Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Máy làm đất cày lưỡi diệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (700.38 KB, 15 trang )

Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

MÁY LÀM ĐẤT - CÀY LƯỠI DIỆP
A. Mở đầu
So với các nước trên thế giới thì nền nước ta vẫn là nước nông – công
nghiệp, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu. Nước ta với vị trí hàng thứ hai thế giới
về xuất khẩu lương thực, đặc biệt là lúa gạo.
Và ngày nay với nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu của người dân
ngày càng tăng lên, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong trồng trọt là rất
cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người. Không chỉ trong
ngành công nghiệp mà bngay cả ngành nông nghiệp cũng ứng dụng nhiều loại
máy móc tiến bộ phục vụ trong nông nghiệp: máy làm đất (máy cày, máy xới,
…), máy gieo sạ (máy sạ hàng, máy cấy lúa,…), máy chăm sóc (máy phun
thuốc, máy bón phân,…,), máy thu hoạch (máy gặt đập liên hợp, máy tuốt lúa,
…),…
Cùng với sự phát triển khoa học kỹ thuật trong nước và thế giới các loại
máy móc nói trên ngày càng được hoàn thiện hơn đáp ứng nhu cầu sản xuất của
người nông dân. Trong sản xuất nông nghiệp, một trong những khâu quan trọng
không thể thiếu đó là làm đất. Muốn cho nông sản đạt năng suất cao thì khâu
đầu tiên là đất trồng phải được làm tơi xốp, đảm bảo độ thông thoáng,… Để hỗ
trợ cho việc làm đất trồng trọt các nhà khoa học đã chế tạo ra rất nhiều loại máy
phục vụ cho việc làm đất: các loại máy cày, phay đất, máy xới, bánh lồng,…
Sau đây tôi xin chọn một trong những loại máy phục vụ cho công tác làm
đất đó là cày lưỡi diệp để nghiên cứu. Cày lưỡi diệp có cấu tạo như thế nào?
Nguyên tắc hoạt động ra sao? Và nó được sử dụng như thế nào? Để tìhiểu những
vấn đề vừa nêu tôi đã nghiên cứu và tìm hiểu dưới đây. Do kiến thức còn hạn
hẹp nên bài sẽ có nhiều thiếu sót, nhờ thầy và các bạn góp ý thêm.

GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài


Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp

1


Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

B. Nội dung
I. Những biện pháp an toàn trong sử dụng liên hợp máy làm đất
1. Qui tắc và yêu cầu an toàn chung đối với liên hợp máy làm đất
Người lái máy kéo phải nắm vững và thực hiện nghiêm chỉnh những quy
tắc và yêu cầu chung về an toàn lao động trong khi làm việc với liên hợp máy:
- Chỉ liên hợp các máy canh tác với loại máy kéo phù hợp theo giới thiệu
của nhà chế tạo;
- Khi treo máy canh tác, cấm chui vào gầm máy để sửa chữa hoặc điều
chỉnh;
- Khi nghỉ giải lao, không để máy canh tác ở vị trí nâng, không được ngồi
dưới máy đang ở vị trí nâng để đề phòng máy canh tác không định vị được chắc;
- Khi đang làm việc, cấm người đứng hoặc ngồi trên dàn móc nối của máy
kéo hay máy nông nghiệp, các máy đang ở tư thế treo, đồng thời cũng
không được đứng bên ngoài buồng lái;
- Khi ngồi trong buồng lái, trong khi động cơ đang làm việc và đã gài hệ
thống thủy lực phải tránh va chạm vào các cần điều khiển hệ thống thủy lực;
- Khi thay lưỡi cày, thân cày, các lưỡi xới, siết chặt bu lông - đai ốc chỉ
được làm khi động cơ đã tắt máy, tháo chốt móc nối máy nông nghiệp khỏi máy
kéo;
- Làm sạch đất bám bẩn, các cọng cây mắc trên các bề mặt thân cày, lưỡi
cày, lưỡi xới và các bộ phận làm việc khác trên các khoảnh đất quay vòng đầu

bờ;
- Khi thời tiết khô ráo, có gió người lái máy kéo phải đeo kính bảo hộ;
- Khi liên hợp máy quay vòng, các bộ phận làm việc đều phải chuyển
sang thế vận chuyển (trừ những máy có chức năng làm việc ở đầu bờ theo nhà
sản xuất quy định).
2. Các biện pháp an toàn chung sử dụng liên hợp máy làm đất
Làm đất với mục đích nâng cao độ phì của đất, tạo điều kiện thuận lợi cho
cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, đạt sản lượng cao.
Nhiệm vụ cụ thể của việc làm đất là:
- Làm tơi nhỏ đất đối với ruộng khô, làm nhuyễn lớp đất trồng trọt ở bề
mặt đối với ruộng nước;
- Làm đất còn phải làm nhiệm vụ diệt trừ cỏ dại và sâu bệnh;
- Chuẩn bị tốt cho việc gieo trồng như: làm phẳng mặt ruộng, xẻ rãnh, vun
luống.
GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài
Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp

2


Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

Cày cần đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật sau:
- Đảm bảo độ cày sâu;
- Đảm bảo lật đất vùi cỏ hoàn toàn, đúng độ sâu.
- Mặt đứng và đáy luống bằng phẳng;
- Không lõi;
- Lực cản ít, tiết kiệm nhiên liệu, có năng suất cao.

2.1. Các biện pháp an toàn trong sử dụng liên hợp cày
Nhiệm vụ của cày là cày một lớp đất ở mặt đồng có độ sâu từ 10 – 35 cm.
Thỏi đất được cày có thể bị lật úp hoặc không lật, có thể được làm vỡ sơ
bộ hay không. Trong nông nghiệp nước ta, phổ biến vẫn là cày lật đất, chủ yếu
sử dụng cày treo loại lưỡi diệp và loại đĩa chảo.
Một số loại cày phổ biến:
- Loại cày treo liên hợp với máy kéo công suất 48 – 80 Hp (ΠH – 3-35;
Cày lưỡi diệp xá nhỏ CT-5-25; CT-4-25)
- Loại cày treo liên hợp với máy kéo 4 bánh công suất 18 – 35 Hp:
- Loại cày treo liên hợp với máy kéo 2 bánh công suất 8 – 15 Hp:

GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài
Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp

3


Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

II. Cấu tạo cày lưỡi diệp

Hình 1: Cày treo 3 thân
GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài
Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp

4



Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

Cày lưỡi diệp có cấu tạo gồm các bộ phận sau:
- Thân cày chính.
- Thân cày phụ cắt lớp đất mặt;
- Dao cày cắt thành luống;
- Thân đào sâu, thân làm tơi đáy luống.
1. Thân cày chính
Thân cày chính có nhiệm vụ cắt đáy luống, nâng thỏi đất lên, chuyển sang
1 bên và lật úp lại.
Thân cày chính gồm có: lưỡi cày, diệp cày, thanh tựa đứng và trụ cày.

Hình 2: Quá trình và kỹ thuật cày

GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài
Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp

5


Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

Hình 3: Thân cày chính
1. Lưỡi

2. Diệp


3. Thanh tựa đồng

4. Trụ cày

a. Lưỡi cày:
Lưỡi cày dùng để cắt các thỏi đất và nâng lên diệp. Người ta thường dùng
lưỡi hình thang và lưỡi mũi đục.
- Lưỡi hình thang dùng trong các cày làm việc ở loại đất nhẹ và trung bình
nhẹ hoặc lưỡi thân cày phụ. Có lực cản riêng 3 – 5 kg/cm 2. Mặt sau của lưỡi dọc
theo cạnh sắt có phần thép bồi để có thể đàn ra lúc bị mòn.
- Lưỡi mũi đục: dùng trong các cày làm việc ở đất trung bình và nặng.
Mũi đục có phần nhọn dài ở mũi để ăn sâu vào đáy luống 10 mm và thành luống
5 – 10 mm để giữ cho cây không bị trượt, mũi đục thường mòn nhanh, nên ở
một số cày người ta chế tạo riêng để thay thế.
- Lưỡi cày cắt đáy thỏi đất theo nguyên tắc cắt trượt, nên cạnh sắt đặt
nghiêng so với hướng chuyển động một góc khoảng 35 – 40 o ở các cày làm việc
bình thường và 30 – 35o ở những cày làm việc ở tốc độ cao (8 – 10 km/h).

GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài
Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp

6


Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

Hình 4a. Lưỡi cày hình thang


Hình 4 b. Lưỡi cày mũi đục
Mép cạnh sắc lưỡi 0,5 – 1 mm, và góc mài 20 – 40o.
Bề rộng lưỡi cày: ở các cày hiện có 114 mm, với những thân cày có bề
rộng 25 cm, 122 mm với những thân cày có bề rộng 30 – 35 – 40 cm, gồm hai
phần: phần dưới thẳng và phần trên cong.
Lưỡi cày chế tạo bằng thép tốt và được nhiệt luyện kỹ. Dọc theo cạnh sắc
được tôi kỹ hơn với bề rộng 20 – 35 – 40 mm tùy theo loại lưỡi và bề dày lớp tôi
1,7 mm.
Lực cản cắt của lưới chiếm phần lớn lực cản kéo cày (khoảng 50%) nên
phải giữ cho cạnh sắc được sắc. Sau khi làm việc khoảng 12 – 15 ha thì cần sửa
chữa bằng cách đàn phần thép dự trữ và nhiệt luyện ở nhiệt độ 800 – 1000o.
Để tăng khả năng chống mòn người ta nung nóng lưỡi ở nhiệt độ 800 –
820 và làm lạnh bằng nước có nhiệt độ 35 o. Để tránh ứng suất bên trong của
lưỡi người ta đốt cạnh sắc ở nhiệt độ 350o sau đó làm nguội bằng không khí.
o

GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài
Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp

7


Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

Người ta còn chế tạo loại lưỡi tự mài sắc bằng cách đắp lên mặt sau nó
một lớp hợp kim cứng. Khi làm việc mặt trên còn bị mòn nhanh, lớp hợp kim
đắp như một dạng răng cưa sẽ rất sắc.

b. Diệp cày
Diệp cày có nhiệm vụ nâng, tách, làm rạn vỡ và lật thỏi đất sang bên cạnh.
Diệp là bộ phận chính để thực hiện quá trình kỹ thuật cày.
Bề mặt diệp có dạng cong phức tạp, tùy thuộc vào tính chất đất đai mà
diệp có dạng khác nhau, trên bề mặt diệp chia làm hai phần: phần ngực diệp và
phần cánh. Ngực diệp có tác dụng nâng, làm tơi rạn và chuyển đến cánh diệp có
tác dụng lật úp thỏi đất. Những cánh diệp ngắn có thể lắp thêm phần đuôi diệp.
Dựa vào hình dáng của ngực và cánh ta có thể nhận biết diệp có khả năng
tơi vỡ nhiều hoặc lật nhiều.
Bề mặt diệp và lưỡi cày tạo thành bề mặt làm việc của thân cày. Do yêu
cầu làm đất người ta chia ra làm các dạng diệp cày như sau:
- Diệp cày hình trụ: bề mặt dạng diệp này có dạng mặt trị nằm ngang,
những đường sinh gầy nên bề mặt là những đường thẳng song song nhau và
nghiêng với thành luống một góc 45o. Dạng diệp cày này có khả năng làm tơi
đất tốt nhưng lật kém, thường được dùng ở những vùng đất cát, ít cỏ.
- Diệp cày á trụ: từ bề mặt á trụ tạo nên loại diệp cày này. Diệp đất thuộc
và diệp nửa xoắn. Mặt á trụ có đường sinh song song với mặt đáy luống, nhưng
góc của những đường sinh thay đổi theo mô quy luật nhất định.
- Diệp đất thuộc có ngực diệp cong hơn nhưng cánh ít xoắn hơn diệp nửa
xoắn. Diệp đất thuộc có khả năng làm tơi đất nhiều hơn lật, ngược lại diệp nửa
xoắn có khả năng lật nhiều hơn làm tơi.
- Diệp xoắn: bề mặt làm việc có dạng xoắn ốc được tạo nên bởi một
đường thẳng song song với mặt chuyển động theo quy luật xoắn ốc. Ngực diệp
này rất thoải do đó nâng được dễ dàng nhưng làm tơi kém. Cánh diệp xoắn
nhiều nên lật thỏi đất nhanh và triệt để.

GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài
Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp

8



Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

HÌnh 5: Một số dạng diệp cày
Diệp cày được chế tạo từ thép CT – 2 được thấm thân sâu 1,5 – 2,2 mm.
Người ta tạo cho diệp thành 3 lớp: hai lớp ngoài cứng, lớp giữa dẻo để tăng độ
bền của diệp lúc va chạm.
c. Thanh tựa đồng
Trong quá trình
làm việc dưới tác dụng
của lực cản đất, đuôi cày
có xu hướng quay về
phía đất chưa cày. Để
cho cày chuyển động
được thẳng, trên mỗi
thân cày lắp một thanh
tựa đồng tì đầu cuối vào
thành luống chống lại sự
xoay cày.
Thanh tựa đồng là
một tấm kim loại bề dài
và bề rộng tùy thuộc vào
kích thước thân cày và độ cày sâu.
Để thanh tựa đồng tì chặt vào thành luống và giảm độ ma sát, thanh tựa
đồng đặt nghiêng so với thành luống và đáy luống một góc khoảng 2 – 3 o. Đầu
GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài
Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp


9


Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

thanh tựa đồng chống mòn nên dùng thép tốt như MCT – 6, L 53, 45, 50. Ngoài
ra có thể đổi ngược cách lắp để có thể kéo dài thời gian làm việc.
Đối với thanh tựa đồng phần sau cùng chịu lực tải nặng nhất, chóng mòn
nhất. Vì thế đầu cuối thanh tựa đồng lắp thêm một gót cày bằng vật liệu chịu
mòn cao và có thể thay thế được.
d. Trụ cày
Lưỡi diệp và thanh tựa đồng được lắp trên trụ cày, tạo thành thân cày. Trụ
cày sẽ lắp vào khung cày. Có 2 loại trụ: trụ thấp và trụ cao.

Hình 6: Trụ cày
a. Trụ cày thấp

b. Trụ cày cao

Trụ thấp lắp vào các cày nhẹ. Trụ chỉ là một tấm thép uốn cong để lắp các
chi tiết lưỡi, diệp, thanh tựa đồng. Trụ lắp vào đầu uốn cong của thanh dọc
khung cày.
Trụ cao dùng trong khung cày phẳng làm việc ở đất trung bình và nặng
với công suất kéo lớn. Trụ rỗng có thể chế tạo bằng cách dập hay đúc.
* Yêu cầu kỹ thuật đối với sự lắp đúng thâm cày chính:
- Diệp lắp khít với lưỡi tạo thành bề mặt cong liên tục, khe hở cho phép
không quá 1 mm và chỉ cho phép lưỡi chênh cao hơn diệp không quá 1 mm.

GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài
Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp

10


Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

- Cạnh đồng của diệp và lưỡi nằm trong cùng một mặt phẳng. Điểm trên
của cạnh đồng nghiêng về phía luống không quá 10 mm.
- Khe hở của bộ giữa lưỡi và trụ không quá 3 mm, giữa diệp và trụ không
quá 3 mm ở phần giữa và 5 mm ở phần trên.
- Các đầu bulong không được nhô cao, cho phép chìm sâu so với bề mặt
thân cày và thanh tựa đồng không quá 1 mm.
- Đầu cuối thanh tựa đồng và mũi lưỡi hình thang nằm trên cùng một
đường thẳng theo hướng chuyển động. Đối với lưỡi mũi đục thì mũi ăn sâu vào
thành luống 5 mm.
2. Thân cày phụ
Thân cày phụ có nhiệm vụ hớt lớp đất mặt có cỏ với độ sâu 8 – 12 cm, bề
rộng 2/3 bề rộng làm việc của thân cày chính hất xuống luống đã mở sẵn bởi
thân cày trước, sau đó sẽ bị lớp đất do thân cày chính phủ lên. Tác dụng của thân
cày phụ là vùi lắp cỏ hoàn toàn. Thân
cày phụ làm việc trong điều kiện nhẹ,
hơn nữa cày với thân cày chính ổn
định nên chỉ bao gồm lưỡi, diệp lắp
trên trụ.
Lưỡi có dạng hình thang hoặc
mũi đục. Diệp cùng với lưỡi tạo nên

bề mặt thân cày dạng hình á trụ. Trụ
lắp trên khung bằng ngàm và quai
ngàm. Đầu trên của trụ có 4 lỗ để điều
chỉnh vị trí thân cày phụ theo độ cày
sâu. Lỗ trên cùng ứng với độ sâu 26 –
27 cm, lỗ thấp nhất 18 – 20 cm.
Khi cày có thân cày phụ, lực
cản kéo nói chung có tăng lên. Đất
đồng có tăng 15 – 20%, đất trồng lúa 0
– 5%. Tuy nhiên chất lượng làm đất
tăng rõ rệt và giảm nhẹ chi phí cho
khâu làm đất phụ sau cày.
Hình 7: Thân trụ cày
3. Dao cày:
Dao cày có nhiệm vụ cắt thỏi đất theo mặt thành luống, tạo cho thành
luống được phăng không bị nham nhở, thỏi đất lật được gọn, đáy luống sạch.
Dao cày có nhiệm vụ cắt đứt cỏ dại, dây leo tạo điều kiện dễ dàng cho
thân cày chính và phụ làm việc không bị vướng.
Dao cày có 2 loại: dao thẳng và dao đĩa.
GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài
Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp

11


Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

- Dao thẳng: cấu tạo dao thẳng rất đơn giản. Phần làm việc của dao có

dạng hình nêm góc mài 10 – 15 o. Cạnh sắc dao được tôi kỹ với bề rộng 40 – 50
mm ở phần dưới và 10 – 25 mm ở phần trên. Cạnh sắc của dao là đường thẳng
cắt đất từ dưới lên với góc nghiêng sao cho cắt có trượt. Dao thẳng làm việc tốt
ở đất có nhiều đá vụn nó có thể xốc đá vụn lên trên. Dao thẳng được chế tạo
bằng thép MCT – 6 hoặc L – 53.

- Dao dĩa: phần làm việc của dao cày thông dụng là dĩa thép có đường
kính 390 mm và dày 4 mm. Dọc theo cạnh sắc được tôi một vùng rộng 75 mm,
cạnh sắc được mài hai phía, mép dày 3-4 mm. Đĩa quay trên gối đỡ con lăn để
giữ bụi đất không vào gối đỡ ở nắp có vòng cao su và vòng nia. Trên trục giữa
nắp và may ơ có những vòng điều chỉnh để điều chỉnh độ giơ của đĩa. Nia có thể
quay một góc giới hạn +-20o nhờ đệm trong thời gian làm việc dao có thể định
vị vị trí lăn theo hướng chuyển động của cày. Trụ dao lắp trên khung cày. Nới
lỏng đai ốc ở quai ngàm có thể thay đổi độ cao của dao. Quay đầu vuông của trụ
sẽ thay đổi vị trí mặt phẳng cắt của dao. Dao đỉa cắt thỏi đất từ trên xuống. Nó
làm việc ở đất có cỏ, dí rễ xuống, lăn qua không bị vướng.

GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài
Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp

12


Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

Dao đĩa làm việc không tốt ở đất đá vụn vì không ăn sâu được, dao đĩa
thường được dùng trong các cày thông dụng. Lực cản kéo của dao đĩa nhỏ hơn
dao thẳng, nó chiếm khoảng 10% lực cản kéo toàn cày. Dao đĩa chế tạo bằng

thép 65T.
4. Thân cày sâu thêm
Những vùng đất bạc màu có lớp đất trồng trọt mỏng không thể cày lật lớp
đế cày lên trên mặt, người ta có biện pháp cải tạo lớp đất trồng bằng cơ giới như
GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài
Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp

13


Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

sau: dùng thân cày sâu thêm 3 – 15 cm làm tơi vỡ đáy luống cày. Trong quá
trình canh tác màu mỡ sẽ ngấm dần xuống lớp đất này và tăng dần độ phì cho nó
đồng thời cũng tăng dần bề dày lớp đất trồng. Thân cày sâu thêm lắp ngay sau
thân cày chính.
IV. Vị trí tương đối giữa các bộ phận làm việc trên khung cày
- Đối với dao thẳng: cạnh sắc dao thẳng nghiêng với mặt phẳng nằm
ngang một góc 65 – 70o lệch về phía trên so với cạnh đồng 1 cm. Mũi dao thẳng
cách mũi lưỡi cày 3 – 4 cm về phía trước và cao hơn đáy luống 3 – 4cm.
- Đối với dao đĩa: tâm dao chiếu xuống phải nằm trên đường thẳng nằm
ngang vuông gốc với hướng chuyển động vẽ ngang qua mũi lưỡi thân cày phụ 2
– 3 cm. Mặt dao đĩa nằm lệch về phía trái cách cạnh đồng thân cày chính 1 – 3
cm.
Trường hợp không có thân cày phụ, dao đĩa lắp ngang trước thân cày
chính sao cho tâm dao chiếu xuống nằm trên đường thẳng vuông góc hướng
chuyển động vẽ qua mũi lưỡi thân cày chính, vành ổ trục cao hơn mặt đồng ít
nhất là 1 cm và mặt đĩa nằm lệch về phía bên trái so với cạnh đồng thân cày

chính 1 – 3 cm.

GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài
Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp

14


Trường: Đại học Đồng Tháp

Khoa Sinh học

C. Kết luận
Việc đầu tư trang thiết bị, phương tiện máy móc phục vụ sản xuất nông
nghiệp là rất cần thiết, vì nhu cầu sản xuất không chỉ phục vụ trong nước mà còn
xuất khẩu. Bên cạnh đó, các máy làm đất hỗ trợ được cho người nông dan rất
nhiều trong sản xuất nông nghiệp nhât là trong điều kiện địa hình đất đai nhiều
khó khăn.
“Đem lại lợi ích, giảm bớt sức lao động, nâng cao năng suất là mục đích
cuối cùng mà chúng tôi hướng đến trong mỗi sản phẩm của mình. Tuy nhiên, để
các sản phẩm sáng chế đã được công nhận đến tay nhiều người lao động, nhiều
địa phương hơn nữa, chúng tôi rất mong sự quan tâm tạo điều kiện của các cấp,
các ngành liên quan, nhất là trong việc xây dựng thương hiệu cho sản phẩm”- lời
của một nhà sáng tạo ra máy cày chảo ở huyện Vĩnh Linh – Quảng Trị. Đây
cũng là mong ước chung của nhiều nhà khoa học.
Hy vọng trong một tương lai không xa ngành nông nghiệp của Việt Nam
dần dân được công nghiệp hóa để sản phẩm nông nghiệp sản xuất ra ngày càng
nhiều mà người nông dân không cần phải tốn nhiều công sức./.

GVHD: Th.S Vũ Trọng Tài

Môn: Máy công nghiệp phục vụ nông nghiệp

15



×