Tải bản đầy đủ (.pdf) (313 trang)

112 điều nên biết về phong tục việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 313 trang )


Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com

Contents
LỜI NÓI ĐẦU
MỤC I: CƯỚI HỎI
1. Nam nữ thụ thụ bất thân nghĩa là gì?
2. Mối lái là gì?
3. Lễ vấn danh có ý nghĩa gì?
4. Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống có đúng không? có
cần thiết không?
5. NG ƯỜI

TRONG CÙNG HỌ CÓ LẤY NHAU ĐƯỢC KHÔNG ?

6. Sự tích tơ hồng
7. Tục thách cưới hay dở ra sao ?
8. Bánh su sê hay bánh phu thê?
9. Tiền nạp theo (hay treo) là gì?
10. Những cách gỡ bí cho bạn trẻ khi lo đám cưới
11. Cô dâu trước khi về nhà chồng phải có những thủ tục,
động tác gì ?
12. Lễ xin dâu có những ý nghĩa gì? và thủ tục tiến hành.


13. Mẹ chồng làm gì khi con dâu bắt đầu về nhà?
14. Tại sao mẹ cô dâu kiêng không đi đưa dâu?
15. Tại sao trong gói quà mẹ cho con gái trước giờ vu quy có
một chiếc trâm hay bảy chiếc kim?
16. Tại sao phải có phù dâu
17. Lễ lại mặt có ý nghĩa gì?


18. Trả lời câu hỏi không rõ câu hỏi
19. Khi người đàn bà tái giá cần có những thủ tục gì?
20. Tại sao nạ dòng không lấy được trai tơ?
21. Quan hệ vợ cả vợ lẽ ra sao?
22. Nên nhìn nhận vấn đề ly hôn như thế nào?
MỤC II: SINH DƯỠNG
23. Dạy con từ thủa bào thai
24. Tại sao có tục xin quần áo cũ cho trẻ sơ sinh?
25. Con so về nhà mạ, con rạ về nhà chồng tại sao?
26. Tại sao khi mới đẻ chưa đặt tên chính?
27. Tại sao tuổi trong khai sinh, trong văn bằng không đúng
với tuổi thật?
28. Làm lễ yết cáo tổ tiên xin đặt tên cho con vào sổ họ như
thế nào?
29. Có mấy loại con nuôi?


MỤC III: GIAO THIỆP
30. Xưng hô thế nào cho đúng?
31. Vợ chồng xưng hô với nhau thế nào?
32. Cách xưng hô trong họ
33. Phải chăng " lời chào cao hơn mâm cỗ "?
34. Nhập gia vấn húy là gì ?
35. Ai vái lạy ai?
36. Đạo thầy trò
37. Miếng trầu là đầu câu chuyện
38. Xuất xứ của tục nhuộm răng và cách nhuộm răng
39. Tại sao gọi là tóc thề?
40. Mầu sắc với truyền thống văn hóa dân tộc
41. Vì sao có tục bán mở hàng ? bán mở hàng thế nào cho

đắt khách ?
MỤC IV: ĐẠO HIẾU
42. Đạo hiếu là gì? Hiếu theo quan niệm thời xưa khác thời
nay như thế nào?
43. Tục khao lão
44. Yến lão
45. Tạo sao những năm gần đây có phong trao khôi phục
việc họ


46. Quan hệ giữa họ hàng và làng xã như thế nào
47. Ruộng hương hỏa có ý nghĩa gì?
48. Vai trò tộc trưởng xưa và nay khác nhau như thế nào?
49. Bàn thờ vọng là gì? Cách lập bàn thờ vọng
50. Hợp tự là gì? Tại sao phải hợp tự?
51. Gia phả là gia bảo có đúng không?
52. Gia phả hoàn chỉnh có những mục gì?
MỤC V: LỄ TANG
53. Thọ mai gia lễ là gia lễ nước ta hay Trung Quốc
54. Ba cha tám mẹ là những ai?
55. Chúc thư là gì?
56. Cư tang là gì ?
57. Vì sao có tục mũ gai đai chuối và chống gậy?
58. Năm hạng tang phục (Ngũ phục) là gì?
59. Cha mẹ có để tang con không?
60. Tại sao có tục kiêng không để cha mẹ đưa tang con?
61. Đám tang trong ngày tết tính liệu ra sao?
61. Đám tang trong ngày tết tính liệu ra sao?
62. Lễ cưới đã chuẩn bị sẵn vấp phải lễ tang, tính sao đây?
63. Người dự đám tang nên như thế nào?



64. Đi đường gặp đám tang nên như thế nào?
65. Người sắp chết có những dấu hiệu gì báo trước?
66. Trong những giờ phút thân nhân hấp hối, người nhà cần
làm gì?
67. Sau khi thân nhân mất, gia đình cần làm những gì?
68. Tại sao có thủ tục hú hồn trước khi nhập quan?
69. Trường hợp chết đã cứng lạnh, người co rúm không bỏ
lọt áo quan thì làm thế nào?
70. Người xưa dùng những vật gì lót vào áo quan?
71. Tại sao trước khi khâm liệm nhập quan có tục đưa người
chết nằm xuống chiếc chiếu giải dưới đất?
72. Sau lễ thành phục, trước lễ an táng phải làm gì?
73. Những người điều hành công việc trong lễ tang?
74. Lễ an táng tiến hành như thế nào?
75. Hơi lạnh ở xác chết, cách phòng?
76. Tại sao, tại sao và tại sao?
77. Hiện tượng quỷ nhập tràng
78. Lễ ba ngày (lễ tế ngu) tính từ sau khi mất hay sau khi
chôn cất?
79. Tại sao có lễ cúng cơm trong 100 ngày?
80. Làm lễ chung thất (49 ngày) và tốt khốc (100 ngày), có


phải chọn ngày không?
81. Lễ nào là lễ trọng?
82. Khi hết tang làm lễ trừ phục (đàm tế) như thế nào?
83. Vì sao có tục đốt vàng mã?
84. Chiêu hồn nạp táng là gì?

85. Hình nhân thế mạng là gì?
86. Tại sao phải cải táng? Những trường hợp nào không nên
cải táng?
87. Thiên táng là gì?
88. Đất dưỡng thi là gì?
89. Tại sao kiêng không đắp mộ trong vòng tang?
90. Tại sao khi cải táng phải cất mộ ban đêm hoặc sáng sớm
khi tặt trời chưa mọc, hoặc nếu làm ban ngày thì phải có lán
che?
91. Ma trơi hay ma chơi?
MỤC VI: GIỖ TẾT, TẾ LỄ
92. Tục bái vật là gì? Trong phong tục cổ truyền của ta có
tục bái vật không?
93. Lễ cúng giỗ vào ngày nào?
94. Mấy đời tống giỗ?
95. Trưòng hợp chết yểu có cúng giỗ không?


96. Cúng giỗ và mừng ngày sinh?
97. Tết nguyên đán có từ bao giờ?*
98. Ngày Tết có những phong tục gì?
99. Vì sao có tục kiêng hót rác đổ đi trong ba ngày tết?
100. Tại sao cúng giao thừa ngoài trời?
101. Tại sao có Tết Hàn Thực?
102. Tết Đoan Ngọ (Mồng 5 tháng 5) có những tục gì?
MỤC VII: VẤN ĐỀ CHỌN NGÀY, GIỜ
103. Có ngày tốt hay xấu không?
104. Xem ngày kén giờ
105. Chú giải bài xem ngày, kén giờ của Phan Kế Bính
106. Thế nào là âm dương, ngũ hành?

108. Lục thập hoa giáp là gì? Cách tính năm, tháng, ngày, giờ
theo can chi
109. Cách tính ngày tiết, ngày trực và ngày nhị thập bát tú
110. Cách đổi ngày dương lịch ra ngày can chi
111. Giờ hoàng đạo là gì? Cách chọn giờ hoàng đạo
112. Cách tính ngày hoàng đạo, hắc đạo?


LỜI NÓI ĐẦU
"Phong" là nền nếp đã lan truyền rộng rãi, 'Tục" là thói
quen lâu đời. Nội dung phong tục bao hàm mọi mặt
sinh hoạt xã hội....
Phong tục có thứ trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ
trong nhân dân rât bền chặt, có sức mạnh hơn cả
những đạo luật. Trong truyền thống văn hoá của dân
tộc Việt Nam, có nhiều thuần phong mỹ tục cần cho
đạo lý làm người, kỷ cương xã hội.
Một cuộc cách mạng có thể thay đổi chính thể nhanh
chóng, tiếp theo sau hàng loạt hệ thống pháp luật
được thay đổi. Phong tục cũng không ngừng biến đổi
theo trào lưu biến đổi văn hoá xã hội, nhưng dai dẳng
hơn và có quy luật riêng của nó, không dễ gì một sớm
một chiều đã được mọi người, mọi nhà, mọi tầng lớp
tuân theo. Vì tục hay thì nhiều người bắt chước nhau
làm, tục dở nhiều người cũng sẽ bắt chước nhau bỏ
dần.
Bản thân các phong tục cũng nằm trong cuộc đấu


tranh xã hội đã, đang và sẽ tiếp diễn mãi giữa cái cũ

và cái mới. Ngay như quan niệm về thẩm mỹ cũng
luôn biến đổi. Ví dụ, cái búi tóc của nam giới rõ ràng
là lạc hậu song cũng phải qua quá trình đấu tranh lâu
dài mới mất đi, nhưng bộ răng đen của nữ giới ngày
xưa được ca tụng là đẹp, là duyên dáng, mấy năm
sau Cách mạng Tháng Tám chẳng ai bắt buộc gò ép
mà tự nhiên biến mất nhường chỗ cho hàm răng trắng.
Phong trào xây dựng nếp sống văn hoá mới hiện nay,
không phải chỉ đơn thuần dựa vào ý nghĩ chủ quan mà
phải biết vận dụng thuần phong mỹ tục vào nếp sống,
nếp suy nghĩ, hành động, cách đối nhân xử thế, hợp
với trào lưu tiến hoá. Có những phong tục cổ truyền
xuất xứ từ kinh nghiệm thực tiễn trong cuộc sống thời
xưa, đến nay không hợp thời nữa, trở thành đồi
phong bại tục, ta cũng cần nghiên cứu để biết nguyên
do, từ đó mới vận dụng cho thích hợp với hiện tại và
tương lai, hoặc tìmnhững phong tục hay để bổ kết mà
loại trừ dần những cái dở.
Tất nhiên, bản chất mỗi cá nhân cũng phải sống, giao


tiếp, hoà nhập với cộng đồng xã hội, những kiểu cách
rởm, trái với phong tục, bản sắc dân tộc, trái với con
mắt của đông đảo quần chúng sẽ tự đào thải và bị
loại trừ dần. Suy rộng ra phong tục cũng vậy, phục
hồi và phát huy thuần phong tục, chắc chắn sẽ được
mọi tầng lớp nhân dân ủng hộ, hoan nghênh; phục hồi
làm sống lại những đồi phong bại tục sẽ bị xã hội lên
án.
Những nội dung trình bày dưới dạng hỏi đáp trong

cuốn sách này chỉ nhằm giải đáp phần nào xuất xứ
của các phong tục đã tồn tại ở nước ta, để các bạn
tham khảo, tự phân tích, cái nào hay nên theo, cái
nào dở nên bỏ, cái nào còn hạn chế những xét thấy
chưa thể bỏ ngay thì tuỳ hoàn cảnh cụ thể mà châm
chước vận dụng cho thích hợp...
Bản thân tác giả cũng mong góp được một phần nhỏ
trong cuộc đấu tranh nói trên. Rất mong nhận được
sự thông cảm, ủng hộ cũng như sự góp ý chân tình
của đông đảo bạn đọc gần xa.


Tân Việt
“Sách dùng dữ liệu của trang web
Của
anh Hồ Ngọc Đức, người nổi tiếng với dự án từ
điển trực tuyến đa ngôn ngữ & thuật toán tính
âm lịch…. Anh Hồ Ngọc Đức dùng bản "100
ĐIỀU NÊN BIẾT VỀ PHONG TỤC VIỆT
NAM, NXB VĂN HÓA DÂN TỘC, HÀ NỘI
xuất bản năm 2001
Nay trên ebook này tôi dùng bìa mới cũng của
NXB VĂN HÓA DÂN TỘC cùng tựa mới là"
112 ĐIỀU NÊN BIẾT VỀ PHONG TỤC VIỆT
NAM" Với mục đích bạn đọc dễ nhận diện khi
mua sách giấy. Về phần nội dung, như đã nói ở
trên, tôi bê nguyên của anh Đức rồi làm ebook
vì chưa mua được sách giấy.
-Nguyễn ThanhTuấn – Tháng Vu Lan, năm
Giáp Ngọ- 8-2014




MỤC I: CƯỚI HỎI
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com

1. Nam nữ thụ thụ bất thân nghĩa
là gì?
Đây là câu nói cửa miệng, quen dùng chỉ mối quan hệ
nam nữ theo quan niệm của nhà nho.
Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho
nhau cái gì, nhận của nhau cái gì, đều không trực tiếp
tận tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau chăng? (Hai
chữ "thụ thụ" trái ngược nghĩa: một chữ "thụ" là trao
cho, một chữ "thụ" là nhận).
Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ têm
trầu, xếp vào cơi trầu, đặt giữa bàn, khách tự nhặt lấy
mà ăn. Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình
yêu trực tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ
còn đôi mắt thầm lén nhìn nhau!
Người châu Âu từ nhỏ đến già, theo phép lịch sự bắt


tay nhau, nhảy với nhau là chuyện thường. Nhưng,
người Việt Nam và người á Đông nói chung, nam nữ
vô ý chạm vào da của người khác giới thì coi như có
cử chỉ không đứng đắn.
Người đàn ông có thái độ suồng sã sẽ bị đàn bà xa
lánh, nhưng không đáng lo bằng người con gái lẳng lơ,
bị xã hội dèm pha thì khó mà lấy được tấm chồng cho

đáng tấm chồng. Vì vậy các nhà quyền quý thường
"cấm cung" con gái. Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình
thành sự ngăn cách giới tính. Thời phong kiến xưa, chỉ
những người có tư tưởng tân tiến mới cho con gái đi
học, và có đi học thì con trai ngồi riêng con gái ngồi
riêng. Trai gái đi cùng nhau, vui chơi cùng nhau bị bạn
bè cùng lứa chế nhạo. Có hội hè đình đám cũng phải
phân biệt đàn ông đứng bên trái, đàn bà đứng bên
phải.
Ở thành thị, vợ chồng nằm ngủ với nhau một giường là
chuyện bình thường, nhưng xin các bạn lưu ý, ở nông
thôn đàn bà nằm nhà trong, đàn ông nhà ngoài đã trở
thành nếp rồi. Ngày xưa, phổ biến mọi nơi đều thế,


ngày nay lệ đó vẫn còn ở nhiều vùng, nhiều nhà. Nếu
các bạn có dịp về thăm bà con họ hàng ở quê thì tốt
nhất hai vợ chồng nên tránh nằm chung giường kẻo
các cụ còn cảm thấy chướng mà phật ý.

2. Mối lái là gì?
Trong xã hội phong kiến xưa "Nam nữ thụ thụ bất
thân" nên hôn nhân cần phải người môi giới. nếu yêu
nhau, cưới hỏi không cần mối lái sẽ bị chê trách là
"Phải lòng nhau" "Mắc phải bùa yêu". Nguyễn Du đã
vạch đường cho Kim Trọng. Thuý Kiều cứ yêu nhau
rồi sẽ "Liệu bài mối manh" nên các cụ nhà nho mới
kịch liệt phản đối khuyên con cháu rằng:
"Đàn ông thì chớ Phan Trần,
Đàn bà thì chớ Thuý Vân, Thuý Kiều"

Chu Mạnh Trinh vịnh Kiều còn nói: "Chỉ vì một tội
mối manh chưa có, thề thốt đã nhiều; trăng gió mắc
vào, phồn hoa dính mãi"...Nếu không có "Nhà băng
đưa mối" thì nhà trai làm sao biết được người thục nữ
trong cửa các phòng khuê.


Trong xã hội cũ, có những người chuyên làm nghề
mối lái, nếu đẹp đôi vừa lứa thì bà mối sẽ trở thành ân
nhân suốt đời. lễ tơ hồng xong, tạ bà mối một nửa
mâm xôi, nửa con gà kèm theo chiếc áo lụa. Chẵn
tháng con đầu lòng thế nào cũng cố mời bà mối đến
dự, để tỏ nghĩa tri ân. Nhưng cũng có nhiều tai hoạ
do những bà mối có động cơ bất chính gây nên, để
đôi trẻ suốt đời mang mối hận vì phận hẩm duyên hiu:
..."Hoặc là bởi "Mẹ thầy lộn quýt", quên những thói
mơ tôm mảng cá, qua lại ít nhiều ngọt miệng, ép uổng
duyên cô nông nỗi thế, nặng tiền tài mà nhẹ gánh tình
chung. Hay vì chưng "Mối lái đèo bòng", chẳng nhằm
khi vào lộng ra khơi, nói phô mật ngọt rót vào tai, dỗ
dành phận gái ngẩn ngơ tình, già nhân sự để non
quyền tạo hoá"...
(Trích "Văn tế sống người con gái" - Một bài văn
tế khuyết danh được truyền tụng ở Hà Tĩnh vào
đầu TKXX).
Ở xã hội mới cũng cần có bà mối, bà mối thời nay là
người cố vấn, người đỡ đầu cho đôi trẻ xây dựng


hạnh phúc lâu dài. trong tương lai, có lẽ vai trò của bà

mối là những phương tiện thông tin đại chúng (như
quảng cáo trên Đài truyền thanh truyền hình, báo chí,
chụp ảnh) và những công ty du lịch, câu lạc bộ những
người độc thân...

3. Lễ vấn danh có ý nghĩa gì?
"Lễ vấn danh" là lễ nhà trai đến nhà gái để hỏi tên tuổi
cô gái, ngày nay gọi là lễ "Chạm ngõ" hay là lễ "Dạm"
(có nơi kiêm cả lễ dạm và hỏi cùng một lúc gọi là lễ
dạm hỏi). Truyện Kiều có câu "Tiện đưa canh thiếp
trước cầm làm ghi". "Canh thiếp" là giấy ghi họ tên,
tuổi, quê quán, con ai.
Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, ở nhiều vùng
nông thôn, con gái từ khi sinh đến khi lấy chồng vẫn
chưa đặt tên, nếu như gia đình không cho con gái đi
học. Con gái không cần vào sổ họ, sổ làng, không đi
học nên cũng không cần dặt tên vội. ở trong nhà con
gái mới sinh ra được gọi là con Hĩm, con Mực, con
Chắt em...Trong nhà gọi tên gì thì xóm giềng gọi theo


tên đó. Đến làm lễ vấn danh, ông bác hoặc bố mới
đặt cho cái tên để ghi trong giấy hôn thú, có khi chính
người mang tên cũng không biết mình mang tên gì
trong giấy hôn thú, vì khi về nhà chồng lại gọi theo tên
chồng, khi có con gọi theo tên con, có cháu đích tôn
gọi theo tên cháu. Lễ vấn danh không phải để hỏi tên
mà chủ yếu là hỏi tuổi, để hai họ quyết định đôi nam
nữ hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, tuổi xung khắc thì
thôi.

Trong hôn nhân xưa chỉ chú trọng có môn đăng hộ
đối hay không, có hợp tuổi hay không, gia đình nào
thận trọng mới tìm hiểu kỹ "Công, dung, ngôn, hạnh"
(thường là các gia đình gia giáo). Chẳng những các
chàng trai, trước khi cưới chưa biết mặt vợ, mà có
những ông bố chồng là người chủ động đi hỏi dâu
cũng không biết mặt con dâu, do đó trong gia đình
sau này mới xảy ra nhiều chuyện oái oăm:
-"Cảm ơn ông bà thương đến, tôi xin đồng ý gả,
nhưng xin thưa chuyện trước: con tôi mồm mép chẳng
bằng ai!"


Tưởng như vậy là mình tìm được con dâu hiền hậu,
không đanh đá chua ngoa, ai ngờ cưới về mới biết
con dâu sứt môi!. Nhưng đã nhỡ việc, biết tính sao?
Lại có trường hợp đánh tráo: Khi đi hỏi thì cho thằng
em nhanh nhẹn và "sạch mặt" hơn đóng vai chàng rể,
đến khi cưới thì lại cưới cho thằng anh đần độn, xấu
xí. "Miếng trầu để dâu nhà người", biết tính sao đây?
Dầu sao cũng mang tiếng một đời chồng.

4. Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén
giống có đúng không? có cần thiết
không?
Đối với các cụ thì câu hỏi này thừa, vì "Nòi nào giống
ấy","Cây nào quả ấy","Giỏ nhà ai quai nhà ấy","Con
nhà công chẳng giống lông cũng giống cánh", "Tìm nơi
có đức gửi thân", ai chẳng muốn có trai hiền gái đảm,
rể thảo dâu hiền. Thời nay, một số bạn trẻ coi thường

cho là phong kiến lạc hậu. Có những đôi trai gái mới
chỉ gặp nhau trên một đoạn đường, đã vội đính ước,
tính chuyện vuông tròn, thậm chí họ đã biết rõ cả


"Ngọn nguồn lạch sông"!!!Đành rằng cũng có trường
hợp "Một ngày nên nghĩa, chuyến đò nên duyên",
song thành công là cá biệt, thất bại là phổ biến.
"Tìm tông, tìm họ" không có nghĩa là tìm chốn sang
giàu, khinh người nghèo khó, mà chủ yếu là tìm nơi có
gia giáo, có đức độ.
"Cha mẹ hiền lành để đức cho con","Đời cha ăn mặn,
đời con khát nước". Con người sinh ra lớn lên do
nhiều yếu tố xã hội chi phối, nhưng nam nữ thanh niên
mới lớn lên, trường đời chưa từng trải, giáo dục gia
đình là yếu tố quan trọng và chủ đạo. Hôn nhân là
việc hệ trọng, tác động cả đời, mà con người rất dễ
mù quáng trong tình yêu. Qua tuần trăng mật không
phải mọi việc trong quan hệ vợ chồng đều suôn sẻ.
khi có những việc khó khăn, trục trặc trong cuộc
sống, ai cũng muốn tìm điều hay lẽ phải để giải quyết
cho thoả đáng. Lúc đó cần dựa vào "Tông", vào họ
hàng, tìm những tình cảm chân thành và tri thức đúng
đắn.


"Môn đăng hộ đối", tức là tìm nơi hai gia đình, hai bên
thân thuộc, có những mặt cân đối phù hợp với nhau,
chứ đâu phải bắc bậc leo thang, kẻ khinh người
trọng.

Ngoài ra còn một yếu tố nữa: Tính đến gien di truyền.
Ngày xưa trong một vài hoàn cảnh đặc biệt có ông
chồng thoả thuận ngầm với vợ đi "Xin nòi". Xin lưu ý:
những người đàn bà đó không thuộc loại lẳng lơ đâu ta cũng chỉ cần biết nói nhỏ với nhau thôi và nhấn
mạnh "Hoàn cảnh đặc biệt"!

5. NGƯỜI TRONG CÙNG HỌ CÓ LẤY
NHAU ĐƯỢC KHÔNG?
Ở các nước Âu Mỹ, anh chị em con chú bác ruột vẫn
có quyền lấy nhau, qua tác phẩm "Ơgiêni Grăngđê" ta
thấy mối tình giữa hai anh em con chú bác ruột
Grăngđe và Ơgiêni sở dĩ trắc trở là do thói keo kiệt
biển lẩn của lão Grăngđê, chứ tác giả không đả động
đến vấn đề chung huyết thống.


Trung Quốc là một nước chịu ảnh hưởng của văn hoá
phong kiến nặng hơn ta nhiều, nhưng anh chị em con
cô, cậu ruột, con dì ruột vẫn được lấy nhau. Xem
Bảo Thoa, Bảo Ngọc... trong "Hồng Lâu Mộng" yêu
nhau, lấy nhau là chuyện bình thường.
Ở nước ta, dưới triều Trần, con cháu nhà vua chỉ
được lấy người trong Hoàng tộc (lấy sang họ khác sợ
bị nạn ngoại thích cướp ngôi). Hưng Đạo vương Trần
Quốc Tuấn lấy Thiên Thành công chúa, tức là cô ruột
của mình. Vua Trần Thánh Tông lấy Thiên Cảm
Hoàng hậu, tức chị con bác ruột. Vua Trần Minh
Tông lấy Lệ Thánh Hoàng hậu, tức con chú ruột, đều
là cháu nội vua Trần Nhân Tông vv...
Còn trong dân gian từ triều Lê về sau, nếu trong họ

nội thân cùng quê mà lấy nhau gọi là hôn thú, họ hàng
không chấp nhận. Nếu cùng họ nhưng đã xa đời,
thuộc chi khác nhau hay đã xa quê (gọi là biệt tổ ly
tông) thì vẫn lấy nhau được. Thời xưa, do trọng nam
khinh nữ, hoặc thiếu hiểu biết về gien di truyền, nên
anh chị em con cô, cậu ruột coi như khác họ vẫn có


quyền làm thông gia với nhau. Ca dao tục ngữ trong
dân gian còn ca ngợi trường hợp cháu cậu mà lấy
cháu cô, coi như "Thóc lúa trong bồ, giống má nhà
ta".
Nhưng di truyền học đã khẳng định rằng người có
chung huyết thống mà có con với nhau thì qua nhiều
đời dòng giống bị thoái hoá, có trường hợp bị quái
thai, vì vậy anh em họ lấy nhau, kể cả họ nội hay họ
ngoại đều không có lợi.
Luật pháp nước ta qui định cùng chung huyết thống
ba đời, kể cả bên bố hay bên mẹ, đều không được
lấy nhau.

6. Sự tích tơ hồng
"Tơ hồng Nguyệt lão thiên tiên" dựa theo tích Vi Cố
gặp ông lão trong một đêm trăng, ngồi kiểm sách
hướng về phía mặt trăng, sau lưng có cái túi đựng đầy
dây đỏ. Ông lão bảo cho biết đây là những văn thư
kết hôn của toàn thiên hạ. Còn những dây đỏ để
buộc chân những đôi trai gái sẽ thành vợ thành chồng.



Một hôm, Vi Cố vào chợ gặp một bà già chột mắt ẵm
đứa bé đi qua. Bỗng ông già lại hiện lên cho biết đứa
bé kia sẽ là vợ anh. Vi Cố giận, bảo đày tớ tìm giết
đứa bé ấy đi. Người đầy tớ lẻn đâm đứa bé giữa đám
đông rồi bỏ trốn. Mười bốn năm sau, quan Thứ Sử
Trương Châu là Vương Thái gả con gái cho Vi Cố.
Người con gái dung nhan tươi đẹp, giữa lông mày có
đính một bông hoa vàng. Vi Cố gạn hỏi, vợ mới bảo:
Thuở còn bé, một bà vú họ Trần bế vào chợ bị một
tên cuồng tặc đâm phải. Vi Cố hỏi: Có phải bà vú đó
chột mắt không? người vợ bảo: Đúng thế! Vi Cố kể
lại chuyện trước, hai vợ chồng càng quý trọng nhau
cho là duyên trời định sẵn.
Mẩu chuyện vui: Tình yêu làm cho con người lú lẫn.
..."Tâu Thượng đế, theo hạ thần thì thượng đế không
cần đòi lại trí khôn của con người. làm như thế không
khỏi mang tiếng là trời nhỏ nhen. Điều mà thượng đế
nên làm là hạn chế trí khôn của con người."
-"Bằng cách nào"?


×