Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.49 KB, 92 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền kinh tế thị trường với xu hướng toàn cầu hoá kinh tế và quốc tế hoá các
luồng tài chính đã tạo ra những thay đổi lớn trong hoạt động kinh doanh của các
ngân hàng thương mại Việt Nam. Hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương
mại ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp. Trong tất cả các hoạt động kinh doanh của
ngân hàng thì tín dụng vẫn đang là hoạt động chiếm tỷ trọng cao nhất, mang lại
nhiều lợi nhuận nhất và là mối quan tâm hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng thương mại. Đồng thời, tín dụng cũng là hoạt động kinh doanh phức
tạp nhất so với các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng thương mại, đem lại
nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng xảy ra là nguyên nhân chủ yếu gây
ra các khoản thua lỗ cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Song
rủi ro tín dụng tồn tại gần như tất yếu và không có biện pháp hữu hiệu nào để các
ngân hàng thương mại có thể loại trừ hoàn toàn ra khỏi hoạt động kinh doanh của
mình. Để cân nhắc mâu thuẫn giữa sinh lời và rủi ro, các ngân hàng thương mại chỉ
có thể sử dụng các biện pháp quản lý cẩn thận để phòng ngừa và hạn chế tổn thất có
thể xảy ra. Vì vậy, quản lý rủi ro tín dụng được coi là nội dung quản lý quan trọng
của ngân hàng thương mại, nhất là trong tình hình kinh tế tài chính ngân hàng toàn
cầu đầy biến động như hiện nay.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam là một ngân hàng
thương mại nhà nước cũng tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường với hoạt
động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các hoạt động kinh doanh của mình.
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế hiện nay có thể làm cho nợ xấu
gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh
nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ
thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Thực tế, tỷ lệ nợ xấu, nợ xử
lý rủi ro của NHNo & PTNT Việt Nam vẫn đang ở mức cao và có xu hướng tăng.
Điều này cho thấy công tác quản lý rủi ro tín dụng trong hệ thống NHNo & PTNT
đang thực hiện có những nội dung chưa phù hợp với điều kiện thực tế.




2

Xuất phát từ những thực trạng trên, trên cơ sở kết hợp lý luận với thực tiễn,
kết hợp tham khảo các nội dụng có liên quan từ các tài liệu, sách báo và số liệu
thống kê đã thực hiện trong các năm qua, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Quản lý
rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở khoa học về quản lý rủi ro tín dụng để đánh giá thực trạng quản lý
rủi ro tín dụng tại Ngân hàng No & PTNT Việt Nam từ đó đưa ra các giải pháp nhằm
hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng No & PTNT Việt Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định khung lý thuyết nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý
rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng No & PTNT Việt
Nam nói riêng.
- Phân tích thực trạng rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín dụng và nguyên
nhân ảnh hưởng của nó tại Ngân hàng No & PTNT Việt Nam, từ đó xác định những
nội dung cần hoàn thiện trong giai đoạn tới.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng
tại Ngân hàng No & PTNT Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu rủi ro tín dụng, quản lý rủi ro tín dụng.
- Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu những rủi ro tín dụng, thực trạng quản lý
rủi ro tín dụng tại Ngân hàng No & PTNT Việt Nam và các bên có liên quan từ năm
2008 đến năm 2012 và các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng No & PTNT Việt Nam.
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý rủi ro tín dụng trong hoạt động tín

dụng tại ngân hàng thương mại.
- Đánh giá những kết quả đã đạt được, những hạn chế và nguyên nhân cần
phải hoàn thiện trong quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng No & PTNT Việt Nam.


3

- Một số giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro tín dụng được đưa ra trong đề tài
sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng No &
PTNT Việt Nam.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
4 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại.
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
- Chương 3: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng No & PTNT
Việt Nam.
- Chương 4: Giải pháp hoàn thiện quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng No
& PTNT Việt Nam.


4

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG NHTM
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng của NHTM
Ngân hàng thương mại là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất
trong nền kinh tế. Ngân hàng gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế và hệ thống tài chính, trong đó ngân hàng thương mại (NHTM) thường

chiếm tỷ trọng lớn nhất về thị phần, quy mô tài sản, số lượng các ngân hàng, là tổ
chức thu hút tiết kiệm lớn nhất của hầu hết các nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận nhưng khác với các
tổ chức kinh tế khác ở chỗ đối tượng kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ với hoạt
động chủ yếu là huy động tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay, đáp ứng nhu
cầu vốn một cách hợp lý của bộ phận cần vốn trong nền kinh tế.
Cũng như tất cả các ngành kinh doanh khác, kinh doanh ngân hàng cũng đối
mặt với rất nhiều rủi ro. Rủi ro đến từ những nguy cơ tiềm ẩn như sự không trung
thực của khách hàng, vốn vay bị sử dụng sai mục đích, khách hàng phá sản hay do
suy thoái kinh tế, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng… thậm chí khi hệ
thống pháp luật chưa hoàn chỉnh cũng tạo điều kiện cho những ý đồ xấu của khách
hàng hay cán bộ ngân hàng chiếm đoạt tài sản. Rủi ro tín dụng là mối đe dọa mà tất
cả các NHTM phải đối mặt. Nhiệm vụ quan trọng và trọng tâm của quản lý các
NHTM là phải nâng cao chất lượng tín dụng, đưa ra các biện pháp phòng ngừa và
hạn chế rủi ro tín dụng đối với các các thành phần kinh tế.
“Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện
toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan” (Luật tín dụng do
Quốc hội khóa X thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997).
“Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt
động của ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này
nhằm mục tiêu lợi nhuận” (Luật các Tổ chức Tín dụng do Quốc hội nước
CHXHCNVN khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16/6/2010, có hiệu lực từ
ngày 01/01/2011).


5

Ngày nay hoạt động của các NHTM đã trở lên rất đa dạng và kết nối với hầu
hết các thành phần, lĩnh vực khác nhau trong nền kinh tế. Tuy nhiên về cơ bản,
NHTM vẫn luôn luôn thực hiện các chức năng vốn có của mình. Hay nói cách khác,

NHTM vẫn thực hiện các chức năng cơ bản.
1.1.1.1. Các chức năng cơ bản của ngân hàng thương mại
a/ Chức năng trung gian tín dụng
Ngân hàng là trung gian tín dụng với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm
thành đầu tư, là cầu nối giữa 2 nhóm:
Nhóm 1: Các cá nhân và tổ chức có thặng dư vốn tạm thời hoặc có tiền tiết
kiệm nhàn rỗi có kỳ hạn xác định nên họ có nhu cầu gửi tiết kiệm để an toàn và gia
tăng giá trị.
Nhóm 2: Các cá nhân và tổ chức tạm thời thiếu hụt vốn do phát sinh nhu cầu
hoặc điều kiện mới hay thiếu vốn có tính toán trước để đầu tư sản xuất kinh doanh
như vốn lưu động, vốn đầu tư tài sản cố định… vì thế cần bổ sung vốn.
Sự tồn tại của hai nhóm trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là
thông qua ngân hàng, tiền sẽ được chuyển từ nhóm 1 đến nhóm 2 nếu cả hai cùng có
lợi. Như vậy, giá trị gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm.
“Các ngân hàng thương mại đã trở thành những “cỗ máy biến thế” biến đổi
cơ cấu và thời hạn của dòng vốn chu chuyển trong nền kinh tế” (Nguyễn Thị Thanh
Sơn- Kỷ yếu hội thảo nâng cao năng lực quản trị rủi ro của ngân hàng thương mạiNXB Phương Đông).
Như vậy, với chức năng trung gian tín dụng của mình, NHTM đã trở thành
trung tâm tiếp nhận và biến đổi rủi ro của toàn bộ nền kinh tế.
b/ Chức năng trung gian thanh toán
Ở hầu hết các quốc gia hiện nay, ngân hàng là trung tâm thanh toán lớn nhất.
Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ,
thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa, tiết kiệm chi phí, từ đó giúp ngân hàng kiểm
soát được lượng tiền cung ứng trên thị trường, kiểm soát được dòng tiền cho vay.
Thông qua các nghiệp vụ thanh toán, NHTM trở thành người thủ quỹ của các doanh


6

nghiệp. Với việc mở tài khoản tại các ngân hàng và sử dụng các công cụ thanh toán

của ngân hàng, doanh nghiệp không cần sử dụng tiền mặt, việc thanh toán được
nhanh chóng, thuận tiện và hạn chế rủi ro rất nhiều. Có nhiều công cụ thanh toán
như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…Các ngân hàng còn
thực hiện việc thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc
thông qua trung tâm thanh toán. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp
phần tạo tính thống nhất trong thanh toán, không chỉ trong một quốc gia mà còn
giữa các quốc gia với nhau trên toàn thế giới, làm tăng hiệu quả thanh toán qua
ngân hàng, biến ngân hàng thành trung tâm thanh toán vô cùng quan trọng, hiệu
quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
c/ Chức năng tạo tiền
Tạo tiền là một chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM. Với
mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận như một yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển
của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô
hình chung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được
thực thi trên cơ sở hai chức năng trên của NHTM là chức năng tín dụng và chức
năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số
vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để
mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán
của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để
mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm
tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi
trả của xã hội, NHTM tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng
trung ương đã áp dụng với NHTM, do vậy ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ
này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn.
1.1.1.2. Hoạt động tín dụng ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển
của bất cứ một nền kinh tế hiện đại nào, kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực kinh
doanh đặc biệt với hàng hóa kinh doanh là tiền tệ.



7

Tín dụng ngân hàng là một quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ
ngân hàng sang khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định với khoản chi phí
nhất định.
Tín dụng ngân hàng được phân loại theo những tiêu chí khác nhau:
+ Căn cứ vào mục đích của tín dụng:
• Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh: Khách hàng có nhu cầu vay vốn để
thanh toán chi phí, mua hàng như nguyên vật liệu, nhân công, … phục vụ cho quá
trình sản xuất kinh doanh.
• Cho vay tiêu dùng cá nhân: Khách hàng có nhu cầu vay vốn để phục vụ các
mục đích tiêu dùng cá nhân.
+ Căn cứ vào thời hạn cho vay:
• Cho vay ngắn hạn: Là loại cho vay với thời hạn đến 1 năm.
• Cho vay trung hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.
• Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn từ 5 năm trở lên.
1.1.2. Rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Theo Thomas P.Fitch: Rủi ro tín dụng là loại rủi ro xảy ra khi người vay
không thanh toán được nợ theo thoả thuận hợp đồng dẫn đến sai hẹn nghĩa vụ trả
nợ. Cùng với rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro chủ yếu trong
hoạt động cho vay của ngân hàng. (Dictionary of banking terms, Barron’s
Edutional Series, Inc, 1997)
Theo Timothy W.Roch: Một khi ngân hàng nắm giữ tài sản sinh lời, rủi ro
xảy ra khi khách hàng sai hẹn - có nghĩa là khách hàng không thanh toán vốn gốc và
lãi theo thoả thuận. RRTD là sự thay đổi tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của
vốn xuất phát từ việc khách hàng không thanh toán hay thanh toán trễ hẹn.
Về mặt định lượng: Rủi ro tín dụng được phản ánh bởi chính số lượng nợ quá
hạn, nợ đọng của mỗi tổ chức tín dụng.
Về mặt định tính: Rủi ro tín dụng có quan hệ ngược chiều với chất lượng tín

dụng. Theo đó chất lượng tín dụng càng cao thì mức độ rủi ro càng thấp và ngược


8

lại, chất lượng tín dụng thấp, nợ quá hạn cao thì rủi ro tín dụng là rất lớn và có tác
động ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Rủi ro tín dụng phát sinh khi ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng. Tất cả
các hình thức cấp tín dụng của ngân hàng bao gồm cho vay ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn, cho thuê tài chính, chiết khấu chứng từ có giá, tài trợ xuất nhập khẩu, tài
trợ dự án, bao thanh toán và bảo lãnh đều chứa đựng rủi ro tín dụng. (Nghiệp vụ
ngân hàng thương mại, TS Nguyễn Minh Kiều, NXB Thống Kê 2009, tr 610).
Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Thông tư số
13/2010/TT-NHNN ngày 20/05/2010 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong
các hoạt động của tổ chức tín dụng: “Rủi ro tín dụng là rủi ro do biến động bất
thường của khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng dẫn đến khách hàng
không trả được nợ vay” .
1.1.2.2. Bản chất của rủi ro tín dụng
Theo khái niệm trên thì bản chất của rủi ro tín dụng là một loại rủi ro phát
sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng, tổ chức tín dụng biểu hiện trên
thực tế qua việc trả nợ của khách hàng vay vốn, có các đặc trưng sau:
- Rủi ro khi người vay sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng,
bao gồm vốn gốc và/hoặc lãi vay. Sự sai hẹn có thể là trễ hẹn, không thanh toán đầy
đủ hoặc không thanh toán.
- Rủi ro tín dụng dẫn đến tổn thất về tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và
giảm giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua
lỗ, hoặc ở mức cao hơn có thể dẫn đến phá sản.
- Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan, chỉ có thể đề phòng,
hạn chế, chứ không thể loại trừ. Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng
nhất, có quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại (đặc biệt là các ngân hàng ở

các nước đang phát triển) - hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ
cụ thể, ngân hàng tiến hành phân tích các yếu tố của khách hàng vay và chỉ quyết
định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên, không có một nhà kinh doanh ngân hàng
nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Đồng thời, khả năng hoàn trả


9

tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi bởi nhiều nguyên nhân chủ quan, khách
quan. Do đó, rủi ro tín dụng luôn được dự kiến, xác định trước trong chiến lược
kinh doanh chung của ngân hàng.
1.1.2.3. Phân loại rủi ro tín dụng
Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia
thành rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục:
- Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát
sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt hồ sơ cho vay, đánh
giá khách hàng.
Rủi ro giao dịch gồm ba loại chính là: rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi
ro nghiệp vụ.
+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình thẩm định, đánh giá,
phân tích tín dụng, khi ngân hàng lựa chọn những phương án vay vốn có hiệu quả
để ra quyết định cho vay.
+ Rủi ro bảo đảm: là rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều
khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, hình thức
đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo, mức độ an toàn của tài sản.
+ Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến quản trị hoạt động cho vay, bao
gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản vay có
vấn đề.
- Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân
phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được

phân chia thành hai loại rủi ro là rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.
+ Rủi ro nội tại: là rủi ro xuất phát từ các yếu tố, các đặc trưng riêng có,
mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế.
Loại rủi ro này xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của
khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung: là rủi ro xảy ra khi ngân hàng tập trung vốn cho vay quá
nhiều đối với một đối tượng khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động


10

trong cùng một lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một đơn vị địa lý nhất định, cùng
một loại hình cho vay có rủi ro cao.
1.2. Quản lý rủi ro tín dụng tại NHTM
1.2.1. Vai trò của quản lý rủi ro tín dụng
Rủi ro luôn luôn tồn tại trong hoạt động kinh doanh. Chính vì thế mà công
tác quản lý rủi ro cũng là một trong những công tác quan trọng nhất. Quản lý rủi ro
làm hạn chế nó xảy ra và có biện pháp khắc phục kịp thời khi rủi ro xảy ra.
QLRRTD là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, các chính sách
quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục tiêu an toàn, hiệu quả và
phát triển bền vững; tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế, giảm thấp nợ
quá hạn, nợ xấu trong hoạt động tín dụng; từ đó tăng doanh thu, giảm chi phí và
nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động kinh doanh cả trong ngắn hạn và dài hạn
của NHTM.
QLRR là một quá trình chấp nhận rủi ro đã được tính toán trước chứ không
phải là trốn tránh rủi ro (Carl Olsson, Global Risk Management, SCB).
Trong thời điểm hiện tại, khi mà hệ thống ngân hàng Việt Nam lao đao vì
nợ xấu tăng cao, chúng ta mới thấy được tầm quan trọng của QLRRTD. Các
NHTM phải đặc biệt tập trung vào công tác quản lý này nếu không muốn đi đến
bờ vực đổ vỡ.

1.2.2. Mục tiêu và nội dung đánh giá quản lý rủi ro tín dụng
1.2.2.1. Mục tiêu của quản lý rủi ro tín dụng
Mục đích: Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và hướng đến các chuẩn
mực quốc tế trong quản lý rủi ro tín dụng.
Mục tiêu của tín dụng trước hết là lợi nhuận, lành mạnh và an toàn. Theo
từng giai đoạn mà ngân hàng sẽ xem mục tiêu nào là hàng đầu mà có chiến lược
phát triển cụ thể. Việc nâng cao chất lượng tín dụng không thể làm trong một lúc
mà phải thường xuyên, đồng bộ, đòi hỏi phải phối hợp nhiều phòng ban trong ngân
hàng đặc biệt là khâu tín dụng và quản lý rủi ro.
Ngân hàng không thể chối bỏ hoạt động cho vay dù nó luôn tiềm ẩn rủi ro,
mà chỉ có thể tìm cách để hoạt động tín dụng trở nên an toàn hơn và hạn chế rủi ro ở


11

mức thấp nhất thông qua nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng. Do vậy, quản
lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM cần phải đáp ứng các mục tiêu sau:
- Giảm thiểu rủi ro tín dụng trên cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng nhưng đảm
bảo tăng trưởng theo chính sách và định hướng tín dụng đã đề ra. Mục tiêu về chất
lượng tín dụng là tỷ lệ nợ xấu dưới 2%, tăng trưởng tín dụng đạt mức 25-30% /năm.
- Phân tán rủi ro trong danh mục đầu tư tín dụng theo định hướng lựa chọn
những ngành nghề, lĩnh vực và nhóm khách hàng có khả năng phát triển và có hiệu
quả; Không đầu tư theo phong trào, đầu tư quá nhiều vào nhóm ngành hàng/ khách
hàng dù nhóm ngành hàng/ khách hàng đó đang có sự tăng trưởng mạnh mẽ nhưng
có khả năng bão hòa hoặc cung vượt cầu trong tương lai.
- Tăng khả năng phòng ngừa rủi ro tín dụng trong hoạt động của NHTM
thông qua nâng cao chất lượng thẩm định và tăng cường kiểm soát, giám sát liên
tục, toàn diện và kịp thời trong quá trình cấp tín dụng.
- Xây dựng cơ chế xử lý nợ xấu hiệu quả, đảm bảo giữ được hợp tác của
khách hàng trong quá trình xử lý nợ xấu, giảm tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra.

1.2.2.2. Nội dung đánh giá QLRRTD tại NHTM
a/ Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng:
Tỷ lệ DPRRTD = DPRRTD được trích lập/ Dư nợ tín dụng cho kỳ báo cáo.
Tỷ lệ này phản ánh số dư quỹ dự phòng rủi ro mà tổ chức tín dụng trích lập
so với dư nợ tín dụng cho vay. Chỉ tiêu này nói lên sự chuẩn bị của tổ chức tín dụng
cho khoản tổn thất tín dụng thông qua việc trích lập quỹ tổ chức tín dụng hàng năm
từ thu nhập hiện tại của TCTD.
b/ Khả năng bù đắp rủi ro tín dụng:
Khả năng bù đắp RRTD= DPRRTD được trích lập/ Nợ quá hạn.
c/ Tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu:
Tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu = Tổng vốn tự có/ Tổng tài sản điều chỉnh theo
trọng số rủi ro.
Tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu là một thước đo độ an toàn vốn thể hiện khả năng
chịu đựng các cú sốc tài chính liên quan đến hoạt động của tổ chức tín dụng. Các tổ
chức tín dụng (trừ chi nhánh các ngân hàng nước ngoài) phải duy trì tỷ lệ giữa vốn


12

tự có và tổng tài sản “có” rủi ro ở mức tối thiểu là 8%. Với các ngân hàng thương
mại nhà nước mà tỷ lệ này thấp hơn 8% thì trong thời hạn tối đa 3 năm phải tăng tỷ
lệ an toàn vốn tối thiểu này lên bằng mức quy định.
1.2.3. Cách tiếp cận quản lý rủi ro tín dụngtheo phương pháp tác nghiệp QLRRTD
1.2.3.1. Nhận diện và phân tích rủi ro tín dụng
* Nhận diện rủi ro tín dụng:
+ Nhóm các dấu hiệu tài chính
- Về khả năng thanh toán: các chỉ số này được xác định trên bảng cân đối kế
toán của doanh nghiệp. Thông qua việc phân tích và đánh giá các tỷ lệ phản ánh khả
năng thanh toán như tỷ lệ thanh toán ngắn hạn, tỷ lệ thanh toán nhanh, … bên cho
vay sẽ đo lường được khả năng thanh toán nợ của khách hàng, qua đó nhận định

khả năng hoàn trả nợ của khách hàng
- Nhóm các chỉ số về khả năng sinh lời của doanh nghiệp cũng cần được xem
xét một cách thận trọng vì chúng ảnh hưởng lớn đến khả năng hoàn trả nợ gốc và
lãi: các chỉ tiêu tỷ suất sinh lời, khả năng sinh lợi so với tổng tài sản (ROA), khả
năng sinh lời so với nguồn vốn chủ sở hữu (ROE), …
- Tình hình dư nợ tín dụng tại các ngân hàng mà DN đã từng vay và đang
vay. Nắm bắt được thông tin này một cách chính xác, nhanh chóng sẽ giúp bên cho
vay sẽ dể dàng quyết định có nên cho vay hay không vì một DN hoạt động tốt sẽ có
tiểu sử tín dụng tốt tại các ngân hàng, sẽ không cùng một lúc đi vay nhiều nơi
+ Nhóm dấu hiệu phi tài chính:
- Khi tới hạn thanh toán nợ mà DN không thanh toán và xin đáo hạn nợ, khất
nợ nhiều lần …
- Khi DN gặp khó khăn trong kinh doanh và quyết định thay đổi nhân sự tại
vị trí quan trọng.
Năng lực sản xuất kinh doanh bị giảm sút, mất thị trường, hàng hóa không
tiêu thụ được, …
* Phân tích rủi ro tín dụng:
Phân tích RRTD giúp cho toàn bộ cơ chế quản trị rủi ro hiểu chính xác và
nhất quán nguy cơ rủi ro đã xác định, phân tích rủi ro và quan trọng nhất là có thể


13

lượng hóa được mức độ rủi ro có thể xảy ra đối với TCTD. Việc phân tích rủi ro
theo 2 phương pháp định tính và định lượng.
• Mô hình định tính
 Phân tích tín dụng
Mô hình 6C: Để phân tích thái độ khách hàng trong việc hoàn trả vốn vay
với việc tập trung vào một số đức tính của khách hàng, các nhà quản lý trong lĩnh
vực tín dụng thường áp dụng nguyên tắc 6C

(1) Tư cách người vay (Character): Tính trách nhiệm, trung thực, mục đích
vay nghiêm túc, kế hoạch trả nợ rõ ràng là những tiêu chuẩn tạo dựng uy tính của
khách hàng trong cách nhìn nhận của CBTD. Đồng thời CBTD cũng cần xem xét tuổi
đời, lịch sử tín dụng của khách hàng để có cái nhìn tổng quát hơn về khách hàng.
(2) Năng lực của người vay (Capacity): CBTD phải xem xét tới năng lực vay
vốn và tư cách pháp lý trong việc ký kết hợp đồng vay vốn của khách hàng.
(3) Thu nhập của người đi vay (Cash): CBTD phải xem xét dự án này có khả
năng tạo ra dòng tiền mặt đủ để hoàn trả nợ vay.
(4) Bảo đảm tiền vay (Collateral): CBTD phải xem xét giá trị ròng của tài
sản có tương ứng với giá trị vay hay không, đồng thời cũng phải chú trọng tới thời
gian sử dụng, tình trạng hiện tại và mức độ chuyên môn hóa thể hiện ở tài sản thế
chấp đó.
(5) Các điều kiện môi trường (Conditions): CBTD phải nhận biết được xu
hướng tiến triển của đơn vị với sự biến động của nền kinh tế trong và ngoài nước,
với các chính sách của nhà nước.
(6) Kiểm soát (Control): việc đo lường này tập trung vào những thay đổi về
quy định có ảnh hưởng bất lợi đối với người vay và cơ chế quản lý của TCTD.
 Kiểm tra tín dụng
- Tiến hành kiểm tra tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định - 30, 60,
90 ngày
- Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra thận trọng và
chi tiết, bảo đảm những khía cạnh quan trọng nhất được kiểm tra


14

- Kiểm tra các thường xuyên các khoản tín dụng lớn
- Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng có vấn đề
- Kiểm tra những ngành nghề có dấu hiệu suy thoái
• Mô hình định lượng:

Đối với TCTD vì hoạt động tín dụng bao gồm cho vay trung dài hạn, cho vay
ngắn hạn, cho vay tiêu dùng... nên có thể kết hợp nhiều như mô hình xếp hạng của
Moody’s và Standard & Poor’s, mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng, mô hình điểm
số Z. Tuy nhiên đối với Quỹ ĐTPT địa phương chỉ có thể áp dụng mô hình điểm số
Z (Z - Credit scoring model). Đây là mô hình do E.I. Altman dùng để cho điểm tín
dụng đối với các DN vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân
loại RRTD đối với người đi vay và phụ thuộc vào:
- Trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
- Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của
người vay trong quá khứ. Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0,6 X4 + 1,0 X5

(1.1)

Trong đó,
X1 = Hệ số vốn lưu động/ tổng tài sản
X2 = Hệ số lãi chưa phân phối/ tổng tài sản
X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi/ tổng tài sản
X4 = Hệ số giá thị trường của tổng vốn sở hữu/ giá trị hạch toán của tổng nợ
X5 = Hệ số doanh thu/ tổng tài sản
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi trị số Z
thấp hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
Z < 1,81

: khách hàng có khả năng rủi ro cao

1,81 < Z < 3

: Không xác định được


Z>3

: Khách hàng không có khả năng vỡ nợ

Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp
hơn 1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ RRTD cao.


15

Mô hình điểm số Z có kỹ thuật đo lường tương đối đơn giản. Tuy nhiên mô
hình này chỉ cho phép phân loại nhóm khách hàng vay có rủi ro và không có rủi ro.
Trong khi đó, thực tế mức độ RRTD tiềm năng của mỗi khách hàng là khác nhau.
Vả lại, yếu tố thị trường cũng không được xét đến, đặc biệt là khi các điều kiện kinh
doanh cũng như điều kiện thị trường tài chính đang thay đổi liên tục như hiện nay.
Và có các nhân tố quan trọng nhưng cũng không được xét đến như: danh tiếng của
khách hàng mối quan hệ lâu dài với TCTD, …. sẽ làm cho mô hình điểm số Z có
những hạn chế nhất định.
1.2.3.2. Xây dựng kế hoạch tác nghiệp quản lý rủi ro tín dụng
- Xây dựng kế hoạch phòng chống rủi ro:
+ Xây dựng phương hướng và kế hoạch phòng chống rủi ro nhằm vào dự
đoán xác định rủi ro có thể xảy ra đến đâu, trong điều kiện nào, nguyên nhân dẫn
đến rủi ro, hậu quả ra sao…
+ Phương hướng tổ chức phòng chống rủi ro có khoa học nhằm chỉ ra những
mục tiêu cụ thể cần đạt được, ngưỡng an toàn, mức độ sai sót có thể chấp nhận được.
+ Xây dựng các chương trình nghiệp vụ, cơ cấu kiểm soát phòng chống rủi
ro, phân quyền hạn và trách nhiệm cho từng thành viên, lựa chọn những công cụ kỹ
thuật phòng chống rủi ro, xử lý rủi ro và giải quyết hậu quả do rủi ro gây ra 1 cách
nghiêm túc.
- Quy trình, quy chế, tiêu chuẩn quản lý rủi ro tín dụng:

Hầu hết các NHTM đều xây dựng cho mình một quy trình tín dụng cụ thể
bao gồm nhiều bước khác nhau với kết quả cụ thể của từng bước đi. Quy trình tín
dụng phải nêu rõ được tất cả các bước tác nghiệp cũng như kết quả của những bước
tác nghiệp, bao gồm các bước: Thẩm định cho vay, ra quyết định cho vay, giải
ngân, theo dõi sau cho vay, giám sát toàn bộ quá trình cho vay, theo dõi đặc biệt
một số khoản cho vay, xử lý các món vay có vấn đề.
Một quy trình cấp tín dụng được xem là đạt yêu cầu khi ở mỗi bước đi có các
nội dung cụ thể đó là: Nguyên tắc thực hiện; Trình độ thực hiện; Trách nhiệm và
nhiệm vụ cụ thể của các thành viên tham gia.


16

- Xây dựng bộ máy quản lý tín dụng:
Bộ máy quản lý tín dụng được tổ chức tốt là một trong những phương thức
quản lý rủi ro hiệu quả.
- Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng:
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ thường được xây dựng theo nguyên tắc
chấm điểm trên cơ sở các chỉ số tài chính kết hợp với yếu tố phi tài chính của khách
hàng nhằm lượng hóa các rủi ro tín dụng mà NHTM sẽ phải đối mặt.
- Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro:
Đây là công việc không thể thiếu được trong quản lý rủi ro tín dụng của cá
NHTM sau khi món vay đã được thực hiện. Việc phân loại này giúp cho các
NHTM đánh giá đúng chất lượng tín dụng của các khoản vay đồng thời giúp
ngân hàng chủ động đối phó với những rủi ro tín dụng nếu xảy ra trên cơ sở mức
dự phòng đã trích lập.
Các NHTM Việt Nam hiện nay đang thực hiện phân loại và trích lập dự
phòng rủi ro theo quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005. Theo quy
định này, các khoản cho vay của TCTD được phân chia thành 05 nhóm:
Nợ đủ tiêu chuẩn (Nhóm 1): Nợ trong hạn được đánh giá là có khả năng thu

hồi gốc và lãi.
Nợ cần chú ý (Nhóm 2): Nợ quá hạn dưới 90 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả
nợ trong hạn cợ cơ cấu.
Nợ dưới tiêu chuẩn (Nhóm 3): Nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày, nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày.
Nợ nghi ngờ (Nhóm 4) Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày, nợ có cơ cấu
lại thời hạn trả nợ từ 90 ngày đến 180 ngày.
Nợ có khả năng mất vốn(nhóm 5): Nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ khoanh,
nợ cơ cấu lại quá hạn trên 180 ngày.
Trên cơ sở phân loại như trên, tỷ lệ trích lập ứng cho các khoản nợ là: 0%,
5%; 20%; 50%;100%. Ngoài ra các TCTD còn thực hiện trích lập và duy trì dự
phòng chung bằng 0,75 % tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4.


17

1.2.3.3. Xây dựng chính sách quản lý rủi ro tín dụng
Hiện nay, các NHTM xây dựng khối quản lý rủi ro chịu trách nhiệm kiểm
soát tất cả các rủi ro tín dụng và các rủi ro khác của Ngân hàng. Khối quản lý rủi ro
có chức năng mang tính chất hỗ trợ quản lý rủi ro, xây dựng các chính sách, quy
trình, xếp hạng tín dụng , thông tin, xử lý nợ…..
Xây dựng hệ thống khung pháp lý về quản lý rủi ro: chính sách quản lý rủi
ro, chính sách trong lĩnh vực tín dụng, thị trường và tác nghiệp.
Xây dựng, tham gia xây dựng và giám sát các quy định về giới hạn, hạn mức,
hạn mức nội bộ, hạn mức đối với chủ thể bên ngoài.
Xây dựng quy trình rà soát, đánh giá rủi ro cho các phần nghiệp vụ đảm bảo
được rà soát, đánh giá bằng một quy trình thống nhất.
Sử dụng các mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ để đánh giá tín dụng, khả năng
hồi vốn của khách hàng để đưa ra các định giá cho vay một cách thích hợp nhất.
Thiết lập bộ phận rà soát xếp hạng tín dụng: Bộ phận này sẽ ra soát các mức

xếp hạng được áp dụng cho tất cả các khoản tín dụng và báo cáo về yêu cầu xếp
hạng khoản vay và yêu cầu về trích lập dự phòng.
Thiết lập bộ phận báo cáo quản lý danh mục: Bộ phận này giám sát chất
lượng và thành phần danh mục cho vay, đặc biệt là tìm kiếm các khu vực nhạy cảm
hoặc có khả năng tập trung rủi ro.
Hỗ trợ hệ thống rủi ro: Khối quản lý rủi ro cần có luồng thông tin từ hệ
thống cho phép giám sát và đánh giá các rủi ro của ngân hàng. Bộ phận này phối
hợp với công nghệ thông tin để đảm bảo rằng khối quản lý rủi ro có được các
thông tin cần thiết.
1.2.3.4. Kiểm soát rủi ro tín dụng
Hiện nay các NHTM trên thế giới rất coi trọng công tác kiểm soát rủi ro tín
dụng và xử lý nợ. Kiểm soát rủi ro tín dụng bao gồm kiểm soát trước khi cho vay,
trong khi cho vay và sau khi cho vay. Qúa trình này chiếm xấp xỉ 35% nhân lực của
ngân hàng.
Trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng, một trong những khả
năng để xảy ra rủi ro tín dụng chính là rủi ro đạo đức. Bởi vậy, ngân hàng cần có


18

những cơ chế tiến hành kiểm tra, kiểm soát các khoản vay sau khi tiến hành giải
ngân. Việc kiểm tra, kiểm soát không chỉ giúp các nhà quản lý ngân hàng phát hiện
ra các khoản cho vay có vấn đề nhanh hơn mà còn giúp xác định được vấn đề các
cán bộ tín dụng có tuân thủ đúng chính sách cho vay đối với khách hàng hay không.
Kiểm soát trước khi cho vay bao gồm: Kiểm soát quá trình thiết lập chính
sách, thủ tục, quy trình cho vay. Kiểm tra quá trình lập hồ sơ vay vốn và thẩm định.
Cán bộ tín dụng thực hiện đối chiếu với quy định để kiểm tra tính đầy đủ, hợp pháp
của hồ sơ vay vốn, kiểm tra tính chính xác của các số liệu tính toán và thẩm định
trên hồ sơ tín dụng.
Kiểm soát trong khi cho vay: Kiểm soát một lần nữa hợp đồng tín dụng;

kiểm tra quá trình giải ngân bao gồm đối chiếu xác nhận của khách hàng với số liệu
tại ngân hàng để từ đó phát hiện các trường hợp vay hộ..
Kiểm soát sau khi cho vay: Kiểm soát việc đôn đốc thu hồi nợ, kiểm tra việc
sử dụng vốn, hiệu quả sử dụng, sự lưu chuyển của dòng tiền vay…
Tham gia quá trình này cần có cơ quan thanh tra NHTW và bộ phận kiểm soát
của ngân hàng (bao gồm có bộ phận kiểm soát, kiểm tra nội bộ, quản lý tín dụng),
ngoài ra cần có sự tham gia của các cơ chế giám sát bên ngoài như các cơ quan kiểm
toán độc lập, ủy ban giám sát tài chính và đặc biệt là sự giám sát của thị trường.
Nếu khoản nợ bị xét vào diện quá hạn và có vấn đề, hoạt động kiểm soát sau
khi vay còn có hoạt động xử lý nợ.
Khi một khoản vay bị xếp xuống nhóm nợ xấu, dựa trên việc đánh giá toàn
diện về khách hàng cũng như tình hình môi trường kinh tế xung quanh mà Ngân
hàng có những cách thức xử lý khác nhau:
- Hoặc là tiếp tục cho khách hàng vay thêm vốn, gia hạn nợ cũ đẻ khách
hàng khôi phục sản xuất kinh doanh.
- Hoặc là thực hiện ngay các thủ tục thu hồi nợ như bán tài sản đảm bảo theo
các quy định của Nhà nước để thu hồi nợ và lãi phát sinh.
Ngoài ra, trong thực tế để tách bạch giữa điều hành kinh doanh hàng ngày,
công tác xử lý thu hồi nợ xấu hoặc xử lý số liệu tài chính vì nhiều mục đích khác


19

nhau nên các NHTM có thể xử dụng dự phòng rủi ro đẻ xử lý nợ. Tuy nhiên, về bản
chất, hình thức sử dụng dự phòng sẽ làm tăng chi phí và ảnh hưởng đến kết quả
kinh doanh của ngân hàng.
Xét một cách tổng thể, hoạt động quản lý rủi ro tín dụng cần tuân theo quy
trình chặt chẽ và phân bổ nguồn lực hợp lý. Việc tuân thủ tốt quy trình này sẽ giúp
cho các NHTM Việt Nam giảm thiểu được rủi ro ở mức thấp nhất, mang lại hiệu
quả cao nhất.

1.2.3.5. Tài trợ rủi ro tín dụng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng phải đối mặt với những tổn thất vật
chất rất lớn ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Để
giảm thiểu những tác động tiêu cực từ tổn thất tín dụng, các ngân hàng thương mại
cần phải thường xuyên thực hiện tài trợ tổn thất tín dụng bao gồm:
- Trích lập dự phòng rủi ro: Tất cả các quốc gia trên thế giới đều có yêu cầu
các ngân hàng thương mại phải định kỳ đánh gia, phân loại chất lượng tín dụng trên
cơ sở đó dự ước tổn thất và trích lập dự phòng rủi ro. Qũy dự phòng rủi ro được sử
dụng để bù đắp cho các tổn thất tín dụng nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của
ngân hàng thương mại khi xảy ra rủi ro, đảm bảo khả năng thanh khoản.
- Hoán đổi rủi ro: Đối với một số loại hình rủi ro tín dụng đặc thù, một số
ngân hàng thương mại có thể áp dụng các chính sách chuyển đẩy, chia sẻ rủi ro
thông qua các công cụ phái sinh như: các hợp đồng hoán đổi rủi ro, bảo hiểm hoặc
tái bảo hiểm rủi ro tín dụng.
1.2.4. Các nguyên tắc quản lý rủi ro tín dụng
* Nguyên tắc của Basel về quản lý rủi ro tín dụng
Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng là một ủy ban bao gồm các chuyên gia
giám sát hoạt đọng ngân hàng được thành lập vào năm 1975 bởi các Thống đốc
ngân hàng Trung ương của nhóm G10 (Bỉ, Canada, Đức, Ý, Nhật Bản, Hà Lan,
Thụy Điển, Vương quốc Anh, và Mỹ). Ủy ban tổ chức họp thường niên tại trụ sở
Ngân hàng thanh toán Quốc tế (BIS) tại Wassington (Mỹ) hoặc Thành phố Basel
(Thụy sĩ).


20

Ủy ban Basel đã ban hành 17 nguyên tắc trong quản lý rủi ro tín dụng đảm
bảo tính hiệu quả và an toàn trong hoạt động cấp tín dụng, các nguyên tắc này tập
trung vào các nội dung cơ bản sau đây;
- Xây dựng môi trường tín dụng thích hợp (3 nguyên tắc);

Trong nội dung này, Ủy ban Basel yêu cầu Hội đồng quản trị phải thực hiện
phê duyệt định kỳ chính sách rủi ro tín dụng, xem xét rủi ro tín dụng và xây dựng
một chiến lược xuyên suốt trong hoạt động tín dụng của ngân hàng (tỷ lệ nợ xấu,
mức độ chấp nhận rủi ro …). Trên cở sở này, Ban Tổng Giám đốc có trách nhiệm
thực thi các định hướng này và phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát hiện, đo
lường, theo dõi và kiểm soát nợ xấu trong mọi hoạt động, ở cấp độ của từng tài
khoản tín dụng và cả danh mục đầu tư. Các ngân hàng cần xác định và quản lý rủi
ro tín dụng trong mọi sản phẩm và hoạt động của mình, đặc biệt là các sản phẩm
mới phải có sự phê duyệt của Hội đồng quản trị hoặc Ủy ban của Hội đồng quản trị.
-

Thực hiện cấp tín dụng lành mạnh (4 nguyên tắc):

Các ngân hàng cần xác định tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh (thị trường mục
tiêu, đối tượng khách hàng, điều khoản và điều kiện cấp tín dụng..) . Cần xây dựng
các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng vay vốn và nhóm khách hàng vay
vốn để tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau nhưng có thể so sánh và theo
dõi trên cơ sở xếp hạng tín dụng nội bộ đối với khách hàng trong các lĩnh vực,
ngành nghề khác nhau. Ngân hàng phải có quy trình rõ ràng trong phê duyệt tín
dụng, các sửa đổi tín dụng với sự tham gia của các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân
tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm rạch ròi của các
bộ phận tham gia, đồng thời cần phát triển đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro tín dụng
có kinh nghiệm, kiến thức nhằm đưa ra các nhận định thận trọng trong việc đánh
giá, phê duyệt và quản lý rủi ro tín dụng. Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên
cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên, đặc biệt cần có sự cẩn trọng và đánh giá
hợp lý đối với các khoản tín dụng cấp cho khách hàng có quan hệ.
-

Duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù hợp (10


nguyên tắc):
Các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với các danh
mục đầu tư có rủi ro tín dụng, bao gồm cập nhật hồ sơ tín dụng, thu thập thông tin tài


21

chính hiện hành, dự thảo các văn bản như hợp đồng vay… theo quy mô và mức độ
phức tạp của ngân hàng. Đồng thời hệ thống này phải có khả năng nắm bắt và kiểm
soát tình hình tài chính, sự tuân thủ các giao kèo của khách hàng… để phát hiện kịp
thời những khoản vay có vấn đề. Ngân hàng cần có hệ thống khắc phục sớm đối với
các khoản tín dụng xấu, quản lý các khoản tín dụng có vấn đề. Các chính sách rủi ro
tín dụng của ngân hàng cần chỉ rõ cách thức quản lý các khoản tín dụng có vấn đề.
Trách nhiệm của các khoản tín dụng này có thể giao cho bộ phận tiếp thị hay bộ phận
xử lý nợ hoặc kết hợp cả hai bộ phận tùy theo quy mô và bản chất mỗi khoản tín
dụng. Uỷ ban Basel cũng khuyến khich các ngân hàng phát triển và xây dựng hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong quản lý rủi ro tín dụng, giúp phân biệt các mức
độ rủi ro tín dụng trong các tài sản có tiềm năng rủi ro của ngân hàng.
Như vậy trong mô hình quản lý rủi ro tín dụng, nguyên tắc Basel có một số
điểm cơ bản sau:
- Phân tách bộ máy cấp tín dụng theo các bộ phận tiếp thị, bộ phận phân
tích tín dụng và bộ phận phê duyệt tín dụng cũng như trách nhiệm của các bộ
phận tham gia.
- Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý rủi ro tín dụng.
- Xây dựng một hệ thống quản lý và cập nhật thông tin hiệu quả để duy trì
một quá trình đo lường, theo dõi tín dụng thích hợp, đáp ứng yêu cầu thẩm định và
quản lý rủi ro tín dụng.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại
Có nhiều nhân tố tác động đến QLRRTD tại các ngân hàng thương mại. Tuy
nhiên những nhân tố cơ bản, quan trọng tác động mạnh mẽ và trực tiếp nhất bao gồm:

a/. Cơ chế, chính sách của Nhà nước
Đây là nhân tố đặc biệt quan trọng, có tác động tới chất lượng tín dụng và
mức độ rủi ro của nguồn vốn cho vay
- Môi trường pháp lý đồng bộ, đầy đủ, thống nhất và ổn định sẽ tác dụng rất
lớn đến chất lượng công tác tín dụng. Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước, pháp luật trở thành bộ phận không thể thiếu. Một hệ thống pháp luật
đầy đủ, chuẩn tắc và đồng bộ trước hết sẽ tạo niềm tin được bảo hộ chính đáng


22

trong quá trình đầu tư, đồng thời giúp các DN cũng như các NHTM hoạt động
thuận lợi, giảm thiểu rủi ro.
- Môi trường kinh tế - xã hội là tổng hoà các mối quan hệ về kinh tế - xã hội
tác động lên hoạt động của DN, đó chính là các cơ chế chính sách của Nhà nước đề
ra trong từng thời kỳ để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhằm đạt được
những mục tiêu đề ra trong tương lai. Môi trường kinh tế - xã hội ổn định sẽ tạo
điều kiện lưu thông hàng hoá, thúc đẩy sản xuất phát triển, do đó hoạt động tín dụng
sẽ thuận lợi hơn. Nền kinh tế ổn định tăng trưởng tốt giúp cho hoạt động kinh doanh
có hiệu quả và khả năng hoàn trả vốn vay cao hơn, tác động tới mức độ rủi ro tín
dụng của NHTM.
b/. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội địa phương:
 Điều kiện kinh tế xã hội: Đây cũng là một nhân tố quan trọng có tác động
trực tiếp đến công tác QLRRTD. Các NHTM ở từng địa phương phải tập trung cho
một số lĩnh vực khuyến khích đầu tư của Nhà nước phê duyệt trong từng thời kỳ,
phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Do đó
điều kiện kinh tế xã hội của địa phương có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh
doanh của DN và sẽ có ảnh hưởng liên đới trong công tác QLRRTD của NHTM.
 Môi trường chính trị: có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động và phát triển
của bất kỳ DN, tổ chức kinh tế xã hội nào. Trong tình hình chính trị không ổn định,

thì không chỉ riêng DN sản xuất - kinh doanh gặp khó khăn mà nó cũng gây ra
những rủi ro cho NHTM.
 Ngoài ra, các nguyên nhân bất khả kháng mang tính khách quan như
thiên tai, chiến tranh, hoả hoạn,… có thể làm thiệt hại đến tài sản của người vay,
làm họ mất hoặc giảm khả năng thanh toán gây rủi ro cho NHTM.
c/. Từ phía tổ chức tín dụng:
 Năng lực thẩm định và giám sát tín dụng: Năng lực thẩm định của CBTD
là yếu tố quyết định hiệu quả của công tác quản lý RRTD trong hoạt động cho vay.
Năng lực thẩm định của CBTD thể hiện ở năng lực phân tích tài chính và xử lý các
thông tin tín dụng. Năng lực thẩm định cao sẽ loại trừ được sai lệch trong việc cung
cấp thông tin cũng như khả năng sử dụng vốn vay của khách hàng, giảm được rủi ro
trong tương lai của khoản vay.


23

Năng lực giám sát tín dụng: giám sát tín dụng nhằm đảm bảo chất lượng tín
dụng như ban đầu dự đoán, hạn chế xảy ra tình trạng rủi ro trong tín dụng. Theo dõi
sát sao và chặt chẽ việc giải ngân và sử dụng tiền vay là biện pháp quan trọng để đảm
bảo việc sử dụng vốn đầu tư đúng mục đích, ngăn ngừa nợ quá hạn, nợ khó đòi.
 Tổ chức bộ máy và quy trình nghiệp vụ: Hoạt động cho vay có đạt hiệu
quả cao, RRTD có được hạn chế hay không phụ thuộc rất lớn vào tổ chức bộ máy,
quy trình nghiệp vụ. Việc quy định rõ quyền hạn trách nhiệm của từng khâu, từng bộ
phận, mối quan hệ của từng bộ phận sẽ có tác dụng quan trọng trong quá trình thực
hiện từ thẩm định đến khi thiết lập quan hệ tín dụng và thu hồi vốn gốc, lãi. Quy trình
quản lý tín dụng được bố trí khoa học, rõ ràng sẽ góp phần quan trọng làm nâng cao
chất lượng của thông tin tới cấp ra quyết định cho vay, giảm các yếu tố sai lệch thông
tin và là cơ sở để nâng cao chất lượng tín dụng, từ đó hạn chế RRTD.
 Công nghệ thông tin: Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
của Việt Nam, công nghệ thông tin có tác động nhiều đến công tác quản lý RRTD.

Công nghệ thông tin hiện đại cung cấp cho người làm công tác quản lý RRTD
những công cụ hữu hiệu từ việc giúp nhanh chóng phát hiện sớm các rủi ro có thể
xảy ra đến việc cập nhật các thông tin cần thiết. Với hệ thống thông tin hiện đại đảm
bảo cho CBTD có thể thu thập, phân tích và xử lý những thông tin liên quan đến
hoạt động cho vay, đặc biệt là trong việc đánh giá RRTD. Với những tiện lợi về thời
gian trong việc cập nhật và phân tích thông tin, công nghệ hiện đại giúp các NHTM
đưa ra các biện pháp phù hợp và hạn chế được RRTD.
d/. Từ phía khách hàng:
- Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ vay: Khi các
doanh nghiệp, cá nhân đặt vấn đề vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh
cụ thể, hiệu quả, khả thi. Tuy nhiên, rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ
vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm cách
tạo ra các phương án hiệu quả, khả thi, có độ rủi ro thấp nhằm mục đích vay được tiền
của ngân hàng. Và số tiền vay đó được đưa vào sử dụng mục đích thực của họ. Cộng
với việc thiếu kiểm tra giám sát sau khi vay vốn của ngân hàng, việc đầu tư thực sự gặp


24

rủi làm người vay không thích ứng được dẫn đến thua lỗ, khả năng trả nợ vay ngân
hàng tất yếu sẽ bị suy giảm, hoặc mất khả năng trả nợ vay. Trong trường hợp khác,
người vay kinh doanh vẫn có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Họ
chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
- Khả năng quản lý kinh doanh kém: Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân
hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật
chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ
máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh
phình ra quá to so với tư duy quản lý khiến người quản lý không có khả năng tính
toán được hết những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc
phục khó khăn. Điều này dẫn đến sự thua lỗ, phá sản của các phương án kinh doanh

đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế.
- Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch: Điều này xảy
ra khi các doanh nghiệp quá lạm dụng các khoản vốn chiếm dụng từ các đối tác
kinh doanh và vốn vay ngân hàng vào hoạt động kinh doanh của mình, khiến tỷ lệ
nợ so với vốn tự có cao. Cộng với việc các doanh nghiệp không tuân thủ nghiêm
chỉnh và trung thực nguyên tắc ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế
toán. Do đó, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng chỉ
mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân
tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp sẽ
thiếu tính thực tế và xác thực. Trong trường hợp như vậy, khả năng xảy ra rủi ro tín
dụng sẽ tăng cao.
- Khách hàng chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng với hy vọng chiếm dụng
được vốn của ngân hàng càng nhiều càng tốt.
1.3. Kinh nghiệm quản lý rủi ro của một số ngân hàng trong
nước và nước ngoài
1.3.1. Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng của một số ngân hàng nước ngoài
* Kinh nghiệm xây dựng mô hình quản lý rủi ro tín dụng:
Mô hình quản lý rủi ro tín dụng được sử dụng hiệu quả tại một số ngân hàng


25

có tiềm lực trên thế giới như ANZ, Citibank khi mà các điều kiện bên ngoài và bên
trong được đảm bảo toàn diện. Tại các nước như Mỹ, Úc… thị trường tài chính phát
triển mạnh, hệ thống luật pháp rất nghiêm ngặt, hành lang pháp lý đồng bộ và đặc
biệt có quy định các chế tài chặt chẽ về các vấn đề công bố thông tin, theo đó các cổ
đông có thể giám sát chặt chẽ ngân hàng. Hầu hết các chi nhánh của ngân hàng
ANZ, Citibank đều kết nối hệ thống với ngân hàng Hội sở chính trên nền tảng công
nghệ cao, có hệ thống xử lý dữ liệu tự động hóa, tính bảo mật cao, xử lý thông tin
tập trung. Lực lượng nhân sự tham gia quản lý rủi ro phải có đầy đủ các điều kiện:

Kiến thức và nhận thức về quản lý rủi ro, am hiểu về công nghệ và kỹ thuật đo
lường, am hiểu vê luật pháp và chế độ công bố thông tin; Cán bộ kiểm tra nội bộ am
hiểu về kế toán và quản lý rủi ro.
Trên cơ sở đó, các ngân hàng ANZ, Citibank phân chia hoạt động tín dụng
thành 3 bộ phận: Bộ phận kinh doanh và quan hệ khách hàng (Business Unit); Bộ
phận quản lý rủi ro (Relative Group); Bộ phận quản lý nợ (Debt Deparment). Hệ
thống thông tin tại Hội sở chính, các khoản vay lớn thì được quyết định cuối cùng
bởi Uỷ ban quản lý rủi ro và hội đồng quản lý rủi ro. Citibank và ANZ đều áp dụng
mô hình đo lường tín dụng nội bộ và mô hình Raroc. Theo ANZ phương pháp
Raroc đảm bảo rằng một khoản vay chỉ được thông qua khi khoản vay đem lại giá
trị cho cổ đông. Nếu Raroc của khoản vay thấp hơn ROE thì khoản vay sẽ bị từ
chối, nếu lớn hơn sẽ được thông qua.
* Hoàn thiện hệ thống pháp lý để vận hành mô hình:
Để mô hình quản lý rủi ro vận hành tốt, các quy định của thị trường phải
được quy định một cách rõ ràng, tạo sự ổn định lâu dài, khuyến khích được sự tham
gia của thị trường công chúng. ANZ vận hành được mô hình tốt do phát triển trong
một môi trường luật pháp công khai ổn định, các chuẩn mực kế toán về hoạt động
tín dụng, dự phòng rủi ro, cơ chế quản lý nợ được kiện toàn.
* Quản trị hệ thống thông tin tín dụng và công nghệ thông tin:
Hệ thống thông tin tín dụng được tổ chức tốt là công cụ vô cùng đắc lực cho
công tác thẩm định khách hàng vay, giúp hạn chế được rủi ro ngay từ khâu thẩm


×