Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích điều kiện hình thành nên nền văn minh khu vực đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.8 KB, 14 trang )

Đề tài : Phân tích điều kiện hình thành nên nền văn
minh khu vực ĐNÁ, giới thiệu thành tựu đặc trưng và
ý nghĩa đóng góp cho nền văn minh nhân loại

1


Đặc điểm tự nhiên

I.

1.

Vị trí địa lí và lãnh thổ
Đông Nam Á gồm 11 quốc gia. Đây được coi là một trong các khu
vực phát triển kinh tế năng động nhất hiện nay. Đông Nam Á còn
được coi là khu vực có vị trí chiến lược, nguồn tài nguyên thiên nhiên
giàu có, dân số đông. Nhưng cũng là khu vực thường xuyên xảy ra
thiên tai, bão lũ, động đất, núi lửa. Những điều kiện ấy có ảnh hưởng
rất lớn tới sự phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia trong khu vực
Đông Nam Á nằm trọn trong khu vực nội chí tuyển nên chịu ảnh
hưởng sâu sắc của gió mùa châu Á.
- Cực Bắc: 28,50B
- Cực Nam: 10,50N
- Cực Đông: 1400 Đ
- Cực Tây: 920 Đ
- Phía Bắc: giáp Bănglađét, Ấn Độ, Trung Quốc.
+ Phía Nam: giáp Ôxtrâylia.
+ Phía Đông: giáp Thái Bình Dương.
+ Phía Tây: giáp Ấn Độ Dương.


- Đông Nam Á nằm ở phía Đông Nam châu Á.
- Đông Nam Á là nơi tiếp giáp giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương.
- Đông Nam Á là cầu nối giữa lục địa Á – Âu và lục địa Ôxtrâylia
- Đông Nam Á gồm hệ thống các bán đảo, đảo, quần đảo đan xen các
biển và vịnh biển rất phức tạp.
- Các đảo: Luxôn, Mindanao, Xumatra, Calimanta, Giava, Timo, Niu
Ghine…
- Quần đảo: Hoàng Sa, Trường Sa
- Biển: biển Đông, biển Anđaman, biển Xulu, biển Giava,…
- Vịnh biển: vịnh Thái Lan, vịnh Bắc Bộ,…

2


* Đánh giá:
- Thuận lợi:
+Giao lưu kinh tế, văn hoá với các quốc gia trong khu vực và trên thế
giới.
+Phát triển kinh tế biển.
- Khó khăn: Nằm trong khu vực có nhiều thiên tai, bão lũ, động đất,
núi lửa,…
- Đông Nam Á nằm giữa khu vực có nền kinh tế phát triển năng động
của thế giới: Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Ôxtrâylia, Niudilân…
- Là nơi giao thoa của các nền văn hoá lớn trên thế giới, đặc biệt là
văn minh Trung Quốc, Ấn Độ.
- Đông Nam Á còn là nơi gặp gỡ giữa hai vành đai sinh khoáng Thái
Bình Dương và Địa Trung Hải nên có nguồn khoáng sản phong phú.
- Do giáp Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, có nhiều biển và vịnh
biển, thuận lợi cho khai thác thuỷ hải sản, khoáng sản biển, giao

thông đường biển, du lịch biển.
Ngay từ đẩu thế kỉ XVI, hầu hết các nước Đông Nam Á đã bị các
cường quốc phương Tây xâm chiếm làm thuộc địa nhằm vơ vét tài
nguyên, đặc biệt nếu chiếm được Đông Nam Á các nước thực dân có
nhiều cơ hội kiểm soát được con đường thương mại chiến lược giữa
Ấn độ và Trung Quốc qua eo biển Malắcca
Do ảnh hưởng của địa hình Đông Nam Á lục địa chủ yếu là hướng
Tây Bắc – Đông Nam và hướng Bắc – Nam nên việc phát triển giao
thông theo hướng Đông – Tây gặp nhiều khó khăn vì phải làm nhiều
cầu, hầm đường bộ để vượt qua sông, núi.
Tuy vậy việc phát triển giao thông theo hướng Đông – Tây là hết sức
cần thiết để tạo ra sự thuận lợi trong thông thương, hợp tác cùng phát
triển giữa phía Đông và phía Tây, với các nước khác. Đặc biệt là đối
với Mianma, Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam – là những
nước có chiều dài lãnh thổ gần như theo hướng Bắc – Nam.

3


*Thuận lợi:
- Khí hậu nóng ẩm, đất trồng phong phú, mạng lưới sông ngòi dày
đặc thuận lợi phát triển một nền nông nghiệp nhiệt đới đa dạng.
- Có lợi thế về biển thuận lợi phát triển các ngành kinh tế biển.
- Khoáng sản: Phong phú, đa dạng là cơ sở để phát triển công nghiệp
khai khoáng, luyện kim.
- Rừng: hệ sinh thái rừng nhiệt đới và xích đạo phát triển mạnh.
+ Phát triển nền nông nghiệp nhiệt đới với cơ cấu cây trồng phong
phú, đa dạng.
+ Phát triển rừng mưa nhiệt đới xanh quanh năm.
- Khó khăn:

+ Thiên tai, bão lũ…
+ Tạo điều kiện cho sâu bệnh sinh trưởng và phát triển.
- Đông Nam Á có nhiều đồng bằng rộng lớn, đất phù sa màu mỡ:
Đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long (Việt Nam), đồng
bằng sông Mê Nam (Thái Lan), đồng bằng Irawadi, đồng bằng
Saluen (Mianma)… Ngoài ra còn có đất đỏ badan, đất feralit…
- Sông ngòi dày đặc: VIệt Nam có khoảng 3260 con sông suối dài
trên 10 km.
Con sông dài nhất là sông Mê Kông (dài 4.425km). Nhưng vấn đề sử
dụng và khai thác sông còn nhiều tranh chấp. Chẳng hạn nếu Trung
Quốc xây dựng các hồ thuỷ điện ở đầu nguồn thì các nước ở trung và
hạ lưu sông sẽ bị ảnh hưởng, đồng bằng sông Cửu Long của Việt
Nam có thể biến mất trên bản đồ.
Sông ngòi Đông Nam Á ngoài giá trị về nông nghiệp còn có giá trị về
giao thông, thuỷ điện và du lịch.
- Đông Nam Á có nhiều biển và vịnh biển. Biển trong khu vực là biển
ấm, nóng, giàu oxi, là nơi tập trung của nhiều loài tôm, cá có giá trị
kinh tế lớn; biển và bờ biển có nhiều danh lam thắng cảnh thuận lợi
để phát triển du lịch (ở Việt Nam có các bãi biển đẹp: Đồ Sơn, Sầm
4


Sơn, Cửa Lò, Thuận An, Nha Trang, Cà Mau…; biển có nhiều vũng
vịnh thuận lợi xây dựng các hải cảng (trong đó có cảng Singgapo là
cảng quá cảnh lớn nhất Đông Nam Á, lớn thứ 4 trên thế giới).
Tuy nhiên vấn đề biển Đông đang trở thành vấn đề nóng bỏng nhưng
vô cùng nhạy cảm khi các nước tranh chấp nhay về khai thác thuỷ hải
sản, dầu khí, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Không chỉ tranh chấp
trong Đông Nam Á mà còn có sự tham gia của các nước khác, đặc
biệt là Trung Quốc.

Tuy nhiên việc khai thác và sử dụng khoáng sản chưa hợp lí, công
nghệ khai thác lạc hậu, chủ yếu liên kết với nước ngoài, khai thác chủ
yếu để xuất khẩu thô nên gây nhiều lãng phí, thiệt thòi.
Khai thác lưu huỳnh ở khu vực núi lửa Inđônêxia): Inđônêxia là quốc
đảo nằm trên “vành đai núi lửa Thái Bình Dương” nên thường xuyên
xảy ra hoạt động núi lửa. Trong quá trình phun trào các dung nham
núi lửa thường chứa lẫn 1 số loại khoáng sản quý.
Vì thế ngay cả trong những khu vực có nguy cơ núi lửa phun trào cao
ở Inđônêxia thì dân cư vẫn tập trung đông. Qua hình 11.4 ta thấy
những người khai thá lưu huỳnh đều là khai thác thủ công và không
có phương tiện, thiết bị bảo vệ. Việc dám bất chấp nguy hiểm đến sức
khoẻ, tính mạng để khai thác lưu huỳnh cũng cho thấy sự ngheo khổ
của người dân trong khu vực này.
sóng thần đổ bộ và bờ biển Inđônêxia.
Sóng thần là một trong những thiên tai gây nhiều thiệt hại to lớn về
người và tài sản. Trận sóng thần kinh hoàng xảy ra vào ngày
26/12/2004 tại Ấn Độ Dương gây thiệt mạng khoảng 230 nghìn
người, trong đó Inđônêxia là nước chịu tổn thất nặng nề nhất với
khoảng 168 nghìn nạn nhân, các khu dân cư và cảnh quan bị tan phá
dữ dội. Hình 11.3 mô tả cảnh hoảng loạn của các nạn nhân khi sóng
thần ập vào bờ biển Inđônêxia.
Do có bước sóng dài nên sóng thần rất khó nhận biết ở ngoài khơi.
Chỉ khi đổ bộ vào bờ, độ cao của sóng mới đột ngột tăng cao và đổ ập
5


2.

xuống khiến các nạn nhân rất bất ngờ và hoảng loạn. Bởi vậy số nạn
nhân thiệt mạng thường lớn.

Kinh tế biển
Do vị trí địa lí nằm án ngữ trên con đưởng hàng hải nối liền giữa Ấn
Độ Dương và Thái Bình Dương, Đông Nam Á từ lâu vẫn được coi là
cầu nối giữaTrung Quốc, Nhật Bản với Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung
Hải Thậm chí đến gần đây, một số nhà nghiên cứu vẫn gọi khu vực
này là "ống thông gió" hay "ngã tư đường"
Việc đi lại bằng thuyển ở vùng Đông Nam Á đã có từ thời rất xa xưa.
Có thể nói cư dân Nam Á đã biết đóng thuyền bè mảng và thuyền đi
biển rất sớm. Dựa trên các tài liệu cổ học, W. Solheime đã nhận định
rằng kĩ thuật đi biển xuất hiện sớm nhất ở vùng duyên hải quần đảo
Sulu, giữaMindanao, Borneo và đảo Celebes khoảng 8000 - 9000
năm trước. Kĩ thuật hàng hải cổ đạt đến đỉnh cao vào khoảng thế kỉ 5
TCN khi những hình thuyền cỡ dáng to lớn, kiểu cong mũi, cong lái
được khắc trên nhiều trống đồng Đông Sơn. Các thư tịch cổ Trung
Quốc từ thế kỉ 3 cũng xác nhận rằng các sư tăng Trung Hoa sang Ấn
Độ đều đi trên những thuyền gọi là "Côn Luân bản", dài đến 50 m,
trọng tải đến 600 tấn, có thể trở hàng trăm người, có buồm lớn, buồm
con... của các nước thương nghiệp Đông Nam Á. Những con thuyền
này đều có cột, giương buồm đã vượt khơi nối liền Đông Nam Á với
Trung Quốc và Ấn Độ, chở người và hàng hóa, từ đầu Công nguyên
cho đến thế kỉ 15-16. Trong cuộc hành trình này, một số thuyền bị
đắm. P.Y. Manguin đưa ra một danh mục 10 thuyền bị đắm đã
được khảo cổ học dưới nườc phát hiện và nghiên cứu trong đó có 2
thuyền ở Pahang (Malaysia) và Agusan (Philippines) có niên đại từ
thế kỉ 3-5; 3 thuyền thuộc thế kỉ 5-6 và những thuyền khác thuộc thế
kỉ 7-14. Trên tường khu đền Borobudur còn có phù điêu hình con
thuyền buồm lớn nhiều mái chèo, gần giống với những hạm thuyền
của La Mã cổ đại
Việc buôn bán bằng đường biển với Đông Nam Á đã khá nhộn nhịp
từ thế kỉ 2. Đến thế kỉ 7, thuyền buôn Ả Rập đã thường xuyên đến

vùng này để mua hương liệu, gia vị. Không phải ngẫu nhiên mà ở đây
đã có mặt những nhà địa lí hay du lịch, nhà truyền giáo hay ngọai
giao của cả phương Đông và phương Tây. Trong suốt chiều dài của
cuộc hàng trình nổi lên những nhà thám hiểm như Claudius
Ptolemaeus, Khang Thái, Nghĩa Tình, Pháp Hiển, Trịnh Hòa, Marco
Polo, Chu Đạt Quang... Họ đã đến đây xem xét, ghi chép và để lại
những tài liệu quý giá cho đời sau. Cũng không phải ngẫu nhiên mà
nhiều nhà nghiên cứu coi Đông Nam Á là một bộ phận của hế thống
mậu dịch thế giới, nối liền hai thế giới Đông - Tây, có từ thời truyền
bá đạo Phật, đạo Hindu cho đến tận ngày nay.
6


3.

Lịch sử phát triển
Có thể khẳng định Đông Nam Á là khu vực lịch sử vừa thống nhất,
vừa đa dạng đều thể hiện qua quá tŕnh phát triển của lịch sử Đông
Nam Á.
Phân kỳ lịch sử Đông Nam Á gồm những giai đoạn sau:
* Từ đầu công nguyên đến thế kỷ X. Đây là thời kỳ h́nh thành các
nhà nước ở nhiều nơi, dù tổ chức nhà nước khác nhau nhưng đều
được gọi chung là các quốc gia sơ kỳ, giai đoạn này gồm 2 thời kỳ
nhỏ:
- Thời kỳ thứ I: Từ đầu công nguyên đến thế kỷ VII.
Thời kỳ này có khoảng 30 tiểu quốc đă được h́nh thành ở phía Nam
Đông Nam Á như Champa ở Nam – Trung Bộ (Việt Nam), Phù Nam
ở trung và hạ lưu sông Mêcông, tiểu quốc Lancasuca, Tambrahinga,
Takôla ở bán đảo Malaya,…
Các nhà nước được xuất hiện ở 3 khu vực là hạ lưu và châu thổ sông

Mêcông; Phía Bắc Huế thuộc Trung kỳ hiện nay ở Việt Nam và phần
phía Bắc bán đảo Mălai.
Thời kỳ thứ II: Từ thế kỷ VII – X, là thời kỳ các tiểu quốc hợp
nhất lại với nhau theo téc người và theo địa vực, h́nh thành nên các
quốc gia lớn và lấy một bộ téc tương đối đông làm ṇng cốt như
Srivijaya, Kalinga ở Inđônêxia, Đại Việt và Chămpa ở Việt Nam
* Giai đoạn 2 từ thế kỷ X – XV: Là thời kỳ phát triển thịnh đạt của
các quốc gia Đông Nam Á, so với các khu vực khác, Đông Nam Á là
nơi phát triển thịnh đạt nhất của chế độ phong kiến, đạt đến đỉnh cao
cụ thể như sau:
Vương quốc Camphuchia bước vào thời kỳ phát triển – thời kỳ Ăng
co, từ 802 – 1434.
Đại Việt: Bước vào thời kỳ thịnh đạt dưới triều Lư – Trần, Lê Sơ (thế
kỷ XI - XV)
Vương quốc Miama thinh vượng dưới triều đại Pagan 1044 – 1287
Inđônêxia đạt tới thịnh vương dưới chiều đại Môjopahit (1213 - 1527)
Vương quốc Lanxang ở Lào 1353
Triều đại Trailock ở Xiêm
7


Ở thời kỳ này c̣n xuất hiện nhiều quốc gia mới như Giava chinh phục
Sumatra vào thế kỷ VII – XIII ở Inđônêxia.
Vương quốc Lavô và Sukhathay tạo thành vương quốc A Yuthay của
người Thái.
Sự phát triển đa dạng của Đông Nam Á được thể hiện qua các mặt
sau:
+ Kinh tế: Các khu vực kinh tế quan trọng được h́nh thành, xuất hiện
các vựa lúa, “bát gạo lớn” của Đông Nam Á và thế giới như Đồng
bằng Mênam (Thái Lan), đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long

(Việt Nam ), đồng bằng Iraoađi ở Mianma…
Thủ công nghiệp bắt đầu xuất hiện, thành thị ra đời nh Sukhothay,
Authay, Thăng Long, Pagan, Palembang, Ăngco…
Hoạt động thương mại bắt đầu sôi động, các nước Đông Nam Á có
quan hệ buôn bán với các nước Trung Quốc, Ên Độ, Ba Tư, Ả Rập,
các hải cảng lớn ra đời và hoạt động tấp nập như Hội An, Vân Đồn
(Việt Nam ) Palembang (Inđônêxia), nổi bật hơn cả là Malacca.
+ Chính trị: Công cuộc xây dựng nhà nước đạt tới tŕnh độ tương đối
hoàn chỉnh và ổn định, thể chế nhà nước là quân chủ chuyên chế, phù
hợp với nền nông nghiệp xóm làng như: Đại Việt ở Việt Nam,
LanXang ở Lào… Sự thịnh đạt về chính trị c̣n biểu hiện qua cuộc
kháng chiến chống quân xâm lược Mông Nguyên của nhân dân Đông
Nam Á (Trừ Myanma).
+ Văn hoá: N̉n văn hoá dân téc của các quốc gia Đông Nam Á phát
triển mạnh trên tất cả các lĩnh vực và đă đóng góp lớn vào kho tàng
văn hoá nhân loại, các khu đền như Ăng covat, Ăngcothom
(Campuchia), Thạt Luông (Lào)… bên cạnh sự phát triển chung đó
cũng có sự phát triển riêng của từng quốc gia, tạo nên sự thông nhất
trong đa dạng trên lĩnh vực văn hoá.
* Giai đoạn 3: Từ thế kỷ XVI – XIX:
Là thời kỳ suy thoái của các quốc gia Đông Nam Á, nhưng sự suy
thoái không đồng đều về mặt thời gian, đầu tiên là Campuchia suy
thoái từ thé kỷ XIII, Mianma vào thế kỷ XVI, XVII, Chămpa thế kỷ
8


XV, Đại Việt thế kỷ XVII; XVIII. C̣n Xiêm và LanXang lại tiếp tục
phát triển.
Sù suy thoái được biểu hiện trên các mặt sau:
- Kinh tế: Suy thoái, tŕ trệ, mọi hoạt động sản xuất bị đ́nh đốn…

- Chính trị: Sự khủng hoảng và bất lực của giai cấp phong kiến cầm
quyền
- Xă hội: Mâu thuẫn trong xă hội diễn ra gay gắt, các cuộc khởi nghĩa
nổ ra ở nhiều nơi.
Quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực giảm so với trước, các quốc
gia trước kia là hữu hảo th́ nay cũng có xung đột.
Trong bối cảnh Êy, các quốc gia Đông Nam Á phải đối mặt với sự ḍm
ngă của các nước tư bản phương Tây. Sự thống nhất của khu vực đó
là phải đối mặt với thách thức, nhưng việc lùa chọn con đường, biện
pháp để đối phó với thực dân Phương Tây lại khác nhau, qua đó thể
hiện rơ tính đă dạng của khu vực.
Sự đa dạng của khu vực thể hiện qua 2 xu hướng chính sau:
Thứ nhất: Là đóng cửa, không hợp tác với phương Tây. Ở Việt Nam ,
nhà Nguyễn đă thực hiện chính sách” bế quan toả cảng”, ngăn cấm sự
xâm nhập của văn hoá phương Tây, cấm hàng, cấm đạo, cấm người
tây vào nước.
Thứ hai: Một số nước đă mở cửa, đón nhận ảnh hưởng của văn minh
phương Tây, đây chính là một phương pháp bảo vệ nền độc lập dân
téc. Tiêu biểu cho xu hướng này là Xiêm dưới triều Rama IV và
Rama V. Xiêm đă t́m cho ḿnh một con đường đặc sắc đó là cải cách
đất nước, tiến hành đường lối ngoại giao độc đáo, “đầu nhọn đầu tù”.
Xiêm đă kí kết các hiệp ước với tư bản bên ngoài, cải cách kinh tế, xă
hội trong nước mở đường cho nền kinh tế Xiêm phát triển. Nh xoá bỏ
độc quyền của nhà nước trong việc xuất khẩu gạo, cải cách này được
đánh giá là cấp tiến nhất v́ giải phóng sức sản xuất, kích thích tăng
năng suất lao động. Xiêm tham gia vào nền kinh tế tư bản chủ nghĩa
và hội nhập kinh tế toàn cầu một cách tự nhiên.

9



Xu hướng hội nhập là cái chung, là điều tất yếu đặt ra đối với mỗi
quốc gia nhưng con đường hội nhập của mỗi quốc gia lại khác nhau.
Người phương Tây nhận xét: “Kinh tế Xiêm cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX là h́nh mẫu điển h́nh cho các nước và bước đầu cho sự cạnh
tranh với bên ngoài”. Nhờ đó mà Xiêm thoát khỏi cảnh thuộc địa, đưa
Xiêm ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị – xă hội của chế độ
phong kiến.
* Giai đoạn đầu thế kỷ XX đến nay: Là thời kỳ đấu tranh giành độc
lập dân téc của các quốc gia Đông Nam Á
Sự thống nhất ở giai đoạn này là độc lập dân téc, nhưng nét đa dạng
là sự lùa chọn các con đường khác nhau của mỗi nước kết quả đạt
được, mức độ giành độc lập cũng rất khác nhau.
Sau khi giành được độc lập, con đường đi lên xă hội hiện đại của từng
quốc gia là không giống nhau nhưng cùng hướng tới một mục tiêu
chung là phát triển khu vực Đông Nam Á giàu mạnh. Đây chính là sự
II.

thống nhất đa dạng về mặt lịch sử.
Thành tựu văn minh
Khu vực Đông Nam Á từ xưa, trong các sách cổ của Ấn Độ đã được
nói đến với những cái tên như Suvarnabhumi (đất vàng) hay
Suvarnadvipa (Đảo vàng), người Trung Hoa thì gọi là Nam Dương,
tương tự người Nhật Bản củng dùng từ Nan Yo để chỉ Đông Nam Á,
tức Nam Dương như Trung Hoa, người Ả Rập gọi là Zabag, còn
người Hy Lạp, La mã từ giữa thế kỷ II TCN cũng gọi là Chryse (đất
vàng). Như vậy là từ xa xưa, thế giới đã biết đến khu vực văn hóa
Đông Nam Á. Sở dĩ như vậy là vì tầm quan trọng về mặt vị trí địa lý
của khu vực Đông Nam Á, vốn đã được chú ý đến từ rất lâu. Đông
Nam Á thường được gọi là “ngã tư đường”, “hành lang” hay “cầu

nối” giữa thế giới Đông Á với Tây Á và Địa Trung Hải.
Tuy vậy, từ trước thế kỷ XIX Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận
rõ rệt và đầy đủ như một khu vực địa lí - lịch sử - văn hóa - chính trị
riêng biệt. Bởi nó đã bị lu mờ giữa hai nền văn minh phát triển rất rực
rở là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ. Nhưng kể từ sau
chiến tranh thế giới lần thứ II đến nay, khu vực văn hóa Đông Nam Á
ngày càng được công nhận rộng rải trong khoa học. Nhưng không chỉ
dừng lại ở việc dựng lại các vương triều, các nền văn minh cổ ở đây,
10


mà Đông Nam Á đang từng bước được xem xét như một khu vực lịch
sử - văn hóa – kinh tế - chính trị thật sự.
Người ta đã khẳng định được rằng: trước khi tiếp xúc với văn hóa
Trung Hoa và Ấn Độ thì cư đân Đông Nam Á đã có một nền văn hóa
bản địa khá phát triển. Đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước,
một nền văn hóa Đông Sơn phát huy hết sức rực rở mà biểu tượng là
những chiếc trống đồng rất nổi tiếng được tìm thấy ở khắp Đông
Nam Á. Đông Nam Á cũng là nơi thuần dưởng các loài thú sớm nhất
thế giới (trâu, bò, chó).
* Văn hóa Đông Nam Á, một nền văn hóa thống nhất trong sự đa
dạng
- Tính thống nhất, tính khu vực của Đông Nam Á trước hết được thể
hiện ở chủ thể của văn hóa Đông Nam Á. Ngay từ buổi bình minh
của lịch sử _ Đông Nam Á đã là một trong những cái nôi hình thành
loài người, đây là địa bàn hình thành của đại chủng phương Nam
(Australoid).
Vào khoảng 10.000 năm trước (thời đại đồ đá giữa), có một dòng
người thuộc đại chủng Mongoloid từ phía dảy Himalaya thiên di về
hướng Đông Nam, tới vùng Đông Nam Á thì dừng lại và hợp chủng

với cư dân Melanesien bản địa (thuộc đại chủng Australoid), dẫn đến
sự hình thành chủng Indonesien (cổ Mã Lai _ Đông Nam Á tiền sử).
Với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, nhỏ, thấp. Từ đây chủng
này lan tỏa, họ có mặt trên toàn bộ Đông Nam Á cổ đại. Đông Nam
Á cổ đại được xác định trên một khu vực địa lý rộng lớn. Ngoài 11
nước Đông Nam Á hiện nay thì Đông Nam Á cổ đại được xác định
phía Bắc gồm toàn vùng Hoa Nam Trung Quốc (phía Nam sông
Dương Tử), đảo Đài Loan, một số lảnh thổ ở Đông Bắc Ấn Độ, quần
đảo Andaman và Nicoba trong vịnh Bengal, châu Đại Dương và cả
đảo Madagasca ở Đông Nam châu Phi (tổ tiên chính là người Mã Lai
di cư sang).
Chính mối liên hệ này đã tạo nên sự thống nhất cao độ của khu vực
văn hóa Đông Nam Á. Sự thống nhất do cùng một cội nguồn là một
loại hình Indonesien, chính điều đó đã tạo ra bản sắc chung cho văn
hóa Đông Nam Á.
- Tính thống nhất về mặt văn hóa của khu vực và tính đa dạng của các
tộc người lại làm nên những đặc trưng bản sắc riêng của từng vùng
văn hóa được thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, bao hàm trong
nó rất nhiều thành tố cả về vật chất lẩn tinh thần của văn hóa Đông
Nam Á. Đơn nhiên, trong quá trình phát triển, văn hóa Đông Nam Á
đã tiếp thu nhều yếu tố mới từ bên ngoài mà tiêu biểu nhất là từ
Trung Hoa, Ấn Độ, Ả Rập và phương Tây. Nhờ sự giao lưu này, văn
hóa Đông Nam Á đã đạt được những thành tựu mới mẻ trong quá
11


trình phát triển của mình. Sau đây là một số điểm tiêu biểu được thể
hiện:
Về ngôn ngữ - chử viết: Sự đa dạng của ngôn ngữ được thể hiện ở chổ
các quốc gia Đông Nam Á hiện có tới hàng chục, thậm chí hàng trăm

ngôn ngữ khác nhau. Như ở Indonesia có đến 200 ngôn ngữ dân tộc
khác nhau cùng tồn tại; ở Philippin củng có tới 80 ngôn ngữ dân tộc
khác nhau (1998). Tương tự, các quốc gia Đông Nam Á khác củng là
các quốc gia đa ngôn ngữ. Tuy nhiên, các ngôn ngữ Đông Nam Á đều
chỉ thuộc về một trong số 4 ngữ hệ sau đây: Nam Á, Nam Đảo, Thái,
Hán – Tạng. Và xa hơn nữa, chúng đều bắt nguồn từ một nguồn gốc
chung là ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử. Đó là một sự thống nhất cao
độ. Về chữ viết, từ đầu công nguyên, khi cần ghi chép các dân tộc
Đông Nam Á đã vay mượn chữ Hán (như ở Việt Nam) và chữ Pali –
Sanskrit (ở các nước khác) của Trung Hoa, Ấn Độ để xây dựng chử
viết riêng cho dân tộc mình. Tuy nhiên, từ thế kỷ XIII , chử viết Ả
Rập đã ảnh hưởng mạnh mẻ đến các quốc gia hải đảo như Malaysia,
Indonesia. Từ thế kỷ XVI, với sự can thiệp của các quốc gia phương
tây, chử viết của các quốc gia Đông Nam Á được chuyển đổi theo
hướng Latinh hóa (chữ viết Brunay, Malaysia, Indonesia, Philippin và
Việt Nam) được sử dụng ngày nay.
Về phong tục tập quán: Ở Đông Nam Á có đến hằng trăm dân tộc
khác nhau, vì thế phong tục, tập quán rất đa dạng, tạo nên một bức
tranh đa sắc. Mặc dù rất đa dạng, song những tập tục ấy vẫn có nét
gần gủi, tương đồng nhau, là mẩu số chung quy tụ, giao thoa trên nền
tảng của cơ sở văn hóa bản địa Đông Nam Á _ Một nền tảng văn
minh nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là cách ăn mặc với một bộ
trang phục chung là Sàrông (váy), khố, vòng đeo tai, vòng đeo cổ,…
Đó là tục ăn uống với các thức ăn chính là cơm, rau, cá và hoa quả
(hiện nay, thịt ngày càng quan trọng trong cuộc sống hiện đại). Đó là
tục ăn hỏi trước khi tổ chức đám cưới linh đình. Tục chôn theo người
chết những thứ cần thiết cho cuộc sống mà khi còn sống họ thường
ưa thích. Đó là tục nhai trầu, cưa và nhuộm răng đen, xăm mình; rồi
đến cả các trò vui chơi giải trí như thả diều, thi chọi gà, bơi thuyền,…
Trong cách ăn ở, ngôi nhà chung của các dân tộc Đông Nam Á là nhà

sàn “cao cẳng” thích hợp với mọi địa hình của khu vực và phù hợp
với khí hậu nóng ẩm của khu vực Đông Nam Á.
Về lể hội: Củng giống như sự đa dạng của phong tục, tập quán. Có thể
nói, ở mổi dân tộc mùa nào, tháng nào trong năm củng có lể hội. Nếu
thống kê con số lể hội thì chắc chắn sẽ có đến con số hàng trăm. Tất
nhiên, trong sự đa dạng ấy, các lể hội ở Đông Nam Á chủ yếu tập
trung vào ba hình thức chính: Lễ hội nông nghiệp (Như lễ xuống
đồng của người Việt, lễ mở đường cày đầu tiên của người Thái, lễ
dựng chòi cày của người Chăm,…), lễ hội tôn giáo (như lễ hội chùa
12


Keo, chùa Hương ở Việt Nam,…), lễ tết (như tết nguyên đán, tết phật,
…).
Về tín ngưỡng bản địa: Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, cùng sinh ra
và lớn lên trong một khu vực địa lí, văn hóa nông nghiệp trồng lúa
nước. Tín ngưỡng bản địa Đông Nam Á dù hết sức đa dạng, nhiều vẽ
nhưng vẫn thuộc về ba loại chính: Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (Các
cư dân Đông Nam Á như ở Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanma,
Indonesia,… thờ cả hạc, rùa, rắn, voi, cá sấu,…), tín ngưỡng phồn
thực (thờ sinh thực khí tượng trưng cho cơ quan sinh dục nam, nữ;
các tục tóe nước, tục cầu mưa, tục đánh đu,…), tín ngưỡng thờ cúng
người đã mất (tục thờ cúng tổ tiên, ông bà). Cái chung đó xuất phát từ
thuyết vạn vật hữu linh, tức thuyết mọi vật đều có hồn.
Tóm lại, ở mọi thành tố của văn hóa Đông Nam Á, chúng ta đều có
thể thấy một sự thống nhất trong muôn hình muôn vẽ sự tồn tại đa
dạng của chúng ở các dân tộc Đông Nam Á.
Văn hóa Đông Nam Á ngày nay vừa là sự kế thừa và phát huy vốn
văn hóa bản địa truyền thống vừa là sự tiếp thu có chọn lọc những
yếu tố mới từ bên ngoài, cả phương Đông lẩn phương Tây. Trong kho

tàng văn hóa đồ sộ của Đông Nam Á có rất nhiều yếu tố chung, làm
nên cái “khung” Đông Nam Á, song củng có không ít những yếu tố
đặc sắc, riêng biệt tiêu biểu cho mổi quốc gia, mổi dân tộc. Nói cách
khác văn hóa Đông Nam Á là nền văn hóa thống nhất trong sự đa
dạng.
Có thể khẳng định Đông Nam Á có có một bản sắc văn hóa riêng và
ngày càng tiến bộ. Đông Nam Á hiện nay đang phát triển kinh tế, đất
nước hết sức nhanh chóng và mạnh mẽ. Mà văn hóa là động lực quan
trọng nhất của của sự phát triển một nước, một khu vực. Với bề dày
văn hóa mang bản sắc chung, đặc sắc, các quốc gia Đông Nam Á nói
chung và Việt Nam nói riêng sẽ tiến xa hơn nửa, đạt được nhiều thành
tựu mới trong tương lai, Đông Nam Á sẽ trở thành một khu vực hòa
bình, ổn định, một khu vực phát triển, thịnh vượng của thế giới.

13


Mục lục
Trang
I.

II.

Đề tài
Đặc điểm tự nhiên
1. Vị trí địa lý và lãnh thổ
2. Kinh tế biển
3. Lịch sử phát triển
Thành tựu văn minh


1
2
2
6
7
11

14



×