Tải bản đầy đủ (.docx) (223 trang)

Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 223 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận án này là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các trích dẫn khoa học và tài liệu tham khảo nêu trong luận án là trung thực.
Các kết quả nghiên cứu nêu trong luận án chưa từng được công bố trong một công
trình nào khác.

Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Tác giả luận án

Chu Thị Thu Thủy


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Fonds Direction de I’Agriculture, des Forêts et du
Commerce de I’Indochine
Nha Nông Lâm và Thương mại Đông Dương
Ban chấp hành
Bình dân nông phố ngân hàng
Chủ nghĩa tư bản
Chính trị Quốc gia
Đại học Sư Phạm
Khoa học Xã hội
Nghiên cứu Lịch sử
Nhà xuất bản
Fonds de la Résident supérieure au Tonkin
Phông Phủ Thống sứ Bắc Kỳ


Fonds du Gouvemement goural de l’Indochine
Phông Phủ Toàn quyền Đông Dương
Service du Cadastre et de la Topographie du Tonkin
Sở Địa chính Bắc Kỳ
Tư bản chủ nghĩa
Trung tâm lưu trữ Quốc gia
đ
$
Fr

AFC
BCH
CPA
CNTB
CTQG
ĐHSP
KHXH
NCLS
NXB
RST
GGI
SCTT
TBCN
TTLTQG
Đồng bạc Đông Dương
(piaster)
Tiền đồng Đông Dương
Franc



DANH MỤC CÁC BẢNG
STT
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3
Bảng 4.1
Bảng 4.2
Bảng 4.3
Bảng 4.4
Bảng 4.5
Bảng 4.6
Bảng 4.7
Bảng 4.8
Bảng 4.9
Bảng 5.1
Bảng 5.2
Bảng 5.3

Tên bảng
Chế độ khen thưởng đối với hoạt động khai hoang ở Hải
Dương thời Nguyễn
Tình hình phân hóa ruộng đất tư ở làng Mộ Trạch (Bình
Giang) đầu thế kỷ XIX
Khối lượng và sự phân bố vốn của tư bản tư nhân trong
các ngành kinh tế Đông Dương (1888 - 1918)
Các đồn điền chuyên canh ở khu vực đồng bằng Bắc Kỳ
(1884 - 1918)
Các đồn điền đa canh ở khu vực đồng bằng Bắc Kỳ

(1884 - 1918)
Sự phân bố vốn đầu tư của các công ty Đông Dương trong
các ngành kinh tế từ năm 1924 đến năm 1928
Tình hình cho vay của CPA Hải Dương từ 1928 đến 1932
Diện tích các loại cây trồng trong các đồn điền ở Hải
Dương trong những năm 1931 - 1940
Sản lượng lúa và cà phê trong các đồn điền ở Hải Dương
những năm 1931 - 1940
Diện tích và sản lượng trồng lúa ở Hải Dương, Nam Định,
Thái Bình những năm 1931 – 1933
Diện tích và sản lượng một số cây công nghiệp ở tỉnh Hải
Dương trong những năm 1931 - 1940
Những đồn điền của người Âu kết hợp trồng trọt với chăn
nuôi ở Hải Dương năm 1937
Số lượng gia súc, gia cầm ở Hải Dương từ năm 1931 đến
năm 1940
Số lượng gia súc bán ra bên ngoài ở Hải Dương
(1935 – 1937)
Cơ cấu chủ sở hữu ruộng đất ở Hải Dương năm 1930
Tình hình dân số và diện tích ruộng đất ở Hải Dương năm
1930
Các loại nông sản xuất khỏi thành phố Hải Dương trong
những năm 1938 - 1940

Trang
38
40
46
59
60

70
73
96
97
101
105
106
109
110
113
114
126



DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

STT
Biểu đồ 2.1
Biểu đồ 3.1
Biểu đồ 3.2
Biểu đồ 4.1
Biểu đồ 4.2
Biểu đồ 4.3
Biểu đồ 4.4
Biểu đồ 4.5
Biểu đồ 4.6
Biểu đồ 4.7
Biểu đồ 4.8
Biểu đồ 4.9

Biểu đồ: 5.1

Tên biểu đồ
Dân số tỉnh Hải Dương từ năm 1900 đến năm 1932
Diện tích cấy lúa các huyện tỉnh Hải Dương năm 1900
Diện tích cấy lúa ở các phủ, huyện của tỉnh Hải Dương
vụ mùa năm 1913
Cơ cấu ruộng đất ở tỉnh Hải Dương năm 1930
Sự phân bố công điền ở Hải Dương năm 1930
Các hình thức canh tác của chủ đất tỉnh Hải Dương
Diện tích lúa ở các huyện, phủ Hải Dương
năm 1932
Diện tích lúa tỉnh Hải Dương trong những năm
1931 - 1940
Sản lượng lúa tỉnh Hải Dương trong những năm
1931 - 1940
Năng suất lúa Hải Dương những năm 1931 - 1942
Diện tích và sản lượng ngô, khoai lang ở Hải Dương
trong những năm 1931 - 1940
Diện tích và sản lượng một số cây lương thực, cây hoa
quả và rau màu Hải Dương trong những năm
1931 - 1940
Cơ cấu giai cấp trong xã hội nông thôn Hải Dương

Trang
32
63
63
80
81

83
98
99
100
101
102
103
138


7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân gian có câu: “Nông suy bách nghệ bại”. Câu nói đó cho thấy vai trò quan
trọng, chủ đạo của kinh tế nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt
Nam nói chung. Vì vậy, chính quyền Nhà nước trong những thời kỳ lịch sử khác
nhau đều có những chủ trương, chính sách khuyến khích nông nghiệp phát triển.
Trong quá trình cai trị Việt Nam, thực dân Pháp rất chú trọng đến lĩnh vực
kinh tế nông nghiệp. Đặc biệt, sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nông nghiệp là lĩnh
vực được đưa lên hàng đầu trong trật tự đầu tư. Công cuộc khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp đã thúc đẩy sự chuyển biến của kinh tế nông nghiệp Việt Nam, từ
một nền kinh tế nông nghiệp mang tính chất khép kín, tự cung tự cấp sang một nền
nông nghiệp bước đầu đã có những yếu tố của kinh tế hàng hóa, sản phẩm nông
nghiệp đã trở thành hàng hóa trên thị trường.
Hải Dương là một tỉnh nằm ở khu vực trung tâm đồng bằng châu thổ sông
Hồng, có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế nông nghiệp. Tháng 8 - 1883, thực
dân Pháp đánh chiếm Thành Đông, đặt ách cai trị và ra sức khai thác kinh tế, bóc lột
sức lao động, vơ vét của cải, tài nguyên nơi đây để làm giàu cho chính quốc. Trong
đó, nông nghiệp là ngành kinh tế được thực dân Pháp chú trọng khai thác. Chủ
trương, chính sách khai thác nông nghiệp và việc thực hiện chính sách đó của chính

quyền thực dân đã đưa đến sự biến đổi trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp của tỉnh.
Sự biến đổi đó đã tác động sâu sắc tới tình hình kinh tế - xã hội Hải Dương thời
thuộc địa. Do đó, nghiên cứu sự chuyển biến của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải
Dương sẽ góp phần quan trọng vào việc làm sáng tỏ tính chất của nền kinh tế Việt
Nam thời thuộc địa, đồng thời, giúp chúng ta nhìn nhận đầy đủ và sâu sắc hơn về
công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam.


8
Thứ hai, nghiên cứu kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945
sẽ góp phần khôi phục lại bức tranh nông nghiệp toàn tỉnh thời Pháp thuộc. Qua sự
so sánh với tình hình nông nghiệp Hải Dương thời nhà Nguyễn thống trị sẽ rút ra
những nhận xét, đánh giá về mặt tích cực và hạn chế của sự phát triển kinh tế nông
nghiệp và đời sống nông dân tỉnh Hải Dương thời thuộc địa. Trên cơ sở đó, đánh giá
khách quan, toàn diện về sự thống trị của thực dân Pháp ở tỉnh Hải Dương nói riêng
và Việt Nam nói chung.
Thứ ba, trong hơn một thế kỷ qua, đã có nhiều học giả trong và ngoài nước
nghiên cứu về vấn đề kinh tế nông nghiệp Việt Nam và Đông Dương từ khi Pháp đô
hộ đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở những khía cạnh, góc độ khác nhau. Tuy
nhiên, nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945 thì
chưa có một công trình nào trình bày một cách toàn diện và có hệ thống. Bức tranh
nông nghiệp toàn tỉnh Hải Dương thời kỳ này vẫn còn là một vấn đề bỏ ngỏ. Do đó,
việc làm sáng tỏ các vấn đề xoay quanh sự biến đổi của kinh tế nông nghiệp tỉnh
Hải Dương thời kỳ thuộc địa có ý nghĩa trong việc lấp đi khoảng trống của nền sử
học nước nhà trong thời gian qua.
Thứ tư, những bài học kinh nghiệm được rút ra từ việc nghiên cứu kinh tế
nông nghiệp Hải Dương thời kỳ thuộc địa sẽ góp phần phục vụ đắc lực, hữu ích cho
sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương trong giai đoạn hiện nay,
nhất là trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đang tích cực thực hiện hiệu quả công
cuộc đổi mới nông nghiệp và nông thôn.

Thứ năm, việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần làm sáng tỏ một phần quan
trọng của lịch sử Hải Dương thời cận đại. Từ đó cung cấp những tư liệu cần thiết
phục vụ trong quá trình học tập, nghiên cứu, giảng dạy lịch sử Việt Nam thời cận
đại trong nhà trường phổ thông, cao đẳng và đại học.
Với những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Kinh tế
nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945” làm Luận án Tiến sĩ.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu


9
Thông qua nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 1945, luận án góp một cái nhìn cụ thể, toàn diện hơn về kinh tế nông nghiệp thời
Pháp thuộc ở Bắc Kỳ nói chung và đồng bằng Bắc Bộ nói riêng. Đồng thời trên cơ
sở đó đánh giá một cách khách quan, khoa học về tác động của chính sách thuộc địa
của Pháp đối với kinh tế nông nghiệp Hải Dương và rút ra những bài học kinh
nghiệm cho công cuộc phát triển nông nghiệp, đổi mới nông thôn và nâng cao đời
sống nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà
nước trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ của đề tài
Luận án tập trung làm rõ những vấn đề khoa học sau đây:
- Thứ nhất, luận án làm rõ những nhân tố tác động đến kinh tế nông nghiệp
tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945: điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế, chính trị
và xã hội có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất nông nghiệp tỉnh Hải Dương; tình
hình kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương trước năm 1883.
- Thứ hai, luận án làm rõ thực trạng kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hải Dương
thời kỳ thuộc địa và sự chuyển biến trong từng giai đoạn: giai đoạn 1883 - 1918 và
giai đoạn 1919 - 1945 trên các phương diện chủ yếu như: tình hình ruộng đất, hình
thức tổ chức sản xuất, kỹ thuật sản xuất và kết quả hoạt động sản xuất.
- Thứ ba, luận án làm rõ tác động của nông nghiệp đối với kinh tế - xã hội của
tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945. Từ đó, đánh giá khách quan về bản chất của

chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời
kỳ 1883 - 1945, với vai trò là ngành kinh tế chủ đạo của một tỉnh lớn ở Bắc Kỳ,
nằm ở trung tâm của khu vực đồng bằng châu thổ sông Hồng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu


10
- Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu tình hình kinh tế nông nghiệp
tỉnh Hải Dương chủ yếu trong giới hạn thời gian từ sau khi Pháp đánh chiếm thành
Hải Dương (19 - 8 - 1883) và bắt đầu quá trình thiết lập nền cai trị thuộc địa đến khi
Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Hải Dương thành công. Tuy nhiên, để có cái
nhìn so sánh, nội dung Luận án sẽ đề cập đến một số vấn đề của kinh tế nông
nghiệp tỉnh Hải Dương trong cả thời kỳ trước đó.
- Về không gian: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu chủ yếu là tỉnh Hải
Dương thời kỳ Pháp cai trị, căn cứ theo địa giới hành chính được quy định cụ thể
bởi các nghị định của chính quyền thuộc địa. Cụ thể đơn vị hành chính tỉnh Hải
Dương thời kỳ thuộc địa gồm các phủ, huyện sau: Nam Sách gồm 13 tổng với 98
xã; Kinh Môn gồm 8 tổng với 81 xã; Ninh Giang gồm 8 tổng với 74 xã; Bình Giang
gồm 10 tổng với 71 xã; Chí Linh gồm 6 tổng với 60 xã; Thanh Hà gồm 10 tổng với
70 xã; Kim Thành gồm 6 tổng với 58 xã; Cẩm Giàng gồm 13 tổng với 86 xã; Thanh
Miện gồm 9 tổng với 69 xã; Gia Lộc gồm 9 tổng với 80 xã; Tứ Kỳ gồm 8 tổng với
89 xã; Vĩnh Bảo gồm 12 tổng với 103 xã; Đông Triều gồm 5 tổng với 56 xã. Toàn
tỉnh có 117 tổng và 1.013 xã, tỉnh lỵ là Hải Dương. Đến năm 1923, được gọi là
thành phố Hải Dương.
- Về nội dung: Luận án tập trung đi sâu nghiên cứu những lĩnh vực cơ bản
trong kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương là trồng trọt và chăn nuôi, trên những
khía cạnh chủ yếu là tình hình ruộng đất, hình thức tổ chức sản xuất, kỹ thuật sản

xuất và kết quả hoạt động sản xuất.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Những vấn đề khoa học của luận án được giải quyết trên cơ sở tiếp cận và khai
thác những nguồn tài liệu sau đây:
- Nguồn tài liệu văn kiện Đảng và các tác phẩm của các nhà lãnh đạo Đảng,
Nhà nước (chủ yếu là thời kỳ trước năm 1945) vừa cung cấp các cứ liệu lịch sử chân
thực, chính xác, vừa giúp tác giả bổ sung nhận thức về thế giới quan và phương pháp
luận khi xem xét, đánh giá và rút ra nhận định về các vấn đề nghiên cứu.


11
- Nguồn tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, thư viện Quốc gia
Việt Nam và thư viện tỉnh Hải Dương, bao gồm các hồ sơ lưu trữ đề cập đến vấn đề
nông nghiệp tỉnh Hải Dương, cụ thể là các văn bản hành chính của chính quyền
thuộc địa như sắc lệnh, nghị định, công văn, thư từ trao đổi, … đặc biệt là các báo
cáo kinh tế, chính trị, xã hội của Công sứ tỉnh Hải Dương gửi Thống sứ Bắc Kỳ, của
chính quyền cấp phủ, huyện gửi lên chính quyền cấp tỉnh và báo cáo của Phủ Thống
sứ Bắc Kỳ, Phủ Toàn quyền Đông Dương; các tài liệu thống kê, địa bạ, bản đồ,…
Đây là nguồn tư liệu gốc, có giá trị quan trọng nhất được tác giả xử lý, khai thác
triệt để trong việc giải quyết các nhiệm vụ đặt ra cho luận án.
- Các công trình nghiên cứu đã công bố có chứa đựng những nội dung liên
quan đến cách tiếp cận hướng nghiên cứu và nội dung đề tài nghiên cứu, gồm có:
sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình, luận văn, luận án, bài nghiên cứu,
thông tin đăng trên các báo, tạp chí. Các công trình này có đề cập đến các khía cạnh
khác nhau của lịch sử kinh tế nông nghiệp Việt Nam và Đông Dương thời Pháp
thuộc nói chung, kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ này nói riêng. Đây là
nguồn tài liệu có giá trị sử dụng khác nhau, tùy theo từng thể loại, cung cấp những
thông tin khái quát hoặc cụ thể về vấn đề nghiên cứu. Qua đó, giúp tác giả có cái
nhìn tổng thể hoặc là những so sánh trong mối tương quan.

- Các tài liệu sưu tầm bao gồm hương ước, các sách báo đương thời và các tài
liệu điền dã. Nguồn tài liệu này góp phần cung cấp những thông tin cụ thể và chi
tiết cho tác giả giải quyết những nhiệm vụ của luận án.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nắm vững và vận dụng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh
về các vấn đề kinh tế, xã hội của Việt Nam và Đông Dương trong thời kỳ thuộc địa,
tác giả luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành,
trong đó sử dụng chủ yếu hai phương pháp cơ bản là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic để giải quyết những vấn đề cơ bản đặt ra. Cụ thể là:


12
Trong quá trình sưu tầm và xử lý tư liệu, tác giả tiến hành giám định, phê
phán, xác minh tư liệu để xác định độ tin cậy của nguồn tư liệu nghiên cứu. Từ đó,
tác giả tiến hành sắp xếp, chọn lọc, phân loại tư liệu theo từng vấn đề nghiên cứu.
Trên cơ sở các nguồn tư liệu khai thác được, tác giả vận dụng phương pháp
tổng hợp và phân tích tư liệu, kết hợp với các phương pháp lịch sử và phương pháp
logic nhằm khôi phục lại bức tranh toàn cảnh về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải
Dương thời kỳ thuộc địa (1883 - 1945).
Bên cạnh đó, do tiếp cận nghiên cứu ở lĩnh vực kinh tế nên đề tài còn sử dụng
một số phương pháp khác như phương pháp nghiên cứu khu vực học, thống kê,
định lượng, phân tích, so sánh,… để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
5. Đóng góp của luận án
- Luận án đã khôi phục một cách tương đối hệ thống, toàn diện về tình hình
kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945.
- Trên cơ sở làm rõ những chuyển biến của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải
Dương thời Pháp thuộc qua hai giai đoạn chính là giai đoạn 1883 - 1918 và giai
đoạn 1919 - 1945, tác giả đã đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan, khoa
học về tình hình kinh tế nông nghiệp của tỉnh Hải Dương từ năm 1883 đến năm

1945, đặc biệt là về những chính sách nông nghiệp cụ thể của chính quyền thuộc địa
áp dụng ở Hải Dương. Ngoài ra, luận án còn làm rõ tác động của kinh tế nông
nghiệp đối với kinh tế - xã hội Hải Dương thời kỳ này.
- Nội dung luận án đã góp phần lấp một khoảng trống nghiên cứu về lịch sử
địa phương Hải Dương và làm phong phú thêm những nghiên cứu về các vấn đề của
lịch sử Việt Nam cận đại, đặc biệt là vấn đề kinh tế nông nghiệp, ngành kinh tế chủ
đạo trong cơ cấu kinh tế Việt Nam thời Pháp thuộc. Nội dung luận án và hệ thống tư
liệu tham khảo được sưu tầm trong quá trình nghiên cứu sẽ là nguồn tài liệu có giá
trị phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy lịch sử ở các trường đại học, cao
đẳng nói chung, các trường phổ thông ở Hải Dương nói riêng, đồng thời phục vụ
cho công tác nghiên cứu, biên soạn lịch sử địa phương.


13
- Những kết luận khoa học của luận án và các kết quả nghiên cứu đã công bố
góp phần phục vụ cho công cuộc xây dựng, phát triển nông nghiệp, đổi mới nông
thôn và nâng cao đời sống nhân dân. Đồng thời, góp phần thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
6. Bố cục luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm 5 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu vấn đề
Chương 2: Những nhân tố tác động đến kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ
1883 - 1945
Chương 3: Kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn 1883 - 1918
Chương 4: Những chuyển biến của kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương từ
năm 1919 đến năm 1945
Chương 5: Đặc điểm và tác động của nông nghiệp đến kinh tế - xã hội tỉnh Hải
Dương thời kỳ 1883 - 1945



14
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945 là
một việc làm có ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Cho đến nay, đã có
một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời
Pháp thuộc, song chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể, toàn diện và có hệ
thống về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương từ năm 1883 đến năm 1945. Vấn đề
này mới chỉ được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập đến một cách sơ
lược hoặc chỉ nghiên cứu một khía cạnh nào đó liên quan đến kinh tế nông nghiệp
tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945. Hầu hết các công trình dưới đây chỉ mang tính
gợi mở, định hướng nghiên cứu cho tác giả luận án. Do vậy, tìm hiểu vấn đề kinh tế
nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ này vẫn còn là một khoảng trống lịch sử cần
được bù lấp.


15
Về cơ bản, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án có thể
chia thành các nhóm nghiên cứu như sau:
1.1. Các công trình nghiên cứu về kinh tế, xã hội Việt Nam thời thuộc địa
- Các sách nghiên cứu:
Cuốn sách “Souvenirs de l’Annam et du Tonkin” (Hồi ức về xứ Trung Kỳ và
Bắc Kỳ) của nhà nghiên cứu J.Masson, viết năm 1892 [113], đã đề cập đến nhiều
khía cạnh của xã hội Bắc và Trung Kỳ. Chương XIV của cuốn sách đã đề cập đến
đời sống của người dân (chủ yếu là nông dân) ở Bắc Kỳ trong những năm đầu thời
thuộc địa. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể so sánh với đời sống nông dân tỉnh Hải
Dương thời kỳ này.
Cuốn “Les concessions de terre au Tonkin” (Việc cấp phát ruộng đất ở Bắc
Kỳ) của tác giả J.Morel, xuất bản tại Pari, năm 1912 [112]. Tác phẩm gồm có 5

chương đề cập đến các vấn đề chính sau: luật về cấp phát ruộng đất; cấp phát cho
người bản xứ gồm nghị định ngày 7-7-1888 và nghị định ngày 8-11-1910; cấp phát
cho người Âu gồm nghị định ngày 5-9-1888 và nghị định ngày 18 - 8 - 1896,…;
nhân công các đồn điền và mua lại đồn điền. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể hiểu rõ
hơn về chính sách nông nghiệp, đặc biệt là chính sách ruộng đất của thực dân Pháp
ở Bắc Kỳ nói chung và Hải Dương nói riêng.
Cuốn “La Formation des classes sociales en pays Annamite” (Sự hình thành
các giai cấp xã hội ở xứ An Nam) của tác giả A. Đuymarret, xuất bản năm 1935, (do
Hoàng Đình Bình dịch sang tiếng Việt) [33] đã đề cập đến giai cấp nông dân Việt
Nam dưới chế độ cai trị thuộc địa trên các khía cạnh như: sự hình thành giai cấp, địa
bàn cư trú, quá trình bần cùng hóa, việc thuê mướn nhân công nông nghiệp, tiền
công, giao kèo… Nghiên cứu này giúp tác giả luận án hiểu sâu sắc hơn về giai cấp
nông dân Việt Nam và có cái nhìn so sánh với nông dân tỉnh Hải Dương.


16
Cuốn “Đông Dương” của Ch. Robequain, xuất bản năm 1935 (do tổ tư liệu
trường ĐHSP Hà Nội I dịch, bản dịch năm 1970) [138] đã đề cập đến điều kiện địa lý
tự nhiên của các vùng miền thuộc Đông Dương (đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ,
thượng du Bắc Bộ, Thượng Lào, Hạ Lào, Tây Nguyên, Trung Bộ mà cụ thể là vùng
Nghệ Tĩnh, Nam Bộ, Cămpuchia) và những thay đổi của Đông Dương trong giai
đoạn đầu thế kỷ XX. Mặc dù công trình này không trực tiếp đề cập đến kinh tế nông
nghiệp tỉnh Hải Dương, nhưng việc gợi mở những vấn đề liên quan đến nông nghiệp
Đông Dương là cơ sở để tác giả luận án giải quyết những nhiệm vụ của đề tài.
Cuốn “Những thủ đoạn bóc lột của tư bản Pháp ở Việt Nam” của Nguyễn
Khắc Đạm (NXB Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958) [37] gồm 9 chương đã đề cập đến
những nội dung cơ bản như: tình hình Việt Nam trước khi bị tư bản Pháp xâm
chiếm; quá trình bỏ vốn của tư bản Pháp; chính sách bóc lột về nông nghiệp của tư
bản Pháp; chính sách bóc lột về thương nghiệp của tư bản Pháp; chính sách bóc lột
về công nghiệp của tư bản Pháp; chính sách bóc lột về cho vay và vận tải của tư bản

Pháp; chính sách bóc lột thuế của tư bản Pháp; các tổ chức khoa học phục vụ cho
việc bóc lột kinh tế của tư bản Pháp ở Việt Nam. Trong đó, tác giả đã dành chương
III để nói về chính sách bóc lột về nông nghiệp của tư bản Pháp thời kỳ thuộc địa,
bao gồm các vấn đề cụ thể sau: chính sách cướp đoạt ruộng đất của tư bản Pháp ở
Việt Nam; phương thức kinh doanh đồn điền của tư bản Pháp ở Việt Nam; sự kinh
doanh về từng loại nông phẩm của tư bản Pháp ở Việt Nam; sự kinh doanh về chăn
nuôi của tư bản Pháp ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, người viết có định hướng trong
việc giải quyết những nhiệm vụ của đề tài.
Cuốn “Việt Nam thời Pháp đô hộ” của tác giả Nguyễn Thế Anh (xuất bản năm
1970 tại Sài Gòn) [4] gồm có ba phần: sự chiếm cứ quân sự; chế độ thuộc địa; phản
ứng của dân Việt Nam đối với chế độ thuộc địa. Trong chương 2 Sự khai thác kinh
tế (của phần thứ nhì) tác giả đã đề cập ít nhiều đến kinh tế nông nghiệp Việt Nam
thời Pháp thuộc. Tuy không phải là công trình nghiên cứu trực tiếp về kinh tế nông
nghiệp Việt Nam nhưng có thể coi đây là những tư liệu mang tính khái quát giúp tác
giả luận án bổ sung thêm nhận thức về vấn đề nghiên cứu của đề tài.


17
Cuốn "La Présence Financière et Economique Francaise en Indochine (1859
- 1939) (Sự hiện diện tài chính và kinh tế của Pháp ở Đông Dương (1859 - 1939))
của J.Aumiphin, do Đinh Xuân Lâm, Ngô Thị Chính, Hồ Song, Phạm Quang Trung
dịch sang tiếng Việt, xuất bản năm 1994 [5]. Cuốn sách đã nêu rõ được những biến
đổi sâu sắc mà bộ máy cai trị thuộc địa và các nhóm tài chính của Pháp đã mang lại
cho xứ Đông Dương và đã góp phần vào việc hiện đại hóa nền kinh tế Đông Dương
trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ (1939). Tác phẩm đã nghiên cứu
những vấn đề cơ bản của kinh tế Đông Dương thời thuộc Pháp như: sự lưu thông
tiền tệ; vai trò chúa tể của Ngân hàng Đông Dương trong đời sống kinh tế - tài
chính của thuộc địa; sự phân bố và hoạt động của vốn tư nhân và chính phủ Pháp
đầu tư vào Đông Dương qua các thời kỳ; sự cấu thành một khu vực kinh tế hiện đại
với một hạ tầng cơ sở kinh tế được xét cả về hai mặt định lượng và định tính, và với

những hoạt động của các nhà máy, các khu mỏ, các đồn điền lúa và cao su; cuối
cùng là các tác động của khu vực kinh tế hiện đại đó đến nền kinh tế địa phương xét
về cả hai mặt xã hội và kinh tế. Mặc dù không đề cập trực tiếp đến nông nghiệp hải
Dương nhưng đây là những cứ liệu để người viết kế thừa, tiếp thu và phát triển
trong đề tài nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945.
Cuốn “Cơ cấu kinh tế - xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858 - 1945)” của tác
giả Nguyễn Văn Khánh, xuất bản năm 2000 [99], đã đi sâu nghiên cứu về cơ cấu
kinh tế ở Việt Nam thời kỳ 1858 - 1945, trong đó có đề cập đến lĩnh vực kinh tế
nông nghiệp. Mặc dù, tác giả nghiên cứu về nông nghiệp Việt Nam nói chung và
xem xét vấn đề này như một nội dung nghiên cứu trong tổng thể cơ cấu kinh tế
nhưng đây là tư liệu gợi mở ra nhiều vấn đề liên quan đến đề tài về kinh tế nông
nghiệp tỉnh Hải Dương thời kỳ 1883 - 1945.
- Các bài báo, tạp chí khoa học:


18
Trong bài “Quá trình chuyển biến cơ cấu xã hội Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX
đến Cách mạng tháng Tám 1945” (NCLS, số 4 năm 1995), tác giả Nguyễn Văn
Khánh [96] đã nêu lên sự biến đổi của cơ cấu xã hội cổ truyền Việt Nam từ giữa thế
kỷ XIX đến năm 1945 được chia làm hai thời kỳ: từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1918
và từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm 1945. Theo tác giả “đặc điểm nổi
bật của toàn bộ cơ cấu kinh tế Việt Nam trong thời thuộc địa là sự phát triển mất
cân đối với một nền nông nghiệp nặng nề, cổ hủ bên cạnh một nền công nghiệp
mong manh, yếu ớt” [96; tr.18]. Qua đó ta có cái nhìn khách quan về cơ cấu kinh tế
- xã hội tỉnh Hải Dương thời kỳ này.
- Luận văn, luận án:
Có thể khẳng định rằng, cho đến nay chưa có một luận văn thạc sĩ, luận án
tiến sĩ lịch sử nào đề cập trực tiếp đến vấn đề kinh tế nông nghiệp tỉnh Hải Dương
thời kỳ thuộc địa. Tuy nhiên, trong những năm gần đây đã có một số luận án tiếp
cận ở một số hướng nghiên cứu mà người viết có thể tiếp thu, học hỏi và tham

khảo, bao gồm:
Luận án “Nội thương Bắc Kỳ thời kỳ 1919 - 1939” của tác giả Vũ Thị Minh
Hương, bảo vệ năm 2002 [48]. Công trình đã nghiên cứu một cách hệ thống, khoa
học về vấn đề nội thương Bắc Kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, trên các khía
cạnh chủ yếu sau: hàng hóa và giao lưu hàng hóa; thị trường; thương nhân và
thương hội; giá cả và sự biến động của giá cả trên thị trường nội địa Bắc Kỳ; hệ
thống giao thông và các phương tiện chuyên chở hàng hóa phục vụ nội thương Bắc
Kỳ. Một trong những mặt hàng quan trọng trong thương mại Bắc Kỳ từ năm 1919
đến năm 1939 là nông sản như thóc gạo, ngô, gia súc,... Trong đó, tác giả có đề cập
đến tỉnh Hải Dương. Điều này giúp người viết có cứ liệu để thực hiện những nhiệm
vụ của luận án.


19
Luận án “Đô thị Hải Dương thời kỳ thuộc địa (1883 - 1945”) của tác giả Phạm
Thị Tuyết, bảo vệ thành công năm 2011 [162]. Công trình đã nghiên cứu một cách
hệ thống về những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành, phát triển của đô thị Hải
Dương thời kỳ thuộc địa và những yếu tố tác động cụ thể trong từng giai đoạn; làm
rõ những biến đổi của đô thị Hải Dương dưới chế độ cai trị thuộc địa và sự khác
nhau trong từng giai đoạn trên các phương diện chủ yếu như: thiết chế chính trị và
chính sách quản lý đô thị; quy hoạch và diện mạo đô thị; các hoạt động kinh tế; tình
hình chính trị, xã hội và lối sống, văn hóa. Đồng thời, tác giả đã đưa ra những đánh
giá khách quan về tác động của chính sách khai thác thuộc địa và kết quả hoạt động
của chính quyền thuộc địa trong vai trò quản lý đô thị Hải Dương trên các lĩnh vực.
Trong một chừng mực nhất định, việc nghiên cứu về các hoạt động kinh tế của đô
thị Hải Dương, trong đó có kinh tế nông nghiệp của thành phố Hải Dương, dù
không nhiều, đã gợi mở ít nhiều những vấn đề khoa học khi nghiên cứu về kinh tế
nông nghiệp tỉnh Hải Dương.
1.2. Các công trình nghiên cứu về kinh tế nông nghiệp Việt Nam thời
Pháp thuộc

- Các sách nghiên cứu
Năm 1924, Henry Cucherousset đã cho xuất bản cuốn sách “Aujourd’hui
Tonkin” (Xứ Bắc Kỳ ngày nay) [28] đã đề cập đến hầu hết các lĩnh vực của xã hội
Bắc Kỳ như: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, thể dục thể thao, y tế, giao thông
vận tải… Trong đó, có một số tư liệu về thủy lợi, đồn điền của người Pháp ở Bắc
Kỳ. Qua đó, chúng ta có thể so sánh với thủy lợi và đồn điền ở Hải Dương.
Cuốn “Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ” của Ngô Vi Liễn, xuất bản năm 1926 [111] đã
giới thiệu về tỉnh Hải Dương trên các mặt: vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, địa
giới hành chính, dân cư; kinh tế; giao thông vận tải, những nơi cổ tích và thắng
cảnh. Trong đó, tác giả có đề cập đến kinh tế nông nghiệp, nhưng còn rất sơ sài:
“tỉnh Hải Dương được đất lắm màu nên việc canh nông phát đạt lắm. Người ta cấy
lúa nhiều nhất, có đến 350.000 mẫu ta. Lại giồng sắn, ngô, thuốc lào (nhất là ở
huyện Vĩnh Bảo), mía, cau, chè, bông, vân vân” [111; tr.586].


20
Cuốn "Le Tonkin" (Bắc Kỳ) của P. Gourou, viết năm 1931 bằng tiếng Pháp
[332] nghiên cứu tổng thể các lĩnh vực chính trị, văn hóa, kinh tế của Bắc Kỳ những
năm đầu thuộc địa đến năm 1931. Tác giả đã giành một chương (từ trang 110 đến
trang 135) để tìm hiểu về nông nghiệp Bắc Kỳ. Trong đó, tác giả đã đề cập đến
những vấn đề như: Các điều kiện canh tác nông nghiệp: Khí hậu, thủy lợi, đất đai,
chế độ sở hữu đất đai, lao động trong nông nghiệp; Chế độ sở hữu đất đai, sở hữu
ruộng đất, vấn đề lao động trong nông nghiệp; Vị trí, tầm quan trọng của gạo đối
với cuộc sống của con người, công việc đồng áng của người nông dân; diện tích đất
đai để sản xuất lúa gạo và sản lượng lúa gạo… Mặc dù công trình không nghiên cứu
sâu về nông nghiệp tỉnh Hải Dương, nhưng trên cơ sở những vấn đề mà tác giả đề
cập đến, chúng ta có thể so sánh với nông nghiệp tỉnh Hải Dương.
Cuốn "Economie agricole de l'Indochine" (Nông nghiệp Đông Dương, Hà
Nội, 1932) của Y.Henry (do Hoàng Đình Bình dịch) [43] đã phân tích cụ thể một số
nội dung của nông nghiệp Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ như: điều kiện vật chất và

xã hội của người làm ruộng; ruộng đất và quyền sở hữu; súc vật để kéo; công cuộc
khai thác thuộc địa của Pháp. Đặc biệt, tác giả đã nghiên cứu cụ thể về ruộng đất và
quyền sở hữu ruộng đất ở Hải Dương. Tác giả đã thống kê công phu, phân loại số
chủ đất sở hữu từ 0-1 mẫu cho đến chủ sở hữu trên 100 mẫu; chủ đất trực tiếp canh
tác và chủ đất làm cùng với tá điền; giá trung bình ruộng đất; diện tích ruộng công ở
các phủ, huyện của tỉnh Hải Dương trong thập niên 30 của thế kỷ XX. Bên cạnh đó,
tác giả còn thống kê về sự phân chia đất đai, bao gồm: sở hữu ruộng đất nhỏ (0 đến
5 mẫu, tức là 0 đến 1,8 ha), sở hữu ruộng đất trung bình (5 đến 50 mẫu, tức 1,8 đến
18 ha) và sở hữu ruộng đất lớn (trên 50 mẫu - 18 ha). Đồng thời, tác giả cũng
nghiên cứu sâu về phương thức sử dụng đất trong nông nghiệp Bắc Kỳ gồm có canh
tác trực tiếp, cho thuê đất, cho cấy rẽ và cho quản lý. Đây là nguồn tư liệu quý giúp
tác giả luận án giải quyết những nhiệm vụ đặt ra của đề tài.


21
Cuốn "La Culture du riz dans le delta du Tonkin" (Nghề trồng lúa ở đồng bằng
Bắc Kỳ, Paris 1935) của René Dumont [331] đã khái quát quy trình sản xuất lúa: từ
việc nghiên cứu khí hậu, thời tiết, chất đất, cho đến khâu cuối cùng là thu hoạch,
bảo quản và bán sản phẩm. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về nghề trồng
lúa ở Bắc Kỳ, tác giả đã đưa ra những số liệu và hình ảnh minh họa cụ thể. Trên cơ
sở đó, chúng ta có thể so sánh với nông nghiệp Hải Dương.
Cuốn “Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ” của Pierre Gourou xuất bản năm
1936 (được NXB Trẻ tái bản lại vào năm 2003) [42] bao gồm ba phần: Phần thứ
nhất nghiên cứu về môi trường vật chất; phần thứ hai nghiên cứu về cư dân nông
thôn và phần thứ ba nghiên cứu về phương tiện sống của nông dân Bắc Kỳ. Trong
đó, tác giả đã tập trung nghiên cứu về vấn đề nông nghiệp trong chương 1, phần thứ
ba, từ trang 413 đến trang 518, trên các khía cạnh như: quyền sở hữu; thâm canh
trong nông nghiệp; cây lúa; những cây trồng thứ yếu; chăn nuôi gia súc; đánh cá.
Đặc biệt, khi nghiên cứu những vấn đề trên, tác giả đã đề cập đến tỉnh Hải Dương,
cụ thể như: sự phân bổ ruộng đất công ở Hải Dương “ruộng công ở các vùng biển

rộng hơn nhiều so với các vùng nội đồng; ở huyện Vĩnh Bảo (Nam Hải Dương)
ruộng đất công quan trọng hơn nhiều so với các phủ, huyện lân cận (Tứ Kỳ, Ninh
Giang, Thanh Miện)” (tr.333, 334); trồng lúa ở Hải Dương “Tại những trạm trồng
lúa của nhà nước, người ta đã có năng suất như sau, thường là năng suất bình
quân của nhiều năm: Hải Dương 2.110 kg vụ tháng năm; 1.560 kg vụ tháng mười;
Phủ Lạng Thương 1.370 và 1.380; Sơn Tây 2.210 kg vụ tháng mười; Thái Bình
1.410 kg vụ tháng năm và 1.370 vụ tháng mười; Vĩnh Yên 2.240 và 1.270 kg” (tr.
367); chăn nuôi:“Phần Đông Nam Hải Dương, đặc biệt là các huyện Gia Lộc và
Thanh Miện, là vùng chăn nuôi lợn tích cực nhất để bán nhiều ở vùng châu thổ”
(tr.389) v.v…


22
Cuốn “Vấn đề dân cày” của tác giả Qua Ninh và Vân Đình (xuất bản năm
1937) [116] đã nghiên cứu sâu sắc về điều kiện sinh sống của nông dân Việt Nam
dưới chế độ thực dân nửa phong kiến. Trong đó, tác phẩm có đề cập đến dân cày
tỉnh Hải Dương, tuy còn sơ sài. Ví dụ như, tác phẩm đề cập đến cách chia ruộng
công ở tỉnh Hải Dương: “Trong bốn phủ huyện tỉnh Hải Dương, có 71 làng chia 3
năm một kỳ; 37 làng 6 năm một kỳ; 8 làng 5 năm một kỳ; 1 làng 10 năm một kỳ; 1
làng 4 năm một kỳ. Đôi khi có làng chia ruộng công không theo thời hạn nhất định
(như làng Hàm Hi, Tứ Kỳ, Hải Dương). Bao giờ có nhiều người chết đi hoặc lên
lão và đồng thời có nhiều người đến tuổi trưởng thành đinh, các bô kỳ mục nghe dư
luận thấy cần phải chia lại công điền, lúc đó mới chịu chi” [tr.104 - 105]. Tác phẩm
vừa giúp tác giả luận án có thêm tư liệu, vừa định hướng nghiên cứu, thực hiện
những nhiệm vụ của đề tài.
Cuốn “Phác qua tình hình ruộng đất và đời sống nông dân trước Cách mạng
tháng Tám năm 1945” của Nguyễn Kiến Giang (NXB Sự thật, Hà Nội, 1959) [40]
đã phân tích chi tiết các vấn đề về nông nghiệp và nông dân Việt Nam thời kỳ trước
Cách mạng tháng Tám. Cuốn sách gồm 9 chương. Cụ thể là: chương I: Mấy nét lớn
về nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam; chương II: Quan hệ sở hữu ruộng đất ở

nước ta (I); chương III: Quan hệ sở hữu ruộng đất ở nước ta (II); chương IV: Nông
dân bị đè bẹp dưới hai tầng bóc lột đế quốc và phong kiến; chương V: Sự xâm nhập
của chủ nghĩa tư bản vào nông thôn Việt Nam; chương VI: Sự phân hóa của nông
dân Việt Nam; chương VII: Mức sống vật chất và văn hóa của nông dân; chương
VIII: Tình hình nông dân thuộc các tộc thiểu số; chương IX: Nông dân Việt Nam
không ngừng vùng dậy đấu tranh. Tuy không trực tiếp đề cập đến kinh tế nông
nghiệp tỉnh Hải Dương nhưng trên cơ sở đó, tác giả luận án có thể so sánh với tỉnh
Hải Dương.


23
Cuốn “Tìm hiểu chế độ ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX” của tác giả
Vũ Huy Phúc (NXB KHXH, Hà Nội, 1979) [120] gồm 5 chương: Chương I: Vấn đề
ruộng đất và khung cảnh lịch sử Việt Nam thời kỳ cổ trung đại; Chương II: Chế độ
ruộng đất Nhà nước; Chương III: Chế độ ruộng đất công làng xã; Chương IV: Chế
độ ruộng đất tư hữu; Chương V: Nhà Nguyễn với vấn đề ruộng đất và nông dân nửa
đầu thế kỷ XIX. Công trình cũng đã phân tích, đánh giá sâu sắc về chế độ ruộng đất
ở Việt Nam trước khi thực dân Pháp đô hộ. Trong đó, tác giả ít nhiều có đề cập đến
tình hình ruộng đất ở tỉnh Hải Dương thời nhà Nguyễn thống trị. Mặc dù không
nghiên cứu về ruộng đất Việt Nam thời thuộc địa nhưng tài liệu có tác dụng giúp tác
giả luận án nắm được các vấn đề cơ bản khi phân tích về chế độ ruộng đất.
Cuốn “Sơ thảo lịch sử thủy lợi Việt Nam” của tác giả Phan Khánh (tập I, NXB
KHXH, Hà Nội, 1981) [100] đã nghiên cứu về thủy lợi Việt Nam từ thời dựng nước
đến Cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ đó tác giả rút ra vai trò và vị trí của thủy
lợi trong lịch sử kinh tế và xã hội Việt Nam. Cuốn sách cũng đã đề cập đến thủy lợi
Hải Dương, tuy còn sơ sài nhưng giúp chúng ta có định hướng đúng đắn, khách
quan khi nghiên cứu về vấn đề thủy lợi ở Hải Dương thời thuộc địa.
Trong tập chuyên khảo về “Nông dân và nông thôn Việt Nam thời cận đại” (tập
I, NXB KHXH, 1990) [170] có bài nghiên cứu của tác giả Cao Văn Biền với tiêu đề:
“Cơ sở kinh tế cộng đồng của làng xã Bắc Kỳ trước Cách mạng tháng Tám 1945”

(tr.67) và bài nghiên cứu của tác giả Nguyễn Đức Nghinh với tiêu đề: “Chợ nông
thôn” (tr.207) đã đề cập ít nhiều đến những vấn đề liên quan tới kinh tế nông nghiệp
Bắc Kỳ. Trên cơ sở đó, tác giả luận án có thêm cứ liệu để thực hiện đề tài.
Cuốn “Lịch sử nông nghiệp Việt Nam” của Đường Hồng Dật chủ biên, xuất
bản năm 1994 [29] đã nghiên cứu lịch sử nông nghiệp dưới nhiều góc độ như tài
nguyên nông nghiệp, ngành trồng trọt và chăn nuôi, các cây trồng chính, kỹ thuật
nông nghiệp, tổ chức nông nghiệp. Những tư liệu này góp phần định hướng cho tác
giả luận án giải quyết các vấn đề mà đề tài đặt ra.


24
Cuốn “Đồn điền của người Pháp ở Bắc Kỳ 1884 - 1918” của tác giả Tạ Thị
Thúy (Hà Nội, 1996) [151] gồm bốn phần: tính pháp lý của việc nhượng đất ở Bắc
Kỳ; những biện pháp hành chính và việc lập đồn điền; các điền chủ và nhân công
đồn điền; việc khai thác đồn điền. Trong đó, tác giả đã đề cập nhiều đến đồn điền
của người Pháp ở tỉnh Hải Dương giai đoạn 1884 - 1918 trên các khía cạnh như: các
điền chủ; nhân công; số lượng và diện tích đồn điền; việc sử dụng đất,… Ví dụ như,
tác giả đã thống kê trong giai đoạn 1884 - 1918, tỉnh Hải Dương có 5 đồn điền
chuyên canh với diện tích 615,0583 và 9 đồn điền đa canh với diện tích 5.897,46 ha
[151; tr.284, 290]. Đây là những tư liệu quan trọng giúp tác giả luận án nghiên cứu
về khu vực kinh tế đồn điền ở tỉnh Hải Dương giai đoạn 1884 - 1918.
Tác giả Trương Hữu Quýnh và Đỗ Bang đã cho xuất bản cuốn sách “Tình
hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều Nguyễn” (NXB Thuận
Hóa, 1997) [137]. Bên cạnh việc nghiên cứu chung về nông nghiệp và nông dân
Việt Nam dưới triều Nguyễn, các tác giả cũng đề cập đến nông nghiệp và nông dân
tỉnh Hải Dương “Thủy lợi và trị thủy vốn gắn liền với cây lúa nước quen thuộc từ
Bắc chí Nam. Do đó, nhà Nguyễn rất quan tâm đến công tác trị thủy. Năm 1828,
Minh Mạng cho đặt một cơ quan chuyên trông nom việc đê điều: Nha Đê chính.
Đến năm 1833, cơ quan này bị bãi bỏ. Từ đây, việc “đê điều giao cả cho tỉnh phụ
trách”, “tổng đốc, tuần phủ đôn đốc giải quyết”. Việc đắp thêm đê mới, sửa đắp đê

cũ, khai thông các dòng nước, mở cống thoát nước ứ tắc được thực hiện hàng năm.
Ở Hải Dương, lượng đê được đắp là 26.830 trượng” [137; tr.121]. Tuy nhiên, vấn
đề nông nghiệp, nông dân tỉnh Hải Dương dưới triều Nguyễn được đề cập còn rất sơ
sài. Song đây là cơ sở để nghiên cứu sinh có cái nhìn so sánh giữa nông nghiệp tỉnh
Hải Dương thời thuộc địa với nông nghiệp tỉnh Hải Dương thời nhà Nguyễn thống
trị. Đặc biệt, cuốn sách còn đề cập đến những chuyển biến trong nền kinh tế nông
nghiệp Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trên các khía cạnh sau: biến đổi về
mô hình sở hữu và tổ chức sản xuất; sự đổi mới về kỹ thuật và cơ cấu cây trồng;
chuyển biến về chăn nuôi (lợn, trâu, bò, ngựa, dê, cừu, gia cầm). Trên cơ sở đó định
hướng cho tác giả luận án giải quyết những nhiệm vụ đặt ra của đề tài.


25
Năm 1997, tác giả Phạm Quang Trung viết cuốn “Lịch sử tín dụng nông
nghiệp Việt Nam” (1875 - 1945), NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội [159]. Cuốn sách
gồm hai phần. Phần thứ nhất: Bối cảnh lịch sử của tín dụng nông nghiệp. Phần thứ
hai: Các tổ chức tín dụng nông nghiệp ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Trong đó
có đề cập đến sự ra đời và hoạt động của nông phố ngân hàng (CPA) tỉnh Hải
Dương như: CPA Hải Dương được thành lập ngày 07/11/1927 và khai trương ngày
27/11/1927 [159; tr.299]; Hoạt động địa chính tại Hải Dương trong giai đoạn 19341935 [159; tr.317]; CPA Hải Dương từ sau tháng 8 năm 1928 đã tổ chức được 480
hội đồng, năm 1930 là 647 hội đồng [159; tr.318]; Sự tiến triển về tổ chức của CPA
Hải Dương [159; tr.322];Tình hình vốn hoạt động của CPA Hải Dương năm 19311932 [159; tr.335]; Tình hình thực hiện nghiệp vụ cho vay trong các năm 1928-1932
[159; tr.342]; suất vay tỉnh Hải Dương năm 1928 [159; tr.346];Thống kê suất vay tại
CPA Hải Dương năm 1930 [159; tr.348]; Số lãi phải thực hiện trong tài khóa 1931
của CPA Hải Dương [159; tr.354]; Tình hình tài chính của CPA Hải Dương tính đến
31-12-1933 [159; tr.355]; Doanh số cho vay theo từng tháng tại CPA Hải Dương
1928-1931 [159; tr.357]; Doanh số cho vay tính theo tháng của hệ thống CPA Hải
Dương năm 1930 [159; tr.359]; Tình hình hoạt động của CPA Hải Dương trong 1 số
năm [159; tr.372]; Tình trạng các khoản vay của hệ thống CPA Hải Dương đến 292-1932 [159; tr.373]; Số nợ quá hạn ở Hải Dương tính đến 31-12-1932 [159; tr.379380]. Đây là những tư liệu quan trọng giúp tác giả luận án tìm hiểu về chính sách
xây dựng và phát triển hệ thống ngân hàng, đầu tư vốn của Pháp vào kinh tế nông

nghiệp tỉnh Hải Dương.
Năm 2011, Tạ Thị Thúy xuất bản cuốn“Việc nhượng đất, khẩn hoang ở Bắc
Kỳ từ 1919 đến 1945” (NXB Thế giới, Hà Nội) [152]. Trong công trình nghiên cứu
này, tác giả đã trình bày, phân tích về việc thiết lập đồn điền và khai thác đất hoang
theo quy chế nhượng đất chung và những hình thức khẩn hoang khác ở Bắc Kỳ giai
đoạn 1919 - 1945. Trong đó, tác giả đã đề cập đến các đồn điền ở Hải Dương từ
năm 1919 đến năm 1945 trên các khía cạnh chính là chủ đồn điền (cả người Pháp và
người Việt), diện tích, nhân công, cây trồng và vật nuôi… Trên cơ sở đó, tác giả
luận án có thêm tư liệu khi nghiên cứu về khu vực kinh tế đồn điền của tỉnh Hải
Dương giai đoạn 1919 - 1945.


×