Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tục thờ tứ pháp ở đồng bằng bắc bộ và lễ hội chùa dâu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.44 KB, 15 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Thực tế lịch sử đã chứng minh không có nền văn hóa nào tồn tại
một cách độc lập, hoàn toàn nguyên gốc, không hề bị pha tạp, lai căng.
Các nền văn hóa luôn ảnh hưởng, tác động và thâm nhập lẫn nhau. Trong
mỗi một nền văn hóa, các yếu tố văn hóa bản địa và ngoại lai luôn tồn tại
song song và đấu tranh lẫn nhau. Bởi việc tiếp xúc và giao lưu giữa các
nèn văn hóa là một thực tế khách quan không thể tránh khỏi nên vấn đề
đặt ra là làm thế nào để vừa tiếp thu tinh hóa văn hóa nhân loại vừa bào
tồn phát huy được những giá trị tốt đẹp trong văn hóa dân tộc.
Trong hàng ngàn năm lịch sử, Việt Nam đã trải qua rất nhiều cuộc
giao lưu, tiếp xúc với các nền văn hóa khác trên thế giới. Trong đó, có 3
cuộc tiếp xúc văn hóa chủ yếu là: tiếp xúc văn hóa Ấn Độ (vào đầu Công
nguyên), tiếp xúc văn hóa Trung Quốc qua thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc
và cuối cùng là cuộc tiếp xúc với văn hóa phương Tây mà cụ thể là văn
hóa Pháp trong thời gian thực dân Pháp đô hộ. Trong mỗi cuộc tiếp xúc
văn hóa, Việt Nam đều biết chắt lọc và biến đổi những yếu tố văn hóa
ngoại lai cho phù hợp với tâm thức người Việt để biến chúng trở thành
những nét đặc trưng văn hóa của riêng mình.
Tín ngưỡng thờ Tứ pháp ở Đồng bằng Bắc Bộ chính là minh
chứng rõ nét nhất cho bản lĩnh của người Việt Nam trong các cuộc tiếp
xúc văn hóa. Tín ngưỡng thờ Tứ pháp (Pháp Vân – Pháp Vũ – Pháp Lôi
– Pháp Điện) là một loại hình tín ngưỡng dân gian đã tồn tại từ bao đời
nay, thờ các thế lực tự nhiên như mây, mưa, sấm, chớp, gắn liền với đời
sống sản xuất nông nghiệp của Việt Nam. Khi Đạo Phật Ấn Độ du nhập
vào nước ta những năm đầu Công nguyên, những tư tưởng từ bi, hỉ xả,…
trong giáo lý của nhà Phật khá gần gũi với tinh thần vị tha, bao dung,
yêu thương, đùm bọc lẫn nhau trong đạo lý truyền thống của người Việt

1



nên Phật giáo đã nhanh chóng được nhân dân ta tiếp nhận. Tuy nhiên,
Phật giáo Ấn Độ có lẽ sẽ không thể tồn tại lâu dài, gắn bó khăng khít với
đời sống tâm linh của người Việt nếu không có sự kết hợp tài tình, khéo
léo với tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Chính sự hòa quyện giữa Phật
giáo Ấn Độ và tín ngưỡng dân gian bản địa đã cho ra đời một loại hình
tín ngưỡng mới đó chính là hệ thống thờ Tứ pháp như ngày nay.
Trong phạm vi bài tiểu luận này, chúng tôi sẽ nghiên cứu về
nguồn gốc cũng như phong tục thờ Tứ pháp ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ
Việt Nam mà tiêu biểu là vùng Dâu, Luy Lâu, Thuận Thành, Bắc Ninh.
I, NGUỒN GỐC CỦA TÍN NGƯỠNG THỜ TỨ PHÁP Ở VIỆT
NAM
1. Tín ngưỡng dân gian thờ Tứ Pháp
Vốn là một nền văn minh lúa nước lâu đời, từ cách đây hàng ngàn
năm, ngay từ những buổi đầu của lịch sử, Việt Nam đã có truyền thống
tín ngưỡng thờ cúng các hiện tượng thiên nhiên liên quan đến trực tiếp
đến sản xuất nông nghiệp.
Đất nước Việt Nam từ xa xưa đã sinh sống dựa trên nền tảng của
xã hội nông nghiệp trồng lúa nước. Ngoài yếu tố cần cù lao động, con
người luôn có nhu cấu “Trông trời, trông đất, trông mây / Trông mưa,
trông nắng, trông ngày, trông đêm” để cày cấy, sinh tồn. Với quan niệm
vạn vật đều có inh hồn, họ nhìn thấy đằng sau mỗi hiện tượng tự nhiên
đều có một vị thần. Vị thần đó quyết định sự vận hành của vũ trụ, trong
đó có đời sống con người, đặc biệt với một vùng đất nông nghiệp trồng
lúa nước. Do đó, đối với họ, các hiện tượng tự nhiên như mây, mưa,
sấm, chớp không chỉ đơn thần là những quy luật tự nhiên mà ẩn chứa
trong đó nhiều điều huyền diệu, linh thiêng. Họ đã nhân hóa và tôn sùng
Mây – Mưa – Sấm – Chớp như các nữ thần, ảnh xạ của chế độ xã hội mà
người đàn bà nắm quyền cai trị.

2



Với những kinh nghiệm được đúc kết qua quá trình quan sát,
những người nông dân đã nắm được quy luật vần xoay của vũ trụ và mối
quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng mây, mưa, sấm, chớp. Trong tâm
thức cư dân người Việt ta lúc bấy giờ, muốn có mưa, có nước thì phải
nhờ có mây. Vì thế, vị thần đầu tiên người Việt tôn thờ là thần Mây, tiếp
đến là thần Mưa, sau đó là thần Sấm và cuối cùng là thần Chớp.
Tín ngưỡng thờ Nữ thần Mây-Mưa-Sấm-Chớp (Tứ Pháp) ngoài
mục đích bày tỏ va hiện thực hóa sự nhận thức một cách khoa học về các
hiện tượng tự nhiên mà còn phản ánh cuộc sống gắn bó, hài hòa với tự
nhiên của người Việt.
Tín ngưỡng thờ Tứ Pháp đã ăn sâu bám rễ vào tâm thức người
Việt từ ngàn đời nay, và đây cũng chính là nguồn gốc sơ khai, nền tảng
của hệ thống tín ngưỡng thờ cúng Tứ Pháp ngày nay.
2. Phật giáo du nhập vào Việt Nam
Từ những năm đầu Công nguyên, Phật giáo đã du nhập vào nước
ta bằng đường biển thông qua con đường hòa bình. Những cao tăng,
thiền sư và các thương nhân Ấn Độ là những người đầu tiên đem Phật
giáo đến với nước ta. Điểm đầu tiên họ đặt chân tới đó chính là mảnh đất
Luy Lâu, Thuận Thành, Bắc Ninh, nơi gặp gỡ của rất nhiều tuyến đường
giao thông thủy bộ.
Phật giáo hiện diện trong nền văn hóa Việt Nam đã hơn hai
nghìn năm. Những tư tưởng từ bi, hỉ xả,… trong giáo lý của nhà Phật
khá gần gũi với tinh thần vị tha, bao dung, yêu thương, đùm bọc lẫn
nhau trong đạo lý truyền thống của người Việt. Chính vì có sự tương
đồng đó mà ngay từ buổi đầu mới du nhập, Phật giáo đã nhanh chóng
được nhân dân ta tiếp nhận và bản địa hóa. Đạo Phật vô hình chung trở
thành một đối trọng, gắn bó chặt chẽ, mật thiết giúp nhân dân ta chống


3


lại sự đồng hóa của Nho giáo Trung Quốc trong thời kỳ Bắc thuộc lúc
bấy giờ.
Phật giáo sau khi vào Việt Nam không những được dễ dàng tiếp
nhận mà còn được nhân dân ta sáng tạo, biến đổi để phù hợp với tâm
thức người Việt. Đạo Phật ở Việt Nam không còn là Phật giáo nguyên
gốc Ấn Độ nữa mà đã được cải biến đi rất nhiều, mang đậm bản sắc văn
hóa dân tộc. Nói cách khác, Phật giáo Ấn Độ sau khi du nhập vào nước
ta đã được nhân dân ta thổi hồn văn hóa dân tộc để trở thành “Phật giáo
Việt Nam”. Cũng chính bởi việc chứa đựng những nét đặc trưng văn hóa
Việt kết hợp hài hòa với các yếu tố ngoại lai mà Phật giáo “ăn sâu bám
rễ” và có một chỗ đứng vô cùng vững chắc trong tâm thức người Việt.
Đây cũng chính là một minh chứng hùng hồn cho bản lĩnh của
người Việt Nam trong quá trình giao lưu tiếp xúc với các nền văn hóa
khác.
3. Sự tích về nàng Man Nương và tục thờ Tứ Pháp
Sự tích Man Nương và tục thờ Tứ Pháp được lưu truyền từ thế kỷ
thứ II sau Công nguyên, và đã được ghi chép trong rất nhiều truyện sách
cổ xưa như: Lĩnh Nam Chích Quái, Kiến Văn Tiểu Lục, Văn Hiến
Thông Khảo, An Nam Chí Lược... với những chi tiết khác biệt nhau. Tuy
nhiên, nguồn gốc của Tứ Pháp được nhiều người biết đến nhất được ghi
lại trong truyện Man Nương - sách “Lĩnh Nam Chích Quái” (Trần Thế
Pháp, thế kỷ XIV, Vũ Quỳnh - Kiều Phú, 1492) và vào giữa thế kỷ XVII
mới được in thành sách riêng. Hiện còn lưu lại qua bản “Cổ Châu Pháp
Vân Phật Bản Hạnh Ngữ Lục” khắc gỗ tại chùa Dâu được khắc vào năm
thứ 13 niên hiệu Cảnh Hưng (1752).
Truyền thuyết kể rằng, nàng Man Nương (Thuận Thành, Bắc
Ninh) năm 12 tuổi đến chùa Linh Quang (Tiên Du, Bắc Ninh) học đạo.

Tại chùa, có một vị thiền sư tên là Khâu-đà-la, là một vị cao tăng đầu

4


tiên sang VIệt Nam truyền đạo tại đây. Một hôm, Man Nương ngủ ở
thềm, nhà sư tình cờ bước qua người nàng, và sau đó nàng thụ thai một
cách thần kỳ. Sau 14 tháng, nàng Man Nương sinh hạ một bé gái, đem
đến chùa trả lại cho thiền sư. Ông gõ gậy Tích Trượng vào cây Dung
Thụ cạnh chùa, cây tách ra. Thiền sư để đứa trẻ vào trong, cây khép lại.
Khâu-đà-la trao cho Man Nương cây gậy thần và dặn khi nào hạn hán thì
đem gậy cắm xuống đất để cứu nhân dân. Khi vùng Dâu bị hạn hán 3
năm liền, nhớ đến lời dặn của ông, Man Nương đã đem cây gậy thần
cắm xuống đất. Ngay lập tức, nước phun lên. Cây cối, ruộng đồng lại
tươi tốt và chúng sinh thoát nạn hạn hán. Tiếp đó, có trận mưa to, cây
Dung Thụ bị gió bão quật đổ xuống sông Thiên Đức, sông Dâu rồi trôi
về Luy Lâu. Khi đó, Thái thú Sĩ Nhiếp ra lệnh cho quân lính nhưng
không ai lay chuyển nổi. Sĩ Nhiếp thấy thế mà kinh sợ. Đêm nằm mộng,
Sĩ Nhiếp cho người tạc tượng Phật từ cây Dung Thụ đó. Nhưng làm thế
nào cũng không kéo được cây lên bờ, chỉ khi có dải yếm của Man
Nương kéo vào bờ thì mới kéo cây lên được. Sau đó, cây Dung Thụ
được tạc thành 4 pho tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện
tượng trưng cho Mây – Mưa – Sấm – Chớp mang vào chùa thờ tự. Khi
thợ tạc tượng gặp trong thân cây có khối đá bèn vứt xuống sông. Đến
đây, thấy lòng sông rực sáng, bà Man Nương liền đi thuyền ra giữa sông
thì khối đá tự nhiên nhảy vào lòng. Khối đá ấy được đưa vào thờ và gọi
là “Thạch Quang Phật”. Man Nương mất vào ngày mồng tám tháng tư,
cũng chính là ngày đản sinh của thái tử Tất-đạt-đa (theo truyền thống
xưa của Phật giáo). Sau khi mất, bà được người đời xưng tụng là Phật
Mẫu Man Nương.

Ngày nay, bốn pho tượng Tứ Pháp được thờ ở các chùa thuộc
huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Còn bà Man Nương được nhân dân
tôn kính gọi là Phật Mẫu. Ngôi nhà của cha mẹ bà được xây thành chùa

5


theo tục “hóa gia vi tự” (tức là “dựng nàh thành chùa”) nay là chùa Tổ
hay còn gọi là Phúc Nghiêm Tự thuộc xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành,
tỉnh Bác Ninh. Hiện trong chùa thờ Phật Mẫu Man Nương và con của bà
là Thạch Quang Phật, ngoài ra còn thờ Đức thân sinh ra Phật Mẫu và vị
cao tăng Khâu-đà-la.
4. Sự ra đời của tín ngưỡng thờ Tứ pháp là sự kết hợp tài tình giữa Phật
giáo Ấn Độ và tín ngưỡng văn hóa dân gian Việt Nam
Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ pháp phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ là
kết quả của quá trình sáng tạo, phối trộn và dung hòa giữa Phật giáo Ấn
Độ và tín ngưỡng văn hóa dân gian Việt Nam. Điều này được thể hiện rõ
nét trước hết qua chính truyền thuyết về sự ra đời của tục thờ Tứ pháp.
Là những cư dân trồng lúa nước, người Việt luôn phải đấu tranh
với thiên nhiên để canh tác và sinh tồn. Vì vậy, từ xa xưa người Việt cổ
đã có tập tục thờ các hiện tượng tự nhiên mà nổi bật là tín ngường thờ
Tứ pháp. Đến khi Phật giáo vào nước ta, muốn bén rế vào mảnh đất này
Phật giáo nhất thiết phải có sự dung hòa với các tín ngưỡng dân gian. Đó
chính là nguyên nhân sâu xa của cuộc hôn phối tinh thần giữa Man
Nương, một người con gái bản địa (tượng trưng cho tín ngưỡng dân
gian) và một nhà sư Ấn Độ là Khâu-đà-la (đại diện cho triết lý và văn
hóa Phật giáo Ấn Độ). Câu chuyện về nàng Man Nương cho thấy rõ bản
chất của hệ thống Tứ Pháp Việt Nam, đó là sự dung hòa giữa Phật giáo
và tín ngưỡng dân gian là thờ thần tự nhiên và thờ Mẫu.
Sau khi Đạo Phật du nhập vào nước ta, Phật giáo đã kết hợp hài

hòa với tín ngưỡng dân gian bản địa như tục thờ Mẹ, thờ Nữ thần và thờ
Tứ pháp để cho ra một hình tượng mới – Phật Mẫu, Phật Tứ Pháp. Tín
ngưỡng thờ Tứ pháp cổ xưa vẫn tiếp tục tồn tại nhưng với một diện mạo
mới do ảnh hưởng của Phật giáo. Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp
Điện từ chỗ là những Nữ thần đại diện cho những hiện tượng tự nhiên

6


gắn bó với nền nông nghiệp lúa nước, nay được nhân dân tôn sùng là các
Phật Bà: Phật Pháp Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi, Phật Pháp Điện.
Còn nàng Man Nương, người phụ nữ Việt Nam trong truyền thuyết đã có
công sáng tạo ra một loại hình tín ngưỡng mới, được nhân dân suy tôn là
Phật Mẫu và được thờ trong Chùa Tổ.
Sự kết hợp giữa Phật giáo Ấn Độ và tín ngưỡng thờ Nữ thần trong
truyền thống thờ cúng Tứ pháp còn được thể hiện ở cách không gian và
cách bài trí các ngôi chùa Tứ pháp. Nếu như với các công trình kiến trúc
Phật giáo thờ các nhân thần như Không Lộ thiền sư (Nguyễn Minh
Không) thời Lý, Nguyễn Bình An thời Trần thường tồn tại kiểu thờ
“Tiền Phật hậu Thánh”, Thánh được thờ sau điện thờ Phật… thì ngược
lại, trong các ngôi chùa thờ Tứ Pháp (những vị Thánh có nguồn gốc tự
nhiên) lại tồn tại hệ thống tượng thờ kiểu “Tiền Thánh hậu Phật”, đẩy hệ
thống tượng Tứ Pháp lên trên hệ thống tượng Phật. Tuy nhiên, hiện nay,
các công trình được trùng tu lại đều được bố trí theo kiểu “Tiền Phật hậu
Thánh”. Vì vậy, ta gặp hầu hết các tòa cung cấm là nơi thờ Thánh, căn
trước thượng điện mới là nơi thờ Phật.
Hình ảnh các pho tượng trong chùa Tứ pháp cũng thể hiện dấu ấn
đậm nét của sự giao thoa giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Hình
tượng các Bà, các Mẹ trong tín ngưỡng thờ các thế lực tự nhiên hiện lên
trong các pho tượng Phật với khuôn mặt đầy nữ tính, thuần Việt, đức độ

nhưng thân hình lại là nam. Khác hẳn với các pho tượng Phật khác,
tượng Phật Mẫu đều tạc Phật mình trần quấn váy trên phần ngực. Tượng
được sơn màu gụ bóng với ý nghĩa tổng hợp màu đỏ của máu và màu
đen của mây đen tượng trưng cho nguồn sống và sự huyền bí. Đáng chú
ý là động tác “nửa vời” của đôi tay các Phật Tứ pháp. Trong nghệ thuật
tạc tượng Phật giáo thông thường, đôi tay đều được đặt đúng điểm dừng
nên tạo ra cảm giác tĩnh tại. Trong khi đó, ở tượng Phật Tứ pháp lại thể

7


hiện đôi tay thật động. Một tay đưa lên phía ngực làm phép, bàn tay mở
ra năm ngón an nhiên. Tay kia hạ xuống, ngửa ra phổ độ chúng sinh.
Đây có thể gọi là hiện tượng “tiếp biến văn hóa” (acculturation) từ Ấn
Độ sang Việt Nam và mang một bản sắc riêng của một vùng văn minh
nông nghiệp lúa nước. Hệ thống tín ngưỡng thờ Tứ Pháp tại vùng châu
thổ đồng bằng sông Hồng mang nặng yếu tố văn hóa bản địa trong quá
trình tiếp xúc giao lưu với văn hóa ngoại lai, và cũng là minh chứng cho
sự tác động ngược trở lại của văn hóa bản địa đối với văn hóa ngoại lai
trong quá trình “Ấn Độ hóa”.
Đây cũng chính là một minh chứng hùng hồn cho bản lĩnh của
người Việt Nam trong quá trình giao lưu tiếp xúc với các nền văn hóa
khác. Trong mỗi cuộc tiếp xúc văn hóa, Việt Nam đều biết chắt lọc và
biến đổi những yếu tố văn hóa ngoại lai cho phù hợp với tâm thức người
Việt để biến chúng trở thành những nét đặc trưng văn hóa của riêng
mình.

II, TỤC THỜ TỨ PHÁP Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ VÀ LỄ HỘI CHÙA
DÂU
Tục thờ Tứ pháp là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam đã tồn tại

từ hàng ngàn đời nay trong lịch sử dân tộc, gắn bó sâu sắc với đời sống
tâm linh người Việt và có ảnh hưởng sâu rộng đặc biệt là ở vùng Đồng
bằng Bắc Bộ.
Ban đầu, Phật Tứ pháp chỉ được thờ trong các chùa ở vùng Luy
Lâu, Thuận Thành, Bắc Ninh: chùa Dâu (còn gọi là chùa Cổ Châu, Diên
Ứng, Thiên Định) thờ Pháp Vân, Pháp Vũ; chùa Tướng (chùa Phi Tướng
thờ Pháp Lôi), chùa Dàn (chùa Phương Quang) thờ Pháp Điện. Ngoài ra
còn có chùa Tổ Phúc Nghiêm (Mãn Xá) thờ Phật Mẫu Man Nương.

8


Nhưng ngày nay, tín ngưỡng thờ Tứ pháp được phổ biến tại nhiều vùng
miền thuộc Đồng bằng Bắc Bộ. Có thể kể đến một số chùa sau đây.
Tại Hà Nội có một số hệ thống chùa thờ Tứ Pháp thờ Pháp Vân
như chùa Keo (Dâu), chùa Nành (Gia Lâm), chùa Pháp Vân, Pháp Vũ ở
Thanh Trì.
Hà Tây có chùa Đậu (chùa Thành Đạo, chùa Vua, chùa Bà, chùa
Pháp Vũ) thờ Pháp Vũ, chùa Pháp Vân.
Tại Hưng Yên có chùa Thái Lạc (thờ Pháp Vân), chùa Hồng Cầu
thờ Pháp Vũ, chùa Hồng Thái thờ Pháp Điện, chùa Nhạc Miếu thờ Pháp
Lôi (xã Lạc Hồng). Chùa Lạc Đạo (thờ Pháp Vân), chùa Hoằng (thờ
Pháp Vũ), chùa Tân Nhuế (Pháp Điện), Hướng Đạo (Pháp Lôi) tại xã
Lạc Đạo.
Tại Nam Định chùa Quế Lâm, chùa Do Lễ, chùa Thôn Bốn (Kim
Bảng) thờ Pháp Vân, chùa Bà Đanh (Kim Bảng), chùa Trinh Sơn (Thanh
Liêm) thờ Pháp Vũ. Chùa Đặng Xá (Kim Bảng), chùa Nứa (Duy Tiên)
thờ Pháp Lôi, chùa Bà Bầu thờ Pháp Điện (Phủ Lý).
Hàng năm, vào ngày 8-4 âm lịch được coi là ngày sinh của Phật tổ
Thích Ca Mâu Ni, nhân dân trong vùng lại nô nức, tưng bừng mở hội

chùa Dâu. Đây là một lễ hội lớn, nổi tiếng đã đi vào câu ca dân gian:
“Dù ai đi đâu về đâu
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Tháng Tư ngày Tám thì về hội Dâu”.
Tham gia tổ chức hội Dâu là nhân dân ở 12 làng thuộc tổng
Khương Tự (tổng Dâu) xưa: Đại Tự, Khương Tự, Thanh Tương, Thanh
Hoài, Lũng Khê, Văn Quan, Phương Quan, Xuân Quan, Trà Lâm, Tư
Thế, Công Hà, Đông Cốc.

9


Chính hội diễn ra trong hai ngày mồng 8 và mồng 9 (tháng Tư),
nhưng từ sáng ngày mồng 7, nhân dân 12 làng đã kéo đến các chùa để
chuẩn bị. Chiều mồng 7, các tượng Tứ Pháp được hạ xuống kiệu để
“tắm” (lau rửa cho sạch sẽ), rồi “phong y” (mặc quần áo đẹp), để ngày
hôm sau rước đi tham gia hội. Tối hôm đó (mồng 7) và trong cả hai đêm
mồng 8, mồng 9, lão bà của các làng đều tập trung ra các chùa, cùng
nhau kể hạnh.
Sớm mồng 8, hội Dâu bắt đầu bằng việc dân làng Lũng Khê (làng
“sở tại” của đền Lũng - nơi thờ Sĩ Nhiếp) rước ngai thờ thái thú Sĩ Nhiếp
và con gái ông ta ra chùa Dâu để khai hội (vì theo nhân dân trong vùng,
Sĩ Nhiếp là người có công tạc tượng Tứ Pháp và xây dựng hệ thống các
chùa thờ Tứ Pháp), xong lại rước (ngai thờ Sĩ Nhiếp và con gái ông ta)
về đặt tại đền Lũng. Ngay sau đó, các làng bắt đầu cuộc rước Pháp Vũ,
Pháp Lôi, Pháp Điện về “hội đồng” cùng chị cả Pháp Vân (Phật Thạch
Quang) tại sân chùa Dâu.
Một điểm đáng lưu ý là: Ở các chùa Tứ Pháp, xưa kia chùa nào
cũng có một tượng “thủ bệ” (giữ bệ) đặt ở sau Tứ Pháp. Khi Tứ Pháp

được rước đi dự hội, thì sẽ đưa tượng 8 “thủ bệ” lên đặt vào chỗ tượng
Tứ Pháp - Tượng “thủ bệ” ở đó là để thay Tứ Pháp trông giữ chùa, dẹp
đuổi ma quỷ nếu chúng định đến “cướp chỗ” của Tứ Pháp.
Vì không chỉ có nhân dân 12 làng thuộc tổng Khương Tự, mà còn
có rất nhiều người dân quanh vùng kéo về, nên người dự hội rất đông.
Bà Dàn (Pháp Điện) là em út phải có mục “đánh gậy” để dẹp lối cho các
đoàn rước và lấy đất mở hội - Thực ra là, làng Dàn được phân công chọn
ra 32 thanh niên khoẻ mạnh, đi thành đoàn, mỗi người mang theo một
cây gậy tre (gậy tre cuốn giấy đỏ bên ngoài thì gọi là “hồng côn”; gậy tre
“bánh tẻ” đem xát muối, phơi nắng cho trắng thì gọi là “bạch trượng”),
vừa đi vừa múa theo một vũ điệu nhanh, mạnh để mở lối.

10


Khi Tứ Pháp đã “hội đồng” (tập hợp) bên nhau tại chùa Dâu, cũng
là khi các trò chơi, cuộc thi thể thao, văn nghệ dân gian được tổ chức,
như: Múa sư tử, múa hoá trang rùa và hạc, múa trống, đốt cây bông, đấu
cờ người, đấu vật... Các trò chơi, cuộc thi này kéo dài trong suốt hai
ngày mồng 8 và mồng 9, nhưng thiêng liêng và hấp dẫn hơn cả là cuộc
thi “cướp nước” giữa hai bà Pháp Vũ hoặc Pháp Lôi: Đúng 12 giờ trưa
ngày mồng 8, hai đội rước của hai làng Đại Tự và Thanh Tương tập
trung ở sân chùa Dâu, chờ khi có hiệu lệnh, mỗi đội liền rước một kiệu trên có đặt tượng Pháp Vũ và Pháp Lôi, chạy một mạch ra tam quan chùa
(ở phía trước sân chùa, bên bờ sông Dâu). Đội nào chạy đến trước và hạ
kiệu an toàn, được coi là thắng cuộc. Tương truyền, năm nào bà Pháp
Lôi thắng thì năm đó mưa thuận gió hoà, năm nào bà Pháp Vũ thắng thì
năm đó đồng ruộng rất nhiều đỉa (cũng có người có ý kiến ngược lại).
Cũng trong hai ngày mồng 8 và mồng 9, mỗi ngày một lần, vào
khoảng chiều muộn, bốn “chị em” Tứ Pháp còn được tổ chức rước ra
chùa Tổ (ở làng Mãn Xá) để bái vọng Mẹ (Phật mẫu Man Nương) và

ông bà Tu Định. Sau cuộc bái vọng ngày mồng 9, cả bốn chị em Tứ
Pháp cùng được rước đi tuần nhiều quanh tổng. Đoàn rước có mang theo
nhiều cờ, biển, bát bửu, tàn vàng, quạt lớn, có chiêng trống gõ nhịp. Cả
12 làng cùng tham gia đoàn rước. Làng lớn thì chỉ chọn nam giới, làng
nhỏ thì chọn thêm nữ giới, mỗi làng khoảng 20 - 50 người tham gia đoàn
rước chính. Đi theo cổ vũ đoàn rước là nhân dân 12 làng và đông đảo
khách thập phương gần xa.
Đoàn rước “tuần nhiễu” bắt đầu từ chùa Tổ, rồi lần lượt qua các
làng Đại Tự, Thanh Tương, Thanh Hoài, Lũng Khê, Phương Quan...
(đường “tuần nhiễu” nay vẫn còn dấu vết rõ ở nhiều đoạn). Đến trước
cửa đình của các làng, đoàn rước đều dừng lại để Tứ Pháp bái vọng
thành hoàng làng, cũng là để vị tiên chỉ của làng đó ra lễ Tứ Pháp. Khi

11


đến chùa làng Thanh Tương (Phi Tướng tự) thì Pháp Lôi (bà Tướng)
chào chị, chào em rồi được đưa về chùa của mình (làng Thanh Tương
làm lễ rồi rước Pháp Lôi vào chùa). Khi đi qua thành Luy Lâu, đoàn
rước dừng lại trước cửa đền Lũng để Tứ Pháp vái Đống Răm (tương
truyền đây là nơi vị tiên ông, sau khi báo mộng cho Sĩ Nhiếp lấy gỗ cây
Dung Thụ để tạc tượng Tứ Pháp, đi ra đến chỗ này thì biến mất; cũng
truyền rằng đây là nơi chôn tất cả các phoi bào, mùn cưa, gỗ vụn do tạc
tượng Tứ Pháp mà có). Cứ lần lượt như vậy, đoàn tuần nhiễu đưa Pháp
Điện về chùa Dàn; rồi Pháp Vân, Pháp Vũ về đến chùa Dâu thì hai chị
em chào nhau, 9 sau đấy Pháp Vân về chùa Dâu, Pháp Vũ về chùa Thành
Đạo (Pháp Vũ về cuối cùng). Lúc đó, hội coi như đã kết thúc.
Ngoài các hoạt động chính trên đây, trong hai ngày mồng 8 và
mồng 9, các gia đình ở 12 làng thuộc tổng Khương Tự đều sắm sửa lễ
vật ra chùa lễ Phật (lễ vật thường là hương hoa, oản quả). Các gia đình

còn làm cỗ ở nhà để mời bà con và bạn bè xa gần về dự hội. Vì thế, suốt
hai ngày, cả vùng Dâu nhà nhà nhộn nhịp, làng làng tưng bừng. Đấy là
dịp vui chung lớn nhất trong năm của nhân dân vùng Dâu.
Từ xưa, lễ hội chùa Dâu đã trở thành nét đẹp văn hóa đặc trưng
của vùng miền, nhằm ôn lại truyền thống lịch sử, phong tục tập quán,
đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh cũng như động viên, khích lệ tinh thần
nhân dân cùng nhau đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trong cộng
đồng dân cư và gìn giữ, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa cộng
đồng.
Lễ hội chùa Dâu là một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống
tâm linh của người dân vùng Dâu. Bởi nó không chỉ là nhu cầu tìm về
Phật tổ và hòa mình trong hoạt động văn hóa cộng đồng dân gian sôi
động và tiêu biểu mà còn với ý nghĩa quan trọng là cầu mong mọi điều

12


tốt lành, cầu cho mưa thuận gió hòa – một ước vọng ngàn đời của cư dân
nông nghiệp.

KẾT LUẬN
Sự ra đời của tín ngưỡng thờ Tứ pháp hiện nay chính là kết quả
của quá trình giao lưu, tiếp xúc văn hóa Việt-Ấn. Tín ngưỡng thờ các thế
lực tự nhiên như Mây-Mưa-Sấm-Chớp đã tồn tại bao đời nay, gắn bó
mật thiết với nền nông nghiệp lúa nước đã hòa quyện, kết hợp khéo léo
với Phật giáo từ Ấn Độ để cho ra đời một loại hình tín ngưỡng mới, tín
ngưỡng thờ Tứ pháp như hiện nay.
Đây là một minh chứng cụ thể cho bản lĩnh của người Việ Nam
trong các cuộc tiếp xúc văn hóa. Trong mỗi cuộc tiếp xúc văn hóa, Việt
Nam đều biết chắt lọc và biến đổi những yếu tố văn hóa ngoại lai cho

phù hợp với tâm thức người Việt để biến chúng trở thành những nét đặc
trưng văn hóa của riêng mình, tạo nên bane sắc văn hóa Việt Nam.
Cho đến nay, tín ngưỡng thờ Tứ pháp vẫn chiếm một vị trí quan
trọng trong đời sống tâm linh người Việt. Hàng năm, lễ hội chùa Dâu thờ
Tứ pháp (Thuận Thành, Bắc Ninh) vẫn thu hút đông đảo người dân tham
gia. Lễ hội này đã trở thành một sinh hoạt cộng đồng không thể thiếu,
một nét đặc trưng văn hóa Phật giáo ở Việt Nam.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

13


1. ThS. Nguyễn Hữu Toàn, CN. Lê Quốc Vụ, Tiếp biến văn hóa Việt
Nam và văn hóa khu vực (Qua một số di sản văn hóa phi vật thể ở vùng
Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh), (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
2. Trần Chi Lan, Tín ngưỡng thờ Tứ pháp ở Đồng bằng Bắc Bộ, (link
website: />%C6%B0%E1%BB%A1ng-th%E1%BB%9D-t%E1%BB%A9-ph
%C3%A1p-t%E1%BA%A1i-%C4%91%E1%BB%93ng-b%E1%BA
%B1ng-b%E1%BA%AFc-b%E1%BB%99.html)
3. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam (ĐHQGHN, 1997)
4. Tục thờ các vị thần nông nghiệp (link website:
/>content/31/lang/vn/Tin_nguong_tho_Tu_Phap_tai_Dong_Bang_Bac_Bo
.html)
5. Tứ pháp (link website: />%A9_ph%C3%A1p)
6. Tứ pháp – Tín ngưỡng độc đáo của người Việt (link website:
/>7. Video:
/> />v=1byokAhul3k&feature=watch_response_rev
/>
14



15



×