Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm đổi mới phương pháp giảng dạy môn tiếng anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.33 KB, 9 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm
ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP
GIẢNG DẠY MÔN TIẾNG ANH

Người thực hiện: Quách Tá Thiện
Đơn vị công tác: Phòng Giáo dục và đào tạo Tam Đư ờng.

I/ Đặt vấn đề
Hoạt động nhóm là yêu cầu tối cần thiết trong đổi mới phương pháp
giáo dục trong nhà trường hiện nay. Với mỗi giáo viên có những cách thức
tổ chức khác nhau, theo từng mục đích, yêu cầu và lượng kiến thức cần
truyền đạt trong mỗi bài giảng khác nhau. Tuy nhiên để hoạt động nhóm
có hiệu quả chúng ta cần thống nhất một số phương pháp chung sao cho dễ
thực hiện, đáp ứng được trong mọi điều kiện, hoàn cảnh nhằm đem lại kết
quả cao nhất cho mọi tiết dạy trên lớp của chúng ta mà tất cả mọi giáo viên
đều có thể thực hiện đượcmột cách dễ dàng.
1. Yêu cầu của ngành:
1.1. Nhằm nâng cao chất lượng việc thảo luận nhóm của học sinh,
giúp HS tự rèn luyện khả năng đóng góp, xây dựng bài, và phát huy tính tự

1


chủ, chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức mới một cách nhanh nhất.
Đồng thời giúp học sinh có khả năng mạnh dạn đưa ra những quan điểm
của mình trước lớp từ đó học sinh càng tự chủ hơn trong học tập.
2.1. Giúp giáo viên có thể ứng dụng, chế biến từ một cách thức
chung thành phương pháp riêng của từng cá nhân để áp dụng cho mọi tiết
dạy trên lớp và từng bước nâng cao chất lượng giảng dạy của bộ môn Anh
Văn trong cấp học trung học cơ sở.
2. Thực trạng:


- Đa số HS có khả năng suy luận lô gích rất tốt, các em có khả năng
mạnh dạn, tự tin trình bày quan điểm của mình trước đông người.
- Khả năng tự học, tự tìm kiếm thông tin của HS khá cao, tuy nhiên
chưa có điều kiện thể hiện.
- Giáo viên chúng ta đều nhiệt tình, muốn tìm tòi, sáng tao trong đổi
mới phương pháp, nhằm tìm ra cách truyền đạt tốt nhất cho bài giảng.
- Công nghệ thông tin, và trang thiết bị giáo dục đều được trang bị
nay đủ cho các trường nên việc sọan giảng rất dễ dàng và nhanh chóng.
Bên cạnh đó còn một số vấn đề cần đề cập:
- Số lượng HS ở các khối lớp cao so với yêu cầu thực tế.
- Một số không nhỏ HS yếu kém, thụ động trong hoạt động học tập.
- HS chưa quen với cách hoạt động nhóm mà chỉ ỷ lại cho HS khác
làm.
- Giáo viên một số chưa thực sự chú trọng đến vấn đề hoạt động tổ
nhóm, có người cho rằng môn của mình không thật sự cần hoạt động
2


nhóm, hoặc tiết dạy này không có gì để hoạt động nhóm nên thường cho
qua.
- GV chưa khích lệ, phát huy tính tích cực của những HS có khả
năng trong lớp một cách kịp thời.
- Các câu hỏi yêu cầu của GV chưa đủ sức năng đòi hỏi HS phải đầu
tư, suy nghĩ mà GV thường lấy ngay những câu hỏi trong sách giáo khoa
hoặc những câu hỏi quá dễ có nội dung trong sách làm đề tài hoạt động
nhóm. Hoặc đôi khi, những câu hỏi của giáo viên quá vụn vặt vì nghĩ rằng
câu hỏi khó thì các em không trả lời được.
- Hoạt động nhóm thường chỉ được thực hiện trong các tiết hội
giảng, thanh tra nên thường cho sẵn các em đáp án, từ đó các em không
cần phải suy nghĩ, tranh luận gì cả

- Việc chia nhóm, phân công nhóm chưa làm tốt, có những em
không biết mình phải làm gì và làm như thế nào, chỉ biết xúm vào nhóm để
"nhìn".
- Thời gian cho hoạt động nhóm quá ít vì GV sợ "cháy giáo án"
- Chưa có kiểm tra, chỉnh sửa, khen ngợi động viên kịp thời cho
nhóm hoạt động tốt. Chưa có những thành viên tích cực được huấn luyện
trở thành những trợ giảng cho giáo viên.
- Lượng kiến thức cần truyền tải trong một bài giảng bộ môn tiếng
Anh quá nhiều và quá dài, đặc biệt là tiếng Anh lớp 8, lớp 9, do đó thường
không đủ thời gian cho các hoạt động nhóm.
II/ Giải quyết vấn đề:
3


Cơ sở lý luận:
+ Qua quá trình giảng dạy bộ môn Anh văn tại trường THCS Thị
Trấn từ năm 2002 đến năm 2006 từ tháng 10 năm 2006 tới nay tôi công tác
tại Phòng Giáo dục và đào tạo, tôi được ph©n c«ng phụ trách chuyên môn
THCS chuyên sâu bộ môn Tiếng anh, tôi thường xuyên chỉ đạo qua các
buổi tham gia chuyên đề các cấp và qua các tiết dự giờ đồng nghiệp, tôi
mạnh dạn trình bày những quan điểm của mình về phương pháp hoạt động
nhóm trong một tiết dạy.
A / Với giáo viên:
a/ Việc chuẩn bị:
Trước hết cần nghiên cứu thật kỹ nội dung cần truyền đạt trong bài
giảng. Xác định rõ trọng tâm của bài nhằm có sự phân bố thời gian hợp lý
nhất cho từng tiểu mục.
Lập dàn ý những ý tưởng về tiến trình tiết dạy thật cụ thể nhằm khai
thác hết nội dung của bài.
Xác định rõ nội dung nào cần thiết cho hoạt động nhóm, nội dung

nào không thật cần thiết. Tránh việc dành quá nhiều thời gian cho hoạt
động nhóm hoặc bỏ quên những trọng tâm cần thiết cho hoạt động này.
Nghiên cứu tìm ra những câu hỏi thật sự cô đọng, xúc tích, có khả
năng phát huy tính tư duy, sáng tạo của học sinh. Tránh những câu hỏi dài
dòng và những câu hỏi học sinh có thể đọc câu trả lời trong sách giáo
khoa.
Chuẩn bị phiếu học tập hoặc các câu hỏi yêu cầu học sinh thảo luận
4


để phát cho các nhóm vào lúc cần thiết.
Việc phân nhóm cũng hết sức quan trọng. Cần có sự phân chia
nhóm cụ thể từ đầu năm học, mỗi nhóm không nên quá đông hoặc quá ít.
(phù hợp nhất là nhóm 4 (6 học sinh). Mỗi nhóm có 1 nhóm trưởng chỉ
huy. Mỗi tổ hoặc mỗi dãy bàn có 1 học sinh giỏi làm trợ giảng đi kiểm tra
các nhóm và cố vấn cho các nhóm hoàn thành việc được phân công đúng
thời gian quy định.
b/ Việc tiến hành tổ chức hoạt động nhóm.
Yêu cầu số lần hoạt động nhóm chỉ nên từ 2 đến 3 lần cho một tiết
dạy, nhiều quá dễ nhàm chán, ít quá tiết dạy sẽ trầm, không sôi động.
Mỗi lần yêu cầu HS hoạt động nhóm GV cần nêu câu hỏi thật rõ ràng,
mạch lạc, tránh để HS hiểu lầm ý GV hoặc không hiểu hết nội dung GV
yêu cầu.
Có sự chuẩn bị trước cho những tình huống sư phạm có thể xảy ra
ngòai yêu cầu của bài nhằm không bị động trước tư duy của HS.
Yêu cầu những "trợ giảng" đứng lên làm việc sau một thời gian nhất
định nào đó. Kiểm tra nhanh những nhóm yếu để có những gợi ý kịp thời
hoặc giúp HS có định hướng đúng theo nội dung cần thảo luận.
Yêu cầu những "trợ giảng" báo cáo nhanh kết quả hoạt động nhóm
của những nhóm còn lại.

GV đối chiếu kết quả của các nhóm. Đưa ra những nhận xét ngắn
gọn và biểu dương kịp thời những nhóm hoạt động tốt.
B/ Với học sinh:
5


a/ Việc chuẩn bị:
+ Cần có sự chuẩn bị thật kỹ theo yêu cầu của Giáo viên từ tiết
trước. Học sinh có thể tự tìm tòi, sưu tàm thêm kiến thức từ các nguồn
ngoài sách giáo khoa phục vụ cho bài học.
b/ Việc thảo luận ở trên lớp:
+ Tuyệt đối phục tùng sự chỉ huy của nhóm trưởng.
+ Phải có ý thức học tập cao, không ỷ lại cho người khác hoặc tránh
thảo luận đi quá xa yêu cầu của bài.
+ Không thảo luận quá lớn tiếng để tránh làm ồn, ảnh hưởng tới
nhóm khác.
Quá trình thực nghiệm và hiệu quả công việc:
+ Quá trình thực nghiệm của tôi đã và đang tiến hành từ đầu năm
học 2006-2007 tới nay và tôi nhận thấy kết quả giảng dạy và học tập đều
nâng lên rõ rệt, được tổ chuyên môn và chuyên môn các trường trong toàn
huyện đánh giá cao. Học sinh ngày càng ham mê và hào hứng trong các
tiết dạy của GV.
+ Học sinh có khả năng tự tìm tòi, nghiên cứu, tham khảo để tìm ra
câu trả lời từ một đề tài lớn. hoặc nội dung trong tâm của bài.
+ Số lượng học sinh hào hứng tham gia xây dựng bài ngày càng
tăng, chiếm tỷ lệ tới 90% so với trước đây chỉ đạt chừng 30%.
+ 90% học sinh hiểu bài ngay tại lớp và có khả năng thực hành tốt
các yêu cầu của giáo viên.
+ Giáo viên có điều kiện kiểm tra nhiều học sinh cùng lúc với sự trơ
6



giúp của học sinh khá, giỏi. Từ đó rút ngắn được thời gian kiểm tra phần
thực hành của học sinh dành thời gian cho những hoạt động khác.
III/ Bài học kinh nghiệm:
Kinh nghiệm cụ thể:
+ Qua quá trình thực hiện phương pháp này tôi nhận thấy sự nhiệt
tình của cả thầy và trò trong một tiết dạy có vai trò hết sức quan trọng.
+ Với giáo viên cần có sự chuẩn bị thật chu đáo trước khi dạy và
dặn dò kỹ cho học sinh chuẩn bị bài mới sau khi dạy.
+ Học sinh cần chuẩn bị kỹ phần trong tâm của bài mà không lan
man với những phần không quan trọng.
+ Thái độ của giáo viên với học sinh cũng rất cần thiết, cần có thái
độ cởi mở, chan hòa và vui vẻ với học sinh, biết khích lệ đúng lúc sẽ giúp
các em tự tin hơn khi tham gia vào bài giảng. Tránh gây không khí gò bó
nặng nề trong tiết dạy. Những câu nói vui đúng lúc sẽ có hiệu quả cao hơn
nhiều những lời giáo huấn dài dòng mà phiến diện, từ đó giúp các em giảm
được áp lực học tập.
Kết luận chung và kiến nghị.
+ Để đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới phương pháp giáo dục ở cấp
THCS, ngoài những yếu tố ngoại cảnh như chương trình, thời gian, trình
độ của học sinh, khả năng chuyên môn của giáo viên. Điều quan trong nhất
là phương thức tổ chức của giáo viên trong một tiết dạy. Theo tôi bất cứ
phương pháp nào cũng cần có sự thống nhất và có tính khả thi để mọi giáo
viên đều có thể dễ dàng thực hiện. (đặc biệt là phương pháp tổ chức hoạt
7


ng nhúm).
+ Tụi cú mt chỳt kin ngh nh v chng trỡnh Anh Vn 8 v 9 l

quỏ nng so vi trỡnh nhn thc ca hc sinh vựng sõu, trong khi ú cú
nhiu ni dung cha phự hp vi i tng hc sinh l ngi dõn tc.
Đổi mới phơng pháp giảng dạy bộ môn Tiếng Anh trong chơng trình
sách giáo khoa mới là một bớc rất quan trọng trong quá trình dạy học
Tiếng Anh, ngời giáo viên cần chủ động tìm tòi những phơng pháp tích cực
hữu hiệu nhất với từng lớp, từng bài sao cho kích thích hứng thú học tập
của học sinh, giúp các em thêm yêu thích bộ môn nói riêng và đạt kết quả
cao trong học tập các môn học nói chung, trở thành những học sinh giỏi
toàn diện.
Trên đây là một số kinh nghiệm đổi mới phơng pháp giảng dạy bộ
môn Tiếng Anh trong chơng trình sách giáo khoa mới của tôi, rất mong đợc sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp./.

Tam Đờng, ngày 25 tháng 5 năm 2008.
Ngời viết

Quách Tá Thiện
8


9



×