu đầu tư và cần chọn công cụ vốn phù hợp.
- Thứ tự ưu tiên dựa trên mức độ hạn chế xung đột giữa các cá thể sở hữu thông tin mà
mỗi công cụ vốn chứa đựng.
- Quyết định sử dụng công cụ vốn không chịu ảnh hưởng từ các yếu tốnhư quy mô,
thuế suất, cấu trúc vốn sẵn có…
Nếu không tồn tại thông tin bất cân xứng thì các xung đột về lợi ích và phân hóa về thông
tin của nhà quản lý, quản trị, các nhà đầu tư,…không xảy ra. Khi đó, mọi quyết định công cụ sử dụng
vốn có mức độ ưu tiên như nhau, và do đó, công cụ nào được sử dụng cũng không ảnh hưởng đến quá
trình huy động nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp
2.3 Diễn giải :
Lợi nhuận giữ lại là nội lực của một doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp không phát hành
cổ phiếu hoặc trái phiếu mà sử dụng nội lực của chính nó thì vấn đề phân bổ thông tin không cân
xứng sẽ được giải quyết. Lúc này, sẽ không phát sinh thông tin ảnh hưởng quyền lợi nhà quản trị và
nhà đầu tư tiềm năng. Nên việc sử dụng lợi nhuận giữ lại đã giải quyết được vấn đề "thông tin bất cân
xứng" và do đó được đặt ở vị trí đầu tiên trong "thứ tự phân hạng".
Tuy nhiên, lợi nhuận giữ lại không phải lúc nào cũng tài trợ được hết dự án đầu tư. Khi
lợi nhuận giữ lại đã hết là lúc quyết định đưa ra phương án huy động vốn kế tiếp. Câu hỏi đặt ra là
giữa vốn cổ phần và nợ phải trả, bên nào chịu tác động phân hóa thông tin lớn hơn.
Huy động nợ phải trả mang lại hai tương tác chủ yếu: giữa bộ phận quản lý doanh nghiệp
và các nhà quản trị. Sử dụng vốn cổ phần sẽ tác động tới cả ba chủ thể giữ thông tin. Khi các yếu tố
chi phí vốn không ảnh hưởng tới việc ra quyết định thì số lượng tương tác hình thành khi sử dụng
công cụ vốn sẽ tượng trưng cho mức độ phức tạp mà thông tin bất cân xứng tác động lên quyết định
của doanh nghiệp. Từ đó đưa ra thứ tự tiếp theo là nợ phải trả và cuối cùng là vốn cổ phần.
Nợ phải trả lại chia ra làm hai phần nhỏ là dài hạn và ngắn hạn. Trong đó nợ ngắn hạn có
thủ tục phát hành ngắn hơn và tỉ suất lãi thường thấp hơn so với nợ dài hạn. Do đó nợ ngắn hạn được

ưu tiên sử dụng trước nợ dài hạn.
Tuy vậy, doanh nghiệp chỉ có thể vay nợ trong một giới hạn sao cho không quá khả năng
chi trả. Hoạt động sử dụng nợ phải trả của doanh nghiệp nâng mức đòn bẩy tài chính lên tới một mức
mà chi phí phá sản và chi phí nợ quá cao, đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng công cụ vốn khác. Lúc
này, doanh nghiệp mới xét tới huy động vốn cổ phần để tài trợ cho hoạt động đầu tư.Tính phức tạp khi
sử dụng vốn cổ phần đã đưa công cụ vốn này xuống cuối danh sách ưu tiên.

Đề tài 1: Lý thuyết trật tự phân hạng
và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp – Nhóm Phản biện

Giảng viên :
Ths.Trương Minh Tuấn

10


Thật vậy, khi huy động vốn cổ phần tức phát hành cổ phiếu, có sự tương tác qua lại
không nhỏ giữa bộ phận quản lý, nhà quản trị và các nhà đầu tư tiềm năng. Các tương tác trên có
những biểu hiện sau:
Giữa nhà quản trị và quản lý: thông thường các nhà quản trị sẽ muốn giữ địa vị của mình,
nên sẽ rất khó mà tán thành đề nghị phát hành cổ phiếu của bộ phận quản lý; điều này làm việc phát
hành cổ phiếu rất khó khăn tuy chỉ mới xét trong nội bộ. Kế đến, giả sử nội bộ công ty đã giải quyết
xong mâu thuẫn và ra quyết định phát hành cổ phiếu để mang lại lợi ích cho cả hai bên quản lý, quản
trị. Lúc này, ta xét tác động của "bất cân xứng thông tin" lên mối tương quan giữa nội bộ doanh
nghiệp và các nhà đầu tư tiềm năng.
Giả thiết thứ nhất: khi nội bộ doanh nghiệp cảm thấy các dự án đầu tư mang lợi cao, trị
giá cổ phiếu nếu phát hành tại thời điểm này chắc chắn sẽ mang lại giá trị cao cho doanh nghiệp:
-

Trường hợp một: các nhà đầu tư tiềm năng ngoài thị trường chứng khoán không biết được


tình hình thực của doanh nghiệp, họ sẽ đánh giá thấp cổ phiếu phát hành của doanh nghiệp, dẫn tới hạ
giá trị cổ phiếu.
-

Trường hợp hai:thị trường đánh giá cao đúng như mong đợi của nội bộ doanh nghiệp, giá trị

thu về là lý tưởng.
-

Trường hợp ba: đánh giá cao hơn mong đợi: trường hợp này thường không xảy ra do thông

tin thị trường nắm bắt có tính trễ pha hơn thông tin tồn tại cùng thời điểm ở doanh nghiệp.
Giả thiết thứ hai: nội bộ doanh nghiệp cho rằng giá trị cổ phiếu phát hành sẽ thấp. Lúc
này, hầu nhưkhông doanh nghiệp nào sẽ tung cổ phiếu ra thị trường.
Vậy giá trị cổ phiếu thu trước và sau khi phát hành đều gặp các chướng ngại. Bên cạnh đó,
khi phát hành cổ phiếu sẽ luôn tồn tại khả năng giá trị thu về thấp hơn giá trị mong đợi, khi khả năng
này hiện thực hóa, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn xử lý khoản thiếu hụt vốn.Ta có thể thấy rõ thông
tin bất cân xứng gây cản trở lớn khi doanh nghiệp mong muốn sử dụng công cụ vốn cổ phần. Cũng
chính lý do này đã đẩy thứ tự ưu tiên của vốn cổ phần xuống cuối bảng trật tự phân hạng.

3. Trật tự phân hạng công cụ vốn của doanh nghiệp trong thực tiễn:
Trật tự phân hạng không phải được áp dụng trong mọi hoàn cảnh, mà nó chỉ tồn tại ở những
điều kiện xác định ,hay nói cách khác, nó chỉ mang lại hướng lựa chọn công cụ vốn phục vụ đầu tư
cho doanh nghiệp dựa trên mức độ giải quyết thông tin bất cân xứng, khi mà các yếu tố khác không
gây ảnh hưởng lên quyết định sử dụng vốn.
Trong thực tế, ngoài mức độ "bất cân xứng thông tin", quyết định sử dụng vốn của doanh
nghiệp còn chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố sau đây:
3.1 Mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp:
Đối với doanh nghiệp có mục tiêu lợi nhuận thì thứ tự ưu tiên ở mục trên được bảo toàn:

ưu tiên sử dụng lợi nhuận giữ lại, rồi tới nợ và cuối cùng là vốn cổ phần.

Đề tài 1: Lý thuyết trật tự phân hạng
và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp – Nhóm Phản biện

Giảng viên :
Ths.Trương Minh Tuấn

11


Lợi nhuận của một doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng lợi nhuận thường được biểu thị
bởi tỉ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu. Tỉ số này cao sẽ mang lại ấn tượng lợi nhuận công ty thu về
cao, ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nội và ngoại doanh trong tương lai. Để tăng tỉ
số này, ta thấy rõ việc giữ nguyên giá trị vốn chủ sở hữu và sử dụng các công cụ vốn khác sẽ giúp
doanh nghiệp đạt mục tiêu lợi nhuận dễ dàng hơn là sử dụng vốn chủ sở hữu.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp có lợi nhuận cao sẽ có khả năng tài trợ đầu tư bằng nội lực
cao hơn. Điều này càng nhấn mạnh mức ưu tiên sử dụng công cụ vốn lợi nhuận giữ lại.
3.2 Sự tăng trưởng của doanh nghiệp:
Nếu doanh nghiệp đặt sự tăng trưởng làm mục tiêu hàng đầu thì trật tự phân hạng cấu trúc
vốn lúc này sẽ có sự thay đổi.
Chỉ sử dụng lợi nhuận giữ lại sẽ đặt một giới hạn lên sự tăng trưởng của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp chú trọng mục tiêu tăng trưởng do đó sẽ tiếp tục sử dụng các nguồn ngoại lực để mở
rộng sản xuất, kinh doanh.
Sử dụng nợ phải trả để tài trợ cho hoạt động tăng trưởng sẽ tạo thêm một rủi ro áp lên
doanh nghiệp, đó là rủi ro vỡ nợ. Bên cạnh đó, khi doanh nghiệp mở rộng quy mô (tăng trưởng) sẽ
phát sinh nhiều rủi ro như tìm kiếm nguồn cung đầu vào, tìm thị trường mới, các luật lệ áp đặt khi
tăng trưởng, hệ thống quản lý,...Để giảm thiểu rủi ro xảy ra khi tăng trưởng, doanh nghiệp sẽ ưu tiên
huy động vốn cổ phần trước khi dùng công cụ nợ phải trả.
Vậy với doanh nghiệp chọn mục tiêu tăng trưởng thì ưu tiên sẽđi từ huy động vốn cổ

phần, lợi nhuận giữ lại, nợ phải trả ngắn hạn rồi cuối cùng là nợ dài hạn (do gánh nhiều rủi ro nên lợi
nhuận giữ lại được dùng làm phương án đề phòng, do đó thứ hạng tụt xuống thứ hai).
Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp đã đạt quy mô lớn trong thời điểm xét thì họ sẽ có
xu hướng quay trở về sử dụng công cụ vốn theo trật tự phân hạng ở trên.
3.3 Mức thuế suất đặt lên doanh nghiệp:
Để giảm thiểu thuế nộp nhà nước thì doanh nghiệp ưu tiên sử dụng tài trợ nợ phải trả vì
nó được bảo vệ bởi lá chắn thuế. Lợi nhuận giữ lại và vốn cổ phần do không được bảo vệ bởi lá chắn
thuế sẽ có thứ tự nằm sau. Cụ thể: ưu tiên đi từ nợ phải trả tới lợi nhuận giữ lại và cuối cùng là vốn cổ
phần.
3.4 Cơ cấu tài sản của doanh nghiệp:
Như đã đề cập ở mục trên , tài sản của một doanh nghiệp có thể chia làm tài sản ngắn và
dài hạn. Bên cạnh đó, còn có thể phân loại tài sản theo tài sản hữu hình và vô hình. Tỉ số tài sản hữu
hình trên tài sản vô hình của một doanh nghiệp tăng sẽ làm giảm mức độ bất cân xứng thông tin tồn
tại, biểu hiện ở doanh nghiệp sẽ có cơ hội tiếp cận nguồn vốn nợ dễ dàng hơn. Bởi vì với tài sản cố
định, nợ có thể được thu hồi dưới dạng thế chấp nếu như doanh nghiệp không còn khả năng chi trả nợ.
Tỉ số này thấp có nghĩa tỉ lệ tài sản vô hình của doanh nghiệp cao, khó có khả năng thế chấp, từ đó
khó tiếp cận nguồn vốn nợ.

Đề tài 1: Lý thuyết trật tự phân hạng
và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp – Nhóm Phản biện

Giảng viên :
Ths.Trương Minh Tuấn

12


Với doanh nghiệp có tỉ số tài sản hữu hình trên vô hình cao thì trật tự phân hạng trong
mục trên sẽ được áp dụng.
Với doanh nghiệp có tỉ số tài sản hữu hình trên vô hình thấp thì sẽ ưu tiên sử dụng lợi

nhuận giữ lại rồi tới vốn cổ phần và cuối cùng là nợ phải trả.
3.5 Chính sách chia cổ tức của doanh nghiệp:
Mức chia cổ tức cao và ổn định là quan tâm của hầu hết các nhà đầu tư tiềm năng, do
nó thể hiện thông tindoanh nghiệpthu lợi nhuận đều đặn và ít biến động. Điều này khi phản ảnh lên thị
trường chứng khoán sẽ làm giảm mức độ bất cân xứng thông tin giữa nội bộ và các nhà đầu tư tiềm
năng.
Từ đó có thể thấy các doanh nghiệp có chính sách chia cổ tức cao, ổn định sẽ có thể
tiếp cận công cụ vốn cổ phần dễ dàng hơn, và có thể ưu tiên công cụ này trước nợ.
Đối với các doanh nghiệp không có hoặc chính sách chia cổ tức không rõ ràng, mức
độ tác động của thông tin bất cân xứng sẽ tăng cao, dẫn tới họ sẽ sử dụng trật tự phân hạng ở mục
trên.
3.6 Quy mô của doanh nghiệp:
Tùy theo quy mô mà doanh nghiệp có thứ tự ưu tiên sử dụng công cụ vốn khác nhau.
-

Với các doanh nghiệp nhỏ, đội ngũ quản lý chỉ gồm một vài thành viên kiêm vai trò

chủ doanh nghiệp. Mong muốn tập trung quyền lực của họ sẽ ưu tiên sử dụng lợi nhuận giữ lại và lợi
nhuận cá nhân (do vai trò vừa là quản lý, vừa là chủ) trong đầu tư. Khi đã hết lợi nhuận giữ lại và lợi
nhuận cá nhân thì họ sẽ quay qua công cụ nợ và cuối cùng mới hướng tới huy động vốn cổ phần.
Thông thường nếu như không muốn mở rộng quy mô, phân tán quyền lực, các doanh nghiệp nhỏ
tránh sử dụng vốn cổ phần trong hoạt động đầu tư. Lúc này họ thường tập trung sử dùng nợ phải trả
cho tới khi hết khả năng vay nợ.
-

Doanh nghiệp quy mô lớn do có đội ngũ quản lý và quản trị trưởng thành hơn (ví dụ:

bộ phận PR hoàn chỉnh) nên thông tin về doanh nghiệp được thể hiện rõ hơn trên thị trường, làm giảm
mức độ bất cân xứng thông tin giữa các bộ phận quản lý, quản trị, nhà đầu tư tiềm năng. Do đó ranh
giới giữa lựa chọn nợ phải trả hoặc vốn cổ phần tài trợ hoạt động kinh doanh được thu nhỏ. Doanh

nghiệp sau khi sử dụng hết nguồn lực nội tại thì có thể chọn công cụ vốn tiếp theo để sử dụng tùy theo
mục đích và phương hướng phát triển của mình.

Đề tài 1: Lý thuyết trật tự phân hạng
và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp – Nhóm Phản biện

Giảng viên :
Ths.Trương Minh Tuấn

13


Kết luận
Như vậy, về cơ bản khi giải quyết tình trạng thông tin bất cân xứng của doanh nghiệp, bỏ qua
các yếu tố ảnh hưởng khác thì lý thuyết "trật tự phân hạng" đưa ra thứ tự ưu tiên khi huy động vốn tài
trợ cho đầu tư sau:
1. Sử dụng lợi nhuận giữ lại tài trợ cho đầu tư: công cụ vốn này không chịu ảnh hưởng của
thông tin bất cân xứng.
2. Huy động nợ phải trả ngắn hạn: thông tin bất cân xứng chỉ xảy ra giữa nhà quản lý và nhà
quản trị, giới hạn nằm ở một tương tác qua lại giữa hai cá thể trên. Nợ phải trả ngắn hạn được ưu
tiên sử dụng do có thủ tục đơn giản và tỉ suất lãi thường thấp hơn nợ dài hạn.
3. Huy động nợ phải trả dài hạn.
4. Huy động vốn cổ phần thông qua phát hành cổ phiếu: thông tin bất cân xứng xảy ra giữa nhà
quản lý-nhà quản trị, nhà quản lý-nhà đầu tư tiềm năng, nhà quản trị-nhà đầu tư tiềm năng. Có thể
thấy mức độ ảnh hưởng của thông tin bất cân xứng khi sử dụng vốn cổ phần là rất lớn và kèm theo
ảnh hưởng tới lợi ích của nhiều bên, do đó được đặt ở cuối thứ tự ưu tiên.
Tuy nhiên,khi tồn tại các yếu tố khác, thứ tự ưu tiên sử dụng của mỗi công cụ vốn khi doanh
nghiệp cần tài trợ đầu tư sẽ có những thay đổi. Điều này dựa trên mục tiêu ,chiến lược, hoàn cảnh và
chính sách phát triển của doanh nghiệp.


Tài liệu tham khảo :
-

Li-Ju Chen và Shun-Yu Chen (2009), How the Pecking-Order Theory Explain
Capital Structure, Đại học Chang Jung Christian, Đài Loan.

-

PSG. TS. Sử Đình Thành- PGS. TS. Vũ Thị Minh Hằng. (2008) Nhập môn Tài
chính- Tiền tệ

-

/>
-

Tạp Chí Phát Triển Kinh Tế (2011), Quy định về bài báo khoa học gửi đăng tạp
chíPhát

triển

Kinh

tế

năm

2013,

viewst&sid=9.


-

Các nhân tố ảnh hưởng đến việc hoạch định cấu trúc vốn của các nhà quản trị
tài chính tại Việt Nam (TS Lê Đạt Chí- Tạp chí phát triển và hội nhập).

Đề tài 1: Lý thuyết trật tự phân hạng
và cấu trúc vốn trong doanh nghiệp – Nhóm Phản biện

Giảng viên :
Ths.Trương Minh Tuấn

14



×